
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................................................ 2
I. Cơ sở lý luận ....................................................................................................................... 2
1. Hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư ....................................................... 2 lOMoAR cPSD| 58702377
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ công tại Việt Nam ngày
càng gia tăng, trong khi nguồn lực ngân sách nhà nước còn hạn chế, việc tìm kiếm các
giải pháp huy động vốn ngoài ngân sách trở thành một yêu cầu cấp thiết. Mô hình Đối
tác công tư (PPP), với bản chất là sự hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và khu vực tư
nhân thông qua các hợp đồng dự án như Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (BOT),
Xây dựng – Chuyển giao (BT), hay Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (BOO), đã khẳng
định vai trò là một công cụ chiến lược. PPP không chỉ giúp giảm tải gánh nặng tài chính
cho Nhà nước mà còn dung hòa lợi ích giữa các bên, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế – xã hội thông qua việc cải thiện chất lượng hạ tầng và năng lực quản lý.
Tại Việt Nam, PPP được triển khai từ năm 1997 với các dự án BOT đầu tiên và đã trở
thành một kênh huy động vốn quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông và năng
lượng. Sự ra đời của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 đã tạo
khung pháp lý thống nhất, mở đường cho sự phát triển sâu rộng của mô hình này. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, như các dự án tiêu biểu cao tốc Hạ
Long – Hải Phòng hay Sân bay Quốc tế Vân Đồn, quá trình triển khai PPP vẫn đối mặt
với nhiều thách thức, bao gồm rủi ro tài chính, khung pháp lý chưa đồng bộ, và chậm
trễ trong giải phóng mặt bằng. Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả
dự án mà còn tác động đến niềm tin của nhà đầu tư. Do đó, việc phân tích một cách hệ
thống những lợi ích cốt lõi của PPP, đồng thời đánh giá thực tiễn triển khai trong giai
đoạn 2014 – 2024, là cần thiết để rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó đề xuất các giải pháp
hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả áp dụng mô hình PPP tại Việt Nam trong tương lai.
Vì vậy, chúng em lựa chọn đề tài: “Phân tích các lợi ích của đầu tư theo phương thức
đối tác công tư(PPP). Liên hệ thực tiễn với Việt Nam.” nhằm làm rõ các lợi ích mà
PPP mang lại, phân tích thực trạng triển khai mô hình trong thập kỷ qua, và đề xuất
những định hướng chiến lược nhằm khắc phục các bất cập, góp phần thúc đẩy sự phát
triển bền vững của PPP trong bối cảnh kinh tế – xã hội Việt Nam. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư 1.1 Khái niệm
1.1.1 Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP)
Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership – sau đây
gọi là đầu tư theo phương thức PPP) là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở lOMoAR cPSD| 58702377
hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực
hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP.
1.1.2. Hợp đồng dự án PPP
Hợp đồng dự án PPP là thỏa thuận bằng văn bản giữa cơ quan ký kết hợp đồng
với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP về việc Nhà nước nhượng quyền cho nhà đầu
tư, doanh nghiệp dự án PPP thực hiện dự án PPP. Thông thường, hợp đồng dự án PPP
bao gồm các loại sau: Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (Build - Operate
- Transfer, sau đây gọi là hợp đồng BOT); Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh
doanh (Build - Transfer - Operate, sau đây gọi là hợp đồng BTO); Hợp đồng Xây dựng
- Chuyển giao (Build - Transfer, sau đây gọi là hợp đồng BT); Hợp đồng Xây dựng - Sở
hữu - Kinh doanh (Build - Own - Operate, sau đây gọi là hợp đồng BOO); Hợp đồng
Kinh doanh - Quản lý (Operate - Manage, sau đây gọi là hợp đồng O&M); Hợp đồng
Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (Build - Transfer - Lease, sau đây gọi là hợp
đồng BTL); Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (Build - Lease - Transfer,
sau đây gọi là hợp đồng BLT).
1.1.3. Các loại hợp đồng dự án PPP
1.1.3.1.Hợp đồng BOT, BTO, BOO, O&M - hình thức thu phí từ người sử dụng.
Hợp đồng Xây dựng -Kinh doanh -Chuyển giao (Build - Operate - Transfer,
BOT): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết
thời hạn, nhà đầu từ chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng Xây dựng -Chuyển giao -Kinh doanh (Build - Transfer - Operate,
BTO): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh
công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (Build - Own - Operate, BOO):
là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được nhượng quyền để xây dựng,
sở hữu, kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng trong thời hạn nhất
định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chấm dứt hợp đồng.
Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (Operate - Manage, O&M): là hợp đồng mà
nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được nhượng quyền để kinh doanh, quản lý một
phần hoặc toàn bộ công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có trong thời hạn nhất định;
hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chấm dứt hợp đồng.
1.1.3.2. Hợp đồng BTL, BLT - hình thức Nhà nước thanh toán theo chất lượng dịch vụ.
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (Build - Transfer - Lease,
BTL): là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh
nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, lOMoAR cPSD| 58702377
doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền
cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất
định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.
Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (Build - Lease - Transfer,
BLT): là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh
nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng: sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công
trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và
thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án: hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu
tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.3.3. Hợp đồng BT - hình thức đổi nguồn lực công lấy công trình.
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (Build - Transfer, BT): là hình thức đầu
tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà
nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT
1.2. Lợi ích của đầu tư theo phương thức đối tác công tư
1.2.1 Đối với nhà nước
1.2.2 Đối với tư nhân
1.2.3. Đối với xã hội
1.3. Trình tự thực hiện dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Trình tự thực hiện dự án PPP được tiến hành như sau:
1. Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quyết định chủ trương đầu tư, công bố dự án.
2. Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, phê duyệt dự án.
3. Lựa chọn nhà đầu tư.
4. Thành lập doanh nghiệp dự án PPP và ký kết hợp đồng dự án PPP.
5. Triển khai thực hiện hợp đồng dự án PPP.
Đối với dự án PPP ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được
ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao, ứng dụng công lOMoAR cPSD| 58702377
nghệ mới theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ, quy trình dự án PPP
được thực hiện như sau:
1. Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quyết định chủ trương đầu tư, công bố dự án.
