








Preview text:
lOMoAR cPSD| 47028186
Câu 6: Tích lũy tư bản là gì? Phân tích các nhân tố góp phần làm tăng quy mô tích lũy? I) Tích luỹ tư bản
1. Bản chất của tư bản
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể về tích luỹ tư bản, chúng ta cần phải hiểu
định nghĩa tư bản là gì. Xét về khía cạnh kinh tế, theo Wikipedia, “tư bản
hay vốn trong kinh tế học là khái niệm để chỉ những vật thể có giá trị, có khả
năng đo lường được sự giàu có của người sở hữu chúng. Tư bản là sở hữu
về vật chất thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội.” Nói một cách đơn giản,
tư bản là giá trị có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải tham gia lao động. 2. Tích luỹ tư bản
Tích lũy tư bản là sự chuyển hóa trở lại của giá trị thặng dư thành tư bản.
Từ xưa đến nay, con người để tồn tại, sau đó sáng tạo, xây dựng cho cuộc
đời đều cần có những nhu cầu hỗ trợ như ăn uống, may mặc, tinh thần… Để
có đầy đủ tư liệu đáp ứng cho những nhu cầu ấy, tất nhiên con người phải
sản xuất ra chúng. Thế nên mọi người đều ngầm thừa nhận rằng “sản xuất
ra của cải vật chất là điều kiện tồn tại của xã hội loài người”. Trong quá trình
kinh doanh sản xuất, ta thấy đa số các nhà tư bản cũng như doanh nghiệp
đều có xu hướng quay lại tiếp tục đầu tư, sản xuất sau mỗi loạt sản phẩm
được bán ra ngoài thị trường. Quá trình này được các nhà kinh tế học gọi là
“tái sản xuất”, nó thường lặp đi lặp lại và sẽ tiếp diễn một cách liên tục.
Ta sẽ đi tìm hiểu tích luỹ tư bản dọc theo quá trình hình thành của nó. Quay
trở lại với tái sản xuất, căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất làm hai
loại: Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất giản đơn là
quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ, thường gắn liền và là
đặc trưng của nền sản xuất nhỏ. Đây không phải hình thái điển hình của chủ
nghĩa tư bản. Như chúng ta biết, khát vọng về giá trị thặng dư của các nhà
nhà tư bản là vô hạn, vì vậy hiển nhiên rằng thay vì việc sử dụng toàn bộ lOMoAR cPSD| 47028186
thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, giữ nguyên quy mô sản xuất, không tăng
vốn thì họ lựa chọn không ngừng mở rộng quy mô sản xuất để tăng quy mô
giá trị thặng dư. Đó chính là hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản - tái
sản xuất mở rộng, lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với
một lượng tư bản lớn hơn trước. Họ sẽ dành ra một phần giá trị thặng dư để
tăng quy mô đầu tư so với năm trước, được gọi là tư bản phụ thêm. Tích lũy
tư bản, trong kinh tế chính trị Mác -Lênin là việc biến một bộ phận giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản, còn trong các lý luận kinh tế học khác, nó đơn
giản là sự hình thành tư bản (tăng lượng vốn dưới hình thức tư bản cố định
và lưu kho của chính phủ và tư nhân). Nói tựu chung lại, tích luỹ tư bản là
sự chuyển hoá của giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, theo ngôn ngữ dễ
hiểu của các nhà đầu tư thì đây là quá trình giữ lại một phần lợi nhuận để
gộp vào với phần giá trị vốn bỏ ra từ đầu, sau khi bán hàng đã thu về được
để làm vốn cho việc tái sản xuất mở rộng vào lần sau. Từ đó, có thể rút ra
rằng, thực chất quá trình tích luỹ tư bản chính là tư bản hoá giá trị thặng dư.
Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được bởi vì nó đã mang
sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể về tích luỹ tư bản. Một nhà tư bản năm thứ
nhất có quy mô sản xuất là 60c+10v+10m. Trong đó, 10m không bị tiêu
dùng tất cả cho cá nhân mà được phân thành 5m1+5m2, 5m2 dùng để tích
luỹ, tiếp tục chia thành 2c2+2v2. Khi đó, quy mô sản xuất của năm sau sẽ là
63c+12v+12m. Như vậy vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản
khả biến tăng đều lên tương ứng.