2. Lựa chọn nhà đầu tư.
3. Nhà đầu tư được lựa chọn lập báo cáo nghiên cứu khả thi.
4. Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, phê duyệt dự án.
5. Thành lập doanh nghiệp dự án PPP và ký kết hợp đồng dự án PPP.
6. Triển khai thực hiện hợp đồng dự án PPP.
1.4. Nguồn vốn thực hiện đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Để thực hiện dự án đầu tư theo phương thức PPP, có thể phối hợp nguồn vốn nhà
nước và nguồn vốn từ nhà đầu tư tư nhân, doanh nghiệp dự án.
1.4.1. Nguồn vốn nhà nước
Các dự án đầu tư theo phương thức PPP có thể sử dụng một phần nguồn vốn nhà
nước. Nhà nước có quy định cụ thể về yêu cầu nguồn vốn nhà nước sử dụng cho các
mục đích cụ thể trong bối cảnh cụ thể như:
a. Hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP;
b. Thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công;
c. Chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm;
d. Chi trả phần giảm doanh thu;
đ. Chi phí của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng, đơn vị chuẩn bị dự án
PPP, bên mời thầu để thực hiện các hoạt động thuộc nhiệm vụ của mình.
e. Chi phí của Hội đồng thẩm định dự án PPP, đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định dự án PPP.
Tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP được quy định tại Điều 69 Luật đầu
tư theo phương thức đối tác công tư 2025.
1.4.2. Nguồn vốn từ nhà đầu tư tư nhân, doanh nghiệp dự án
Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chịu trách nhiệm góp vốn chủ sở hữu, huy
động vốn vay và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện dự án theo quy định tại
hợp đồng dự án PPP. Tổng số vốn vay thông qua các hình thức vay không vượt quá
tổng số vốn vay quy định tại hợp đồng dự án PPP. lOMoAR cPSD| 58702377
Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày ký kết hợp đồng, nhà đầu tư, doanh nghiệp
dự án PPP phải hoàn thành thu xếp tài chính; đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định
chủ trương đầu tư của Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ thì thời hạn này có thể kéo
dài nhưng không quá 18 tháng.
Nhà đầu tư phải góp vốn chủ sở hữu tối thiểu một tỷ lệ phần trăm nhất định (theo
điều 77 Luật Đầu tư theo phương thức PPP năm 2025, tỷ lệ này là 15%) tổng mức
đầu tư dự án không bao gồm vốn nhà nước. Nhà đầu tư phải góp vốn chủ sở hữu theo
tiến độ thỏa thuận tại hợp đồng dự án PPP.
Doanh nghiệp dự án PPP được phát hành, mua lại trái phiếu riêng lẻ do mình đã
phát hành theo quy định của Luật Đầu tư theo phương thức PPP, pháp luật về doanh
nghiệp, pháp luật về chứng khoán để huy động vốn thực hiện dự án PPP; không được
phát hành trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ và trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ. Việc
phát hành trái phiếu để thực hiện dự án PPP phải đáp ứng được những điều kiện tại điều
78 Luật Đầu tư theo phương thức PPP năm 2025
II. Liên hệ thực tiễn phương pháp đầu tư phương thức đối tác công tư tại Việt Nam giai đoạn 2014 – 2024
1. Tổng quan tình hình mô hình PPP ở Việt Nam từ năm 2014 đến nay.
1.1 Tổng quan về PPP tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, đầu tư theo hình thức PPP được bắt đầu thực hiện từ năm 1997 với chỉ
duy nhất một hình thức hợp đồng BOT (Nghị định số 77/CP ngày 18/6/1997). Tuy nhiên,
ngày 14/02/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư, có 07 loại hợp đồng PPP được pháp luật cho phép: BOT, BTO,
BT, BOO, BTL, BLT và O&M.
Giai đoạn 2015-2019: Kinh tế nhà nước đã thực hiện kiểm toán 84 dự án đầu tư theo
hình thức hợp đồng BOT giao thông và 50 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BT.
Theo đó, phương thức đầu tư PPP đã được mở rộng, sự tham gia của Nhà nước vào dự
án PPP cũng được tăng cường (tham gia bằng đất đai, hạ tầng, quyền kinh doanh), góp
phần làm giảm gánh nặng chi ngân sách cho đầu tư công; đồng thời, làm giảm rủi ro thất
thoát vốn (không góp vốn hoặc thanh toán cho các dự án có chỉ định thầu)
Tính đến 11/2019, cả nước có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng, trong đó, 140 dự án
áp dụng loại hợp đồng BOT, 188 dự án áp dụng loại hợp đồng BT và 8 dự án áp dụng
các loại hợp đồng khác. Tổng vốn huy động vào đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng quốc gia đạt khoảng 1,6 triệu tỷ đồng.
Năm 2020, đánh dấu bước đột phá trong thể chế hóa chủ trương của Đảng về hợp tác
công tư, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, hình thành
khung pháp lý thống nhất để thực hiện các dự án đầu tư theo phương thức đối tác công
tư tạo điều kiện khơi thông nguồn lực của xã hội đóng góp xây dựng đất nước.
Năm 2021, có 03 dự án BOT giao thông được chuyển tiếp từ giai đoạn trước và đã ký;
08 dự án mới song đang giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chưa ký kết hợp đồng PPP (trong đó lOMoAR cPSD| 58702377
có 07 dự án lĩnh vực giao thông, 01 dự án BTL (Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch
vụ) lĩnh vực nước sạch.
Từ năm 2021 – 2024 (tính từ thời điểm Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư
có hiệu lực), Việt Nam có tổng cộng 36 dự án PPP mới được triển khai trên cả nước.
Đây là những dự án quy mô lớn của quốc gia, địa phương với tổng mức đầu tư khoảng
235.000 tỷ đồng. Các dự án này khi hoàn thành dự kiến sẽ hình thành gần 700 km đường
cao tốc, 2 cảng hàng không quốc tế, góp phần nâng cao cơ sở hạ tầng của quốc gia và
một số địa phương. Thông qua các dự án này, dự kiến huy động được gần 100.000 tỷ
đồng vốn đầu tư tư nhân cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
1.2. Lợi ích của PPP tại Việt Nam
Mô hình hợp tác công tư (PPP) tại Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội
rõ rệt, thể hiện trên cả phương diện phát triển hạ tầng lẫn thúc đẩy tăng trưởng.
Về hạ tầng, PPP giúp cải thiện kết nối vùng, rút ngắn thời gian di chuyển và giảm chi
phí vận tải. Tính đến năm 2020, cả nước đã triển khai khoảng 336 dự án PPP với tổng
vốn đầu tư đạt 1,6 triệu tỷ đồng, trong đó lĩnh vực giao thông chiếm hơn 80%. Giai đoạn
2011–2015, riêng Bộ GTVT đã có 26 dự án PPP (BOT & BT) hoàn thành với tổng vốn
đầu tư hơn 74.800 tỷ đồng, góp phần mở rộng mạng lưới giao thông. Tiêu biểu có thể
kể đến cao tốc TP.HCM – Trung Lương, cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn, hầm Hải Vân 2
hay cầu Thái Hà (Thái Bình – Hà Nam). Các công trình này không chỉ giảm tải cho
nhiều tuyến quốc lộ mà còn rút ngắn đáng kể thời gian đi lại; ví dụ, cao tốc TP.HCM –
Trung Lương giúp giảm tới 30% thời gian vận chuyển hàng hóa ở khu vực phía Nam,
còn cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây rút ngắn quãng đường từ TP.HCM đi
Vũng Tàu từ 2,5 giờ xuống còn khoảng 1 giờ 20 phút.
Về kinh tế, PPP đã huy động được nguồn vốn lớn từ tư nhân và nước ngoài, giảm áp lực
cho ngân sách nhà nước. Trong lĩnh vực năng lượng, các nhà máy điện BOT như Nghi
Sơn 2 và Vân Phong 1 đã thu hút hàng tỷ USD, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Bên cạnh đó, các dự án PPP còn tạo ra hàng chục nghìn việc làm trực tiếp trong quá trình
xây dựng, vận hành, bảo trì và hàng ngàn việc làm gián tiếp trong các ngành dịch vụ,
thương mại đi kèm. Khi chi phí vận tải và logistics giảm, giá hàng hóa hạ, người tiêu
dùng được hưởng lợi và sức mua nội địa tăng, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế vùng và cả nước.
Hơn nữa, sự tham gia của khu vực tư nhân trong thiết kế, xây dựng và vận hành đã giúp
nhiều dự án hoàn thành sớm hơn kế hoạch, nhanh chóng đưa vào khai thác với chất
lượng công trình được nâng cao.
Như vậy, PPP không chỉ giải quyết bài toán vốn đầu tư mà còn góp phần quan trọng
trong việc phát triển hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ công, tạo việc làm, thu hút
vốn ngoại và thúc đẩy phát triển bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.
2. Thành tựu của Việt Nam khi áp dụng mô hình PPP lOMoAR cPSD| 58702377
2.1. Thành tựu
Theo Báo cáo số 25/BC-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ, đến thời điểm báo cáo, cả
nước đã ký kết 336 dự án PPP với tổng vốn đầu tư khoảng 1,6 triệu tỷ đồng, trong đó có
140 dự án BOT, 188 dự án BT và 08 dự án khác. Nguồn lực này đã góp phần quan trọng
vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn chế.
Trong số các lĩnh vực, hạ tầng giao thông chiếm tỷ trọng lớn nhất với 220 dự án (gồm
118 dự án BOT trị giá khoảng 279.367 tỷ đồng, 99 dự án BT trị giá khoảng 117.421 tỷ
đồng và 3 dự án theo hình thức khác). Các dự án này đã giúp mở rộng mạng lưới giao
thông, cải thiện năng lực vận tải, giảm ùn tắc và chi phí logistics. Tiêu biểu có thể kể
đến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, một trong những dự án BOT thành công với doanh thu
thu phí hơn 2.339 tỷ đồng chỉ riêng năm 2020; các dự án BOT tại cửa ngõ TP.HCM như
nâng cấp QL1, QL13, QL22 và đường trục Bắc – Nam với vốn ~60.000 tỷ đồng, góp
phần khơi thông kết nối giao thương vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Ngoài ra, nhiều
công trình chiến lược như cao tốc Hạ Long – Vân Đồn, Hải Phòng – Hạ Long, các hầm
Cổ Mã, Cù Mông, Hải Vân 2 hay cầu Bạch Đằng, cảng hàng không quốc tế Vân Đồn
cũng minh chứng rõ hiệu quả của PPP trong giao thông. Theo báo cáo của Tổng cục
Đường bộ, chỉ trong quý I/2021, các trạm BOT trên cả nước đã ghi nhận hơn 58 triệu
lượt xe, thu về 3.294 tỷ đồng, cho thấy nhu cầu và vai trò to lớn của BOT trong đi lại và vận tải.
Bên cạnh giao thông, PPP cũng đã được triển khai ở nhiều lĩnh vực khác:
- Năng lượng: có 18 dự án BOT nhà máy điện với tổng vốn khoảng 857.209 tỷ đồng,
trong đó nổi bật là Nghi Sơn 2 (Thanh Hóa) và Vân Phong 1 (Khánh Hòa), giúp bổ
sung nguồn cung điện và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
- Hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế: 5 dự án (3 BT và 2 BOT) với tổng vốn hơn 28.000 tỷ đồng.
- Giáo dục: 6 dự án BT với vốn đầu tư khoảng 1.285 tỷ đồng, góp phần nâng cao cơ sở
vật chất trường học, ký túc xá.