Vậy có thể kết luận, nguồn gốc duy nhất của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư.
3. Động cơ của tích luỹ tư bản
Tích luỹ tư bản có động cơ bắt nguồn chủ yếu của hai quy luật kinh tế khách
quan trong chủ nghĩa tư bản: -
Quy luật giá trị thặng dư : các nhà tư bản như tôi đã trình bày ở trên
luôn có xu hướng quay trở lại tái sản xuất mở rộng bởi ham muốn về giá trị lOMoAR cPSD| 47028186
thặng dư, lợi nhuận là vô hạn. Để làm được điều này, vốn bắt buộc phải tăng,
đồng nghĩa với việc nhà tư bản phải tìm nguồn vốn, nâng cao năng suất lao động, m’….. -
Quy luật cạnh tranh: Để giữ sức cạnh tranh bền vững trong tương lai.
Nếu một doanh nghiệp mãi không chịu lớn, không phát triển thì ắt sẽ bị đào
thải, thu bé đi. Muốn có được vị trí nhất định, giành được lợi thế trong thị
trường buôn bán, các nhà tư bản sẽ tìm đến việc đổi mới thiết bị máy móc,
đặc biệt là trong thời kì khoa học kĩ thuật phát triển như hiện nay. Như vậy,
yêu cầu về vốn vẫn là yêu cầu hàng đầu được đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp.
Ta thấy rằng ở cả hai quy luật trên, nhà tư bản đều cần đến nguồn vốn. Ắt
hẳn nguồn vốn đầu tiên mà mọi người tìm đến sẽ là phương án đi vay ngân
hàng, bạn bè… Tuy nhiên sau đó chủ sản xuất sẽ phải trả lại không chỉ số
tiền mình đã vay mà thậm chí ch còn phải trả thêm phần lãi. Vậy nếu các
nhà tư bản muốn có vốn của riêng mình, cách duy nhất chính là tích luỹ tư bản.
4. Hệ quả của tích luỹ tư bản 4.1. Tích cực
Đầu tiên, tích luỹ tư bản làm cho quy mô vốn ngày càng tăng, từ đó các nhà
tư bản sẽ có điều kiện để đầu tư vào cải tiến kĩ thuật, ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ để giành được lợi thế trong cạnh tranh.Thứ hai, nếu các
nhà tư bản hiểu được bản chất của tích luỹ tư bản, nắm được các nhân tố quy
mô tích luỹ, nhờ vậy có thể vận dụng trong sản xuất kinh doanh để tăng vốn
cũng như sử dụng vốn có hiệu quả trong kinh tế. Nhờ vào tích luỹ tư bản mà
năng suất lao động xã hội sẽ tăng lên, như vậy mà nền kinh tế chung cũng
sẽ phát triển tích cực hơn. Đồng thời, khấu hao tư liệu sản xuất sẽ tăng, tránh
được những hao mòn vô hình, có ý nghĩa lớn trong việc tăng tích luỹ vốn
sản xuất và sử dụng tư liệu sản xuất có hiệu quả. 4.2. Tiêu cực lOMoAR cPSD| 47028186
Rủi ro trước hết mà tích luỹ tư bản mang đến là càng ngày càng làm tăng
chênh lệch giàu nghèo. Của cải xã hội sẽ tập trung vào tay giai cấp tư sản
nhiều hơn nữa, công nhân càng bị bóc lột nặng nề. Thất nghiệp, nghèo đói
cũng tăng lên . Vì vậy, mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp công nhân và tư sản
sẽ ngày càng trở nên sâu sắc. Không chỉ vậy, tiêu dùng của người lao động
sẽ bị hạn chế. Thực tế cho thấy một phần không nhỏ thu nhập quốc dân của
xã hội tư bản chủ nghĩa dùng vào việc tiêu dùng không sản xuất và tiêu dùng
ăn bám của chúng. Phần thu nhập quốc dân dùng vào tích luỹ do đó khá ít
so với khả năng, nhu cầu của sự phát triển trong xã hội. Sự chênh lệch đó có
khả năng dẫn đến khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa có điều kiện phát sinh,
phá hoại nặng nề và thường xuyên nền sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa.
II) Các nhân tố ảnh hưởng đến tích luỹ tư bản
Có khá nhiều những nguyên do tác động đến quy mô của tích luỹ tư bản. Ta
thấy rằng, khối lượng giá trị thặng dư và tỉ lệ phân chia giá trị thặng dư thành
tư bản phụ thêm, tư bản tiêu dùng của nhà tư bản quyết định quy mô tích
luỹ. Xét một cách cụ thể, ta phải chia làm hai trường hợp:
Đầu tiên, đối với trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy
mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng
dư đó thành hai quỹ: quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản, có xu
hướng vận động tỷ lệ nghịch với nhau. Chẳng hạn, khi những chi phí sinh
hoạt cho bản thân lấy từ giá trị thặng dư được sử dụng quá nhiều, thì quỹ
tích luỹ sẽ ít đi, quy mô sản xuất sẽ bị bó hẹp lại. Ngược lại, nếu quy mô sản
xuất được mở rộng, máy móc được cải tiến hơn nữa thì nhà tư bản chưa chắc
đã có đủ chi phí cho sinh hoạt của bản thân mình. Vì vậy, một trong những
vấn đề hàng đầu cần được giải quyết đối với các nhà tư bản là phải xây dựng
một kế hoạch cân bằng hợp lý giữa hai khoản quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng.
Thứ hai, khi giá trị thặng dư thay đổi, tức là tỷ lệ phân chia khối lượng thặng
dư được xác định thì giá trị thặng dư quyết định quy mô tích luỹ tư bản. Điều
này có nghĩa rằng những nhân tố ảnh hưởng tới giá trị thặng dư sẽ đồng thời
quyết định quy mô của tích luỹ tư bản. Thông qua tìm hiểu, tổng hợp những lOMoAR cPSD| 47028186
nhân tố khách quan và chủ quan, tôi đưa ra những yếu tố chủ yếu được chia
làm bốn nhóm chính gồm:
1. Trình độ bóc lột sức lao động
Trình độ này phản ánh tỷ lệ giữa lượng tư bản ứng ra mua sức lao động công
nhân và lượng giá trị thu về được từ lao động đó. Thực tế cho thấy rằng công
nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt không chỉ thời gian lao động thặng dư mà còn
bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, cắt xén tiền công để tăng trình độ
bóc lột sức lao động. Một phương pháp được áp dụng phổ biến ở các thời kì
trước là kéo dài ngày lao động. Tuy
nhiên, nó không kéo dài được lâu bởi gặp nhiều giới hạn như độ dài của
ngày, thể lực công nhân và sự phản kháng của họ. Bên cạnh đó, nhà tư bản
cũng tăng cường độ lao động. Việc này hoàn toàn khác so với việc tăng năng
suất lao động. Ví dụ, vẫn công nghệ như vậy, thời gian như vậy, nhưng người
lao động thay vì làm việc đúng với công suất của mình lại bị quản lý nhanh
tay hơn, gấp đôi, gấp ba sức lực của mình bằng cách tăng giám sát, thuê đốc
công, trả lương theo sản phẩm… Hai phương pháp trên nằm trong phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Không chỉ vậy, hao mòn vô hình và
chi phí bảo quản máy móc, thiết bị được giảm đáng kể bởi nhà tư bản chưa
cần ứng thêm tư bản để tiếp tục mua máy móc mà chỉ cần mua nguyên nhiên
liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất.
2. Trình độ năng suất lao động xã hội
Khi năng suất lao động xã hội tăng lên, thời gian lao động tất yếu sẽ giảm
xuống. Khi đó, lương của công nhân cũng sẽ bị giảm theo, kéo theo cả sự
giảm giá trị của sức lao động. Giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng vì
vậy mà cũng đồng thời giảm. Hệ quả là, với số thặng dư dôi ra được, phần
dành cho tích luỹ có thể tăng lên trong khi tiêu dùng của các nhà tư bản
không giảm, thậm chí còn cao hơn trước đây. Thêm vào đó, lượng thặng
dư dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu
sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn. Những yếu tố vật chất của tư
bản như thế đã tăng lên. Đặc biệt, khi năng suất lao động cao thì lao động
quá khứ sẽ được sử dụng nhiều hơn, đồng thời biểu hiện dưới hình thức có
ích mới, làm cho tư bản càng có thêm nhiều chức năng. Các nhà kinh tế lOMoAR cPSD| 47028186
học nhận định rằng “Tư bản chiếm không sự tiến bộ xã hội đã diễn ra đằng
sau lưng hình thức cũ của nó”.