- Văn hóa – thể thao: 11 dự án (10 BT, 1 BOT) với tổng vốn khoảng 4.632 tỷ đồng, cùng
định hướng phát triển công nghiệp văn hóa vốn có tiềm năng lớn. Các dự án PPP được
định hướng để phát triển công nghiệp văn hóa, vốn có tiềm năng lớn với khoảng 70.321
cơ sở và 1,7–2,3 triệu lao động trong giai đoạn 2018–2022, cho thấy dư địa rất lớn để
hợp tác công – tư thúc đẩy sáng tạo và dịch vụ văn hóa.
- Hạ tầng kỹ thuật đô thị: 32 dự án về nhà ở tái định cư, ký túc xá sinh viên và 20 dự án
trụ sở làm việc, bên cạnh các dự án cấp thoát nước, xử lý chất thải đô thị.
- Một số lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, du lịch trong giai đoạn này mới ở bước thí
điểm, chưa có dự án PPP lớn đưa vào vận hành, song cũng ghi nhận kết quả tích cực
như Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện E (Hà Nội) với vốn 250 tỷ đồng, giúp hiện đại
hóa dịch vụ khám chữa bệnh. lOMoAR cPSD| 58702377
Nhìn chung, thông qua hình thức PPP, đặc biệt là BOT, Việt Nam đã hình thành hệ thống
cao tốc, cầu, hầm và các công trình hạ tầng chiến lược; đồng thời mở rộng sang các lĩnh
vực năng lượng, giáo dục, y tế, văn hóa – thể thao, góp phần quan trọng trong phát triển
kinh tế – xã hội, cải thiện chất lượng dịch vụ công và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
2.2. Một số dự án tiêu biểu - Những công trình thay đổi diện mạo đất nước
Các dự án PPP đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo những công
trình hạ tầng mang tính biểu tượng, góp phần thay đổi diện mạo và thúc đẩy phát triển
kinh tế – xã hội của Việt Nam. Dưới đây là một số ví dụ nổi bật:
2.2.1. Cao tốc Hạ Long – Hải Phòng (Quảng Ninh)
Trước khi có tuyến cao tốc này, việc kết nối giữa hai trung tâm kinh tế - du lịch
lớn của miền Bắc là Hạ Long và Hải Phòng vẫn phụ thuộc vào tuyến Quốc lộ 18 và
Quốc lộ 10, vốn thường xuyên quá tải và tốn nhiều thời gian di chuyển. Sự cách trở về
mặt địa lý này đã trở thành một điểm nghẽn, kìm hãm tiềm năng phát triển tổng thể của
toàn khu vực. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của cao tốc Hạ Long – Hải Phòng không chỉ
là một dự án giao thông đơn thuần, mà là một lời giải mang tính chiến lược cho bài toán liên kết vùng.
Tầm nhìn đột phá và sự tiên phong trong tư duy đầu tư: -
Dự án cao tốc Hạ Long – Hải Phòng là một minh chứng điển hình và tiên phong
cho sự năng động, tự chủ và tư duy đổi mới của chính quyền địa phương. Thay vì chờ
đợi nguồn vốn từ ngân sách trung ương, tỉnh Quảng Ninh đã chủ động đứng ra huy
động và triển khai dự án theo mô hình Đối tác công – tư (PPP) với tổng mức đầu tư
lên đến hơn 13.600 tỷ đồng. -
Đây là một bước đi táo bạo, phá vỡ tư duy đầu tư công truyền thống, khẳng định
vai trò "nhạc trưởng" của địa phương trong việc kiến tạo hạ tầng chiến lược. Việc áp
dụng thành công mô hình PPP trong một dự án quy mô lớn như vậy đã chứng tỏ năng
lực quản trị và tạo ra một hình mẫu tham khảo quý giá cho các địa phương khác trên cả
nước về việc huy động nguồn lực xã hội hóa để giải quyết các bài toán phát triển cấp bách.
Tác động kinh tế - xã hội sâu rộng và tính lan tỏa: -
Tạo ra một cuộc cách mạng về kết nối: Với chiều dài 25,2 km, bao gồm cả cây
cầu Bạch Đằng biểu tượng, tuyến cao tốc đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự về kết
nối. Hành trình từ Hạ Long đến Hải Phòng được rút ngắn ngoạn mục từ 75 km xuống
chỉ còn 25 km, giảm thời gian di chuyển từ gần 2 giờ xuống còn khoảng 30 phút. Sự
thay đổi này đã giúp giảm đáng kể chi phí logistics, tiết kiệm thời gian cho du khách và
các phương tiện vận tải hàng hóa. -
Hoàn thiện mảnh ghép cuối cùng của tam giác kinh tế chiến lược: Hơn cả
một công trình giao thông, dự án này đã trở thành "mảnh ghép vàng" hoàn thiện và lOMoAR cPSD| 58702377
kết nối liền mạch tam giác kinh tế chiến lược Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.
Nó tạo ra một vòng tuần hoàn kinh tế thông suốt, nơi dòng chảy thương mại, du lịch và
đầu tư có thể lưu thông với tốc độ cao, cộng hưởng sức mạnh giữa thủ đô chính trị (Hà
Nội), trung tâm cảng biển (Hải Phòng) và thủ phủ du lịch (Quảng Ninh). -
Đòn bẩy kích hoạt tiềm năng và mở ra không gian phát triển mới: Tuyến cao
tốc đã trở thành đòn bẩy mạnh mẽ, không chỉ thúc đẩy ngành du lịch, thương mại và
dịch vụ của Quảng Ninh mà còn kích hoạt một làn sóng đầu tư mạnh mẽ vào các lĩnh
vực bất động sản, khu công nghiệp, và dịch vụ logistics dọc tuyến. Nó mở ra một
không gian phát triển hoàn toàn mới cho toàn bộ Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tạo
tiền đề cho sự phát triển cân bằng và bền vững hơn trong tương lai.