Như vậy, việc tăng năng suất lao động, hay phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối sẽ làm tăng quy mô của tích luỹ.
3. Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và sử dụng tư bản đã tiêu dùng.
Sự chênh lệch này sẽ càng ngày càng tăng theo thời gian. Ta biết rằng các
thiết bị máy móc (tư liệu lao động) tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất,
nhưng mức độ hao mòn của chúng rất ít, chỉ dần dần chứ không phải như
nguyên nhiên vật liệu. Giá trị của các thiết bị ấy do đó được chuyển dần vào
từng sản phẩm. Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản đã tiêu dùng
cũng hình thành từ đó. Máy móc thiết bị càng hiện đại, tối tân thì sức phục
vụ, hơn nữa còn là phục vụ không công càng lớn, giá trị sức lao động của
con người sẽ giảm, đồng nghĩa mức chênh lệch giữa hai loại tư bản càng lớn.
Các nhà tư bản vì vậy mà sử dụng được những thành tựu của lao động quá
khứ ngày càng nhiều, tất nhiên những lao động không công quá khứ này nằm
dưới sự điều khiển của lao động sống. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy
mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.
4. Quy mô của tư bản ứng trước.
Tư bản ứng trước là tổng của tư bản bất biến c và tư bản khả biến v. Nếu
trình độ bóc lột không thay đổi, khối lượng tư bản khả biến sẽ quyết định
khối lượng giá trị thặng dư. Nói cách khác, giá trị thặng dư nhiều hay ít sẽ
do con số công nhân bị bóc lột cùng một lúc quyết định, số công nhân này
sẽ tương xứng với đại lượng của bộ phận tư bản bỏ ra để mua sức lao động.
Các Mác nói rằng tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của
sự tích luỹ mà thôi, tuy nhiên nó đóng vai trò hết sức quan trọng. Bộ phận
tư bản khả biến càng lớn, khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn,
nhà tư bản có thể đồng thời có thêm quỹ tiêu dùng, sắm sửa cho bản thân,
sống một cuộc sống giàu sang và quỹ tích luỹ để mở rộng quy mô sản xuất.
Vậy, quy mô của tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô tích luỹ tư bản càng lớn. lOMoAR cPSD| 47028186
Câu 7: Lợi nhuận là gì? Phân tích quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị
thặng dư trong nền kinh tế thị trường?
- Khái niệm: Lợi nhuận là phần thu nhập thặng dư tính bằng hiệu quả giữa
giá trị tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí. Lợi nhuận là phần thưởng cho
việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới.
- Quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường :
Chi phí sản xuất của TBCN là c+v. Nếu kí hiệu chi phí sản xuất TBCN
là K thì K=c+v G=K+m. Khi c+v chuyển hóa thành K thì số tiền mà nhà TB
thu được sau khi bán hàng hóa theo giá cả thị trường vượt trội hơn so với chi
phí sản xuất TBCN được gọi là lợi nhuận, ký hiệu là P. Giá trị hàng hóa bằng
chi phí sản xuất TBCN cộng với lợi nhuận G=K+P.
Như vậy, lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản
ánh sai lệch bản chất bóc lột của CNTB. Cái khác nhau giữa m và P ở chỗ,
khi nói m là hàm ý so với v, còn khi nói P là hàm ý so với c+v.
Về chất, lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong đời
sống thực tế nền sản xuất TBCN.
Về lượng, đối với từng nhà TB cá biệt lợi nhuận và giá trị thặng dư thường
không trùng khớp với nhau. Lợi nhuân có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị
thặng dư tùy thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường. Nhưng
xét trên phạm vi tồn XH thì tổng lợi nhuận in bằng tổng số giá trị thặng dư. Câu 8
Lợi tức là : Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản, ợi tức là
một khái niệm trong kinh tế học dùng để chỉ chung về những khoản lợi nhuận
(lãi, lời) thu được khi đầu tư, kinh doanh hay tiền lãi thu được do cho vay
hoặc gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Trong các trường hợp khác nhau, thì lợi
tức sẽ có tên gọi khác nhau, chẳng hạn như trong đầu tư chứng khoán, trong
đầu tư nói chung thì lợi tức có thể gọi là cổ tức (của các công ty cổ phần),
trong tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn, thì lợi tức còn được gọi là lãi hay lOMoAR cPSD| 47028186
tiền lãi, còn trong các hoạt động đầu tư kinh doanh khác, lợi tức có thể gọi
là lợi nhuận, lời, tiền lời.
Đặc điểm của tư bản cho vay trong nền kinh tế thị trường
Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư bản: Đối với người cho vay nó là
tư bản sở hữu, đối với người đi vay nó là tư bản sử dụng. - Tư bản cho vay
là một hàng hóa đặc biệt: Là hàng hóa vì nó có giá trị và giá trị sử dụng. Tính
đặc biệt của hàng hóa này thể hiện ở chỗ, khi cho vay bên cung không mất
quyền sở hữu, bên cầu chỉ được mua quyền sử dụng trong thời gian nhất
định. Mặt khác, khi sửdụng thì giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên.
Hơn nữa, giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị sử dụng, tức là khả
năng tạo ra lợi tức của nó quyết định. Lợi tức chính là giá cả của hàng hóa
tư bản cho vay.- Tư bản cho vay là tư bản được "sùng bái" nhất và cũng được
che giấu kín đáo nhất: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo
công thức T – T’ (T’= T+Δt). Nhưng công thức của sự vận động của tư bản
cho vay này chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa nhà tư bản cho vay và nhà tư
bản đi vay, gây ấn tượng bởi hình thức tiền đẻ ra tiền. Ta có thểthấy, quan
hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được che giấu một cách kín đáo nhất, tư bản cho
vay trở nên thần bí và được sùng bái nhất.- Tư bản cho vay không thể tách
rời sự vận động của tư bản công nghiệp: Sự hình thành tư bản cho vay là kết
quả của sự vận động phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ đến một trình độ
nhất định làm xuất hiện một quan hệ là: có nơi tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, có
nơi lại thiếu tiền để hoạt động.- Tư bản cho vay là hình thức ăn bám nhất
của tư bản: Tư bản cho vay làm hình thànhmột nhóm người trong xã hội tư
bản: tư bản thực lợi (kinh doanh bằng cách đầu tư tư bản để thu lợi tức mà
không trực tiếp quản lý kinh doanh
Câu 9: Tuần hoàn và chu chuyển tư bản là gì? Phân tích ý nghĩa của
việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển tư bản đối với phát triển kinh tế xã hội ?
a. Tuần hoàn và chu chuyển tư bản là gì? lOMoAR cPSD| 47028186 -
Tuần hoàn của tư bản: Là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba
giai đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư
bản hàng hóa) gắn với thực hiện những chức năng tương ứng (chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị thặng dư)
và quay trở về hình thái ban đầu cùng với giá trị thặng dư -
Chu chuyển của tư bản: Là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định
kì, thường xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian.
b. Phân tích ý nghĩa của việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển tư bản đối với
phát triển kinh tế - xã hội ?
Với việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển tư bản, thì sẽ rút ngắn đi thời gian
của 1 vòng chu chuyển tư bản. Khi đó, thời gian để đạt được nhiều giá trị
thặng dư đã được giảm xuống, nên các mục tiêu sẽ được hoàn thành một
cách nhanh chóng, và từ đó sẽ có được thêm nhiều những giá trị thặng dư
mới. Từ đó, sẽ tạo ra được thêm nhiều những của cải, vật chất, cũng như là
việc phát triển sẽ được đẩy mạnh hơn. Vì vật, khi có những tác động lớn,
đẩy nhanh kinh tế, thì kinh tế sẽ phát triển một cách nhanh chóng. Kinh tế
khi đã được phát triển, sẽ giúp cho việc xây dựng, phát triển đất nước.
Khẳng định được vị thế của đât nước. Kinh tế luôn luôn gắn liền với xã hội.
Nên khi kinh tế đã được phát triển một cách nhanh