2.2.2. Sân bay Quốc tế Vân Đồn: Cú hích chiến lược từ kinh tế tư nhân
Trong bối cảnh ngành hàng không Việt Nam từ trước đến nay vốn được xem là
"sân chơi" độc quyền của Nhà nước, việc đầu tư và vận hành một cảng hàng không luôn
được coi là nhiệm vụ bất khả thi đối với khu vực tư nhân. Nhu cầu kết nối đường không
trực tiếp đến Quảng Ninh - một trong những trung tâm du lịch hàng đầu cả nước - ngày
càng trở nên cấp thiết, nhưng nguồn lực ngân sách nhà nước có hạn. Chính trong bối
cảnh đó, sự ra đời của Sân bay Quốc tế Vân Đồn đã trở thành một lời giải đột phá, một
biểu tượng cho sự thay đổi tư duy và niềm tin vào nội lực của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Phá vỡ tư duy, mở lối cho tư nhân trong lĩnh vực hạ tầng hàng không: -
Sân bay Quốc tế Vân Đồn là một cột mốc mang tính lịch sử, đánh dấu sự tham
gia thành công của khối kinh tế tư nhân vào một lĩnh vực hạ tầng đòi hỏi kỹ thuật phức
tạp, tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt và nguồn vốn khổng lồ. Với tư cách là sân bay tư
nhân đầu tiên tại Việt Nam, được đầu tư theo hình thức Xây dựng - Kinh doanh -
Chuyển giao (BOT) với tổng vốn hơn 7.500 tỷ đồng, dự án đã chính thức phá vỡ thế
độc quyền lâu năm của nhà nước trong đầu tư và vận hành cảng hàng không. -
Bước đi này không chỉ thể hiện tầm nhìn chiến lược của tỉnh Quảng Ninh mà còn
là một phép thử quan trọng đối với chủ trương xã hội hóa các công trình hạ tầng trọng lOMoAR cPSD| 58702377
điểm của Chính phủ. Sự thành công của nó đã tạo ra một tiền lệ quý báu, mở đường và
truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp tư nhân khác mạnh dạn tham gia vào những lĩnh
vực từng được cho là "bất khả xâm phạm".
Động lực tăng trưởng và bài học sâu sắc về xã hội hóa: -
Thiết lập một cửa ngõ giao thương quốc tế mới: Kể từ khi đi vào hoạt động
cuối năm 2018, Vân Đồn đã nhanh chóng trở thành một cửa ngõ quốc tế mới, hiện đại
và thuận tiện. Nó cho phép các chuyến bay quốc tế và nội địa hạ cánh trực tiếp xuống
Quảng Ninh, thay vì phải trung chuyển qua các sân bay lớn như Nội Bài hay Cát Bi.
Điều này đã tạo ra một lợi thế cạnh tranh vượt trội, trực tiếp hỗ trợ chiến lược thu hút
du khách quốc tế cao cấp và các nhà đầu tư nước ngoài đến với các khu kinh tế, khu
nghỉ dưỡng sang trọng của tỉnh. -
Tạo ra hệ sinh thái kinh tế lan tỏa: Sân bay Vân Đồn không chỉ là một điểm
đến và đi. Nó đã trở thành hạt nhân, tạo ra một hệ sinh thái kinh tế - dịch vụ phụ trợ
phát triển xung quanh, bao gồm logistics, vận tải, du lịch, bất động sản nghỉ dưỡng và
các dịch vụ cao cấp khác. Nó là động lực mạnh mẽ, góp phần hiện thực hóa mục tiêu
xây dựng Đặc khu kinh tế Vân Đồn trong tương lai. -
Minh chứng thuyết phục về năng lực của kinh tế tư nhân: Quan trọng hơn cả,
dự án là minh chứng hùng hồn nhất cho thấy khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam hoàn
toàn có đủ năng lực, tầm nhìn và tiềm lực tài chính để đầu tư và vận hành các công
trình hạ tầng phức tạp nhất. Thành công này giúp giảm đáng kể gánh nặng cho ngân
sách nhà nước, đồng thời khẳng định chủ trương xã hội hóa là một hướng đi đúng đắn
để huy động tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển của đất nước.
2.2.3. Cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn
Tuyến Quốc lộ 1A đoạn qua Bắc Giang – Lạng Sơn từ lâu đã trở thành một trong
những cung đường huyết mạch nhưng cũng quá tải nhất cả nước, gánh trên mình phần
lớn lưu lượng hàng hóa giao thương với Trung Quốc qua cửa khẩu Hữu Nghị. Tình trạng lOMoAR cPSD| 58702377
ùn tắc thường xuyên và hạ tầng xuống cấp đã trở thành một điểm nghẽn lớn, làm tăng
chi phí logistics và giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Dự án cao tốc Bắc
Giang – Lạng Sơn ra đời với sứ mệnh giải quyết triệt để bài toán này, được kỳ vọng sẽ
mở ra một chương mới cho hoạt động kinh tế biên mậu.
Vai trò chiến lược trong hành lang kinh tế quốc gia: Với tổng vốn đầu tư lên đến
12.188 tỷ đồng theo hình thức BOT, cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn không chỉ là một dự
án giao thông trọng điểm của khu vực. Nó được xác định là xương sống của hành lang
kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, đóng vai trò là tuyến huyết
mạch kết nối trực tiếp vùng trung du và miền núi phía Bắc với Đồng bằng sông
Hồng và các cảng biển lớn. Tầm quan trọng chiến lược của dự án nằm ở việc tạo ra một
hành lang vận tải cao tốc thông suốt, hiện đại, phục vụ trực tiếp cho hoạt động xuất nhập
khẩu qua cửa khẩu Hữu Nghị, cửa ngõ giao thương đường bộ lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Thành tựu và bài học đắt giá: Thực tiễn triển khai dự án đã cho thấy một bức tranh
đa chiều với hai mảng màu sáng tối rõ rệt. -
Thành công không thể phủ nhận về hạ tầng và kết nối: Về mặt hạ tầng, dự án
là một thành công lớn. Tuyến cao tốc đã cải thiện triệt để năng lực vận tải, rút ngắn
thời gian di chuyển giữa Hà Nội và Lạng Sơn xuống còn khoảng 2 giờ so với 3-4
giờ trước đây. Điều này đã tạo ra một đòn bẩy phát triển mạnh mẽ cho kinh tế các tỉnh
Lạng Sơn và Bắc Giang, thúc đẩy hoạt động thương mại biên giới trở nên sôi động,
nhanh chóng và hiệu quả hơn. Dòng chảy hàng hóa, đặc biệt là nông sản, được lưu thông
thuận lợi, góp phần nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cho kinh tế địa phương. -
Bài học kinh điển về rủi ro dự báo và khủng hoảng tài chính: Tuy nhiên, mảng
tối của dự án lại nằm ở khía cạnh tài chính. Dự án đã trở thành một bài học kinh điển
và đắt giá về rủi ro trong công tác dự báo lưu lượng xe. Các kịch bản doanh thu ban
đầu đã được xây dựng một cách quá lạc quan, trong khi thực tế lưu lượng phương tiện
lại thấp hơn rất nhiều so với dự kiến. Sự chênh lệch này đã dẫn đến một hậu quả tất yếu:
phương án tài chính của dự án hoàn toàn bị phá vỡ. Doanh thu thu phí không đủ để
bù đắp chi phí vận hành và trả nợ vay ngân hàng, đẩy nhà đầu tư đến bờ vực phá sản.
Để cứu vãn dự án, một giải pháp tình thế đã được đưa ra là kéo dài thời gian
thu phí tới năm 2048. Dù giúp dự án không bị đổ vỡ, quyết định này đã gây ra nhiều
tranh cãi gay gắt, đặt ra thách thức lớn trong việc đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà
nước, nhà đầu tư và người dân, đồng thời làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của xã
hội vào tính minh bạch và hiệu quả của các dự án BOT. lOMoAR cPSD| 58702377
2.2.4. Nhà máy điện BOT Nghi Sơn 2 (Thanh Hóa):
Trong bối cảnh Việt Nam đối mặt với thách thức lớn về an ninh năng lượng để
phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là nguy cơ thiếu điện
luôn hiện hữu tại khu vực miền Bắc, việc thu hút các dự án năng lượng quy mô lớn là
một nhiệm vụ chiến lược. Dự án Nhà máy Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 ra đời không
chỉ để giải quyết bài toán cung ứng điện, mà còn là một phép thử quan trọng cho khả
năng thu hút và hợp tác với các nhà đầu tư quốc tế hàng đầu trong một lĩnh vực phức
tạp và đòi hỏi cam kết dài hạn.
Quy mô tầm cỡ và dấu ấn hợp tác quốc tế: -
Dự án Nhà máy Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 là một trong những dự án FDI trong
lĩnh vực năng lượng có quy mô lớn nhất từng được triển khai tại Việt Nam. Với tổng
vốn đầu tư vượt mốc 2,8 tỷ USD, dự án là kết quả của sự hợp tác thành công giữa các
tập đoàn năng lượng hàng đầu từ Nhật Bản và Hàn Quốc – những quốc gia có yêu cầu
rất cao về công nghệ, môi trường và sự minh bạch trong đầu tư. -
Việc thu hút thành công một nguồn vốn FDI chất lượng cao và quy mô lớn như
vậy không chỉ thể hiện tầm vóc của dự án. Quan trọng hơn, nó là một minh chứng đắt
giá cho sức hút và sự tin cậy của môi trường đầu tư Việt Nam. Điều này cho thấy
các đối tác quốc tế lớn ngày càng tin tưởng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô và tính nhất
quán trong chính sách của Việt Nam, sẵn sàng cam kết đầu tư dài hạn vào các lĩnh vực
hạ tầng trọng yếu của đất nước.
Đóng góp chiến lược vào an ninh năng lượng quốc gia -
Bổ sung nguồn cung điện ổn định và quy mô lớn: Kể từ khi chính thức đi vào
vận hành thương mại vào năm 2022, nhà máy đã bổ sung công suất 1.200 MW vào hệ
thống điện quốc gia. Đây là một con số cực kỳ có ý nghĩa, đủ khả năng cung cấp điện
cho hàng triệu hộ gia đình và hàng loạt khu công nghiệp. Quan trọng hơn, là một nhà
máy nhiệt điện, nó cung cấp một nguồn điện nền ổn định, có vai trò then chốt trong lOMoAR cPSD| 58702377
việc đảm bảo sự cân bằng và an toàn cho toàn hệ thống, đặc biệt khi các nguồn năng
lượng tái tạo (gió, mặt trời) còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. -
"Trái tim năng lượng" cho Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc: Nguồn cung
điện ổn định từ Nghi Sơn 2 đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đảm bảo an
ninh năng lượng cho khu vực miền Bắc, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp lớn và
có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất cả nước. Nó đáp ứng nhu cầu điện năng ngày
càng tăng cho sản xuất và sinh hoạt, góp phần tạo ra một môi trường đầu tư ổn định,
không bị gián đoạn bởi nguy cơ thiếu điện. -
Gửi đi thông điệp mạnh mẽ đến cộng đồng đầu tư quốc tế: Trong bối cảnh
cạnh tranh thu hút FDI toàn cầu ngày càng gay gắt, sự thành công của dự án Nghi Sơn
2 đã gửi đi một thông điệp mạnh mẽ. Nó khẳng định Việt Nam là một điểm đến đầu tư
hấp dẫn, an toàn và đáng tin cậy trong lĩnh vực hạ tầng năng lượng. Thành công này
giúp củng cố niềm tin của các nhà đầu tư, mở ra cơ hội thu hút thêm nhiều dự án quy
mô lớn và chất lượng cao khác trong tương lai.
3. Những rủi ro và thất thoát trong thực tiễn
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc triển khai đầu tư theo phương thức đối
tác công tư tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc, gây ảnh hưởng đến
hiệu quả dự án và niềm tin của xã hội. Các hạn chế chủ yếu có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, rủi ro tài chính và doanh thu luôn là thách thức lớn nhất. Nhiều dự
án PPP, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông, có doanh thu thực tế thấp hơn đáng kể so với
dự báo trong phương án tài chính ban đầu. Điển hình như cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn
hoặc một số trạm BOT trên Quốc lộ 1, doanh thu không đạt kỳ vọng đã làm phá vỡ kế
hoạch hoàn vốn, buộc phải kéo dài thời gian thu phí, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp.
Thứ hai, khung pháp lý còn thiếu đồng bộ và thiếu tính ổn định. Trước khi
Luật PPP năm 2020 có hiệu lực, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PPP còn phân
tán, chồng chéo và thiếu chi tiết, dẫn đến khó khăn trong quá trình chuẩn bị dự án, đàm lOMoAR cPSD| 58702377
phán, ký kết cũng như xử lý tranh chấp. Ngay cả sau khi có Luật PPP, một số quy định
như cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu vẫn chưa được thực thi thống nhất, làm giảm sức
hấp dẫn của mô hình đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ ba, huy động vốn dài hạn gặp nhiều trở ngại. Các dự án PPP thường cần
nguồn vốn lớn và có vòng đời từ 15–20 năm, trong khi hệ thống ngân hàng trong nước
chủ yếu huy động vốn ngắn hạn. Sự “lệch pha” kỳ hạn này dẫn đến rủi ro lãi suất và
thanh khoản, khiến nhà đầu tư khó xây dựng phương án tài chính bền vững. Hệ quả là
khả năng tiếp cận nguồn vốn ổn định cho PPP bị hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh thị
trường tín dụng thận trọng hơn sau những dự án kém hiệu quả.
Thứ tư, giải phóng mặt bằng chậm trễ và chi phí đền bù cao tiếp tục là điểm
nghẽn phổ biến. Thủ tục hành chính rườm rà, chính sách bồi thường thiếu đồng bộ và
những vướng mắc trong xác định nguồn gốc đất đã kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí
đầu tư và giảm hiệu quả tài chính.
Thứ năm, thiếu minh bạch thông tin và sự đồng thuận xã hội. Một số dự án
BOT bị phản đối gay gắt do vị trí đặt trạm thu phí chưa hợp lý hoặc mức phí cao. Nguyên
nhân chính là thiếu công khai về phương án tài chính, thời gian thu phí và cơ chế giám
sát. Sự thiếu minh bạch này đã làm xói mòn niềm tin của cộng đồng, ảnh hưởng đến uy
tín và triển vọng của các dự án PPP trong tương lai.
Cuối cùng, tính ổn định của chính sách và tầm nhìn chiến lược về thị trường
PPP còn hạn chế. Với thời hạn hợp đồng kéo dài hàng chục năm, nhà đầu tư rất lo ngại
trước nguy cơ thay đổi chính sách hoặc quy hoạch. Điều này khiến họ yêu cầu mức lợi
nhuận cao hơn, thời gian thu hồi vốn dài hơn để bù đắp rủi ro, từ đó gián tiếp làm tăng
chi phí xã hội. Đồng thời, việc thiếu một chiến lược đồng bộ để hình thành thị trường
PPP lâu dài khiến các dự án vẫn mang tính đơn lẻ, chưa tạo được sức hút đủ lớn.
4. Giải pháp đề xuất để nâng cao hiệu quả
Để nâng cao hiệu quả và thu hút bền vững nguồn vốn cho PPP, cần triển khai
đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng tính dự báo. Cần rà soát, bổ
sung và cụ thể hóa Luật PPP 2020 bằng các văn bản dưới luật, đồng thời ban hành hợp
đồng mẫu theo từng lĩnh vực. Cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu phải được thiết kế rõ ràng,
công bằng, bảo đảm quyền lợi của cả Nhà nước và nhà đầu tư.
Thứ hai, đa dạng hóa nguồn vốn và phát triển thị trường tài chính cho PPP.
Khuyến khích sự tham gia của các định chế tài chính quốc tế, các quỹ đầu tư hạ tầng;
phát triển thị trường trái phiếu dự án; nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển hạ tầng để hỗ
trợ vốn mồi và bảo lãnh cho các dự án chiến lược. Qua đó, giảm dần sự phụ thuộc vào
tín dụng ngân hàng trong nước.
Thứ ba, nâng cao chất lượng lựa chọn dự án và nhà đầu tư. Các dự án phải
được thẩm định kỹ lưỡng về nhu cầu, tính khả thi và hiệu quả kinh tế – xã hội. Việc lựa lOMoAR cPSD| 58702377
chọn nhà đầu tư cần thông qua đấu thầu cạnh tranh, công khai, minh bạch, hạn chế tối
đa chỉ định thầu để đảm bảo tính công bằng và chọn được đối tác có đủ năng lực.
Thứ tư, tăng cường công khai, minh bạch và tham vấn cộng đồng. Toàn bộ
thông tin về tổng mức đầu tư, phương án tài chính, mức phí, thời gian thu phí và tiến độ
dự án cần được công bố rộng rãi. Việc tham vấn cộng đồng ngay từ giai đoạn chuẩn bị
dự án là hết sức cần thiết để nâng cao sự đồng thuận xã hội, hạn chế xung đột.
Thứ năm, tăng cường giám sát, thanh tra và chế tài nghiêm minh. Cần xác
định rõ trách nhiệm của các bên liên quan, đồng thời nâng cao vai trò của các cơ quan
thanh tra, kiểm toán trong giám sát việc sử dụng vốn và chất lượng công trình. Các hành
vi vi phạm, tham nhũng, lãng phí phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh.
Thứ sáu, mở rộng áp dụng PPP sang các lĩnh vực xã hội thiết yếu. Ngoài hạ
tầng giao thông và năng lượng, cần khuyến khích PPP trong các lĩnh vực y tế, giáo dục,
xử lý rác thải, cung cấp nước sạch… Đây là những lĩnh vực vừa mang lại lợi ích kinh tế
vừa tạo giá trị cộng đồng lâu dài. III. Bài học rút ra
Mặc dù hình thức PPP mở ra cơ hội huy động nguồn lực tư nhân vào phát triển
hạ tầng, nhưng việc triển khai còn gặp không ít khó khăn, từ khung pháp lý cho đến cơ
chế quản lý rủi ro và huy động vốn. Từ những hạn chế còn tồn tại trong mô hình PPP
cùng với các giải pháp chung đã được phân tích, nhóm đã rút ra một số bài học quan
trọng theo góc nhìn của nhà đầu tư như sau:
Một trong những hạn chế lớn nhất của khung pháp lý hiện nay là chưa có cơ chế
đủ mạnh để buộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm khi không thực hiện
đúng các nghĩa vụ trong dự án PPP. Trên thực tế, tình trạng chậm giải phóng mặt bằng,
chậm bố trí vốn hỗ trợ hay thay đổi chính sách đột ngột đã gây thiệt hại đáng kể cho
nhiều nhà đầu tư, nhưng việc xử lý trách nhiệm lại không rõ ràng. Bài học rút ra ở đây
là các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào sự thiện chí của Nhà nước mà phải chủ
động bảo vệ mình ngay từ khâu đàm phán hợp đồng. Hợp đồng dự án cần được coi là
văn bản pháp lý cao nhất, trong đó tất cả các cơ chế hỗ trợ tài chính, nghĩa vụ hành chính
và trách nhiệm thanh toán của phía Nhà nước phải được ràng buộc chặt chẽ và thể hiện
cụ thể bằng các điều khoản rõ ràng. Đặc biệt, các nội dung như tiến độ bàn giao mặt
bằng, cam kết bố trí vốn đúng hạn hay cơ chế xử lý khi chính sách thay đổi ảnh hưởng
đến phương án tài chính đều phải được làm rõ để tránh tranh chấp phát sinh. Bên cạnh
đó, hợp đồng cũng cần có các điều khoản dự phòng rủi ro pháp lý, quy định cơ chế bồi
thường, hỗ trợ hoặc gia hạn khi sự chậm trễ đến từ phía Nhà nước, đồng thời xác định
nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật và cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại hoặc tòa án quốc tế để tăng tính an toàn pháp lý. Cách tiếp cận này không chỉ giúp
doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro tài chính và đảm bảo quyền lợi khi triển khai dự án, mà
còn nâng cao niềm tin của các tổ chức tín dụng và nhà đầu tư thứ cấp, qua đó góp phần
tạo sự ổn định và bền vững cho mô hình PPP. lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ hai, vấn đề phân bổ rủi ro là một kinh nghiệm quan trọng khác. Trong nhiều
dự án PPP, khu vực tư nhân thường phải gánh vác phần lớn trách nhiệm trong khi quyền
lợi lại chưa được bảo đảm, đặc biệt khi xảy ra các sự cố ngoài khả năng kiểm soát. Tuy
đã có những điều luật được đưa ra để đảm bảo doanh thu tối thiểu đối với các dự án
BOT, BTO, BOO nhưng cơ chế được đánh giá là chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường. Ngoài ra, chưa cơ chế đảm bảo trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền trong các hợp đồng PPP, điều này đặt ra rủi ro tài chính rất lớn cho nhà
đầu tư tư nhân nếu các cơ quan ký kết hợp đồng không hoàn thành trách nhiệm của mình.
Để đối phó với những bất cập trên, nhà đầu tư cần lựa chọn loại dự án phù hợp nhất, có
dòng tiền ổn định và tiềm năng phát triển lâu dài, ví dụ như lĩnh vực giao thông (đường
cao tốc, cầu thu phí), năng lượng (nhà máy điện, năng lượng tái tạo), và dịch vụ công
thiết yếu (y tế, giáo dục, nước sạch). Bên cạnh đó, nhà đầu tư nên xem xét tập trung đầu
tư vào các dự án BOT (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao) hoặc BOO (Xây dựng -
Sở hữu - Kinh doanh) vì chúng có khả năng thu phí trực tiếp từ người sử dụng, giúp tạo
ra doanh thu ổn định và giảm thiểu rủi ro về tài chính trong quá trình vận hành.
Thứ ba, khả năng huy động vốn của nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP vẫn
rất khiêm tốn do nhà đầu tư khó tiếp cận tín dụng dài hạn, trong khi quy định trong Luật
PPP khống chế tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia không vượt quá 50%, khiến việc huy động
vốn và hoàn vốn kéo dài, đặc biệt với các dự án hạ tầng quy mô lớn. Vì vậy, nhà đầu tư
không thể chỉ chờ đợi mà cần chủ động dự liệu khả năng chậm trễ trong việc ban hành
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật PPP, yếu tố vốn thường khiến dự án bị đình trệ
hoặc kéo dài tiến độ. Bên cạnh đó, trong quá trình thương thảo hợp đồng, doanh nghiệp
cần chú trọng xây dựng các điều khoản cụ thể và ràng buộc hơn, đặc biệt về trách nhiệm
của cơ quan Nhà nước, nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính khi phía Nhà nước không hoàn
thành đúng cam kết, chẳng hạn như chậm giải phóng mặt bằng hay bố trí vốn đối ứng.
Ngoài ra, nhà đầu tư còn nên tích cực tham gia các tổ chức đại diện như VCCI hoặc hiệp
hội ngành nghề để có thêm kênh đối thoại chính sách, từ đó kiến nghị điều chỉnh những
quy định quan trọng, chẳng hạn nới rộng tỷ lệ vốn Nhà nước vượt mức 50% đối với dự
án hạ tầng quy mô lớn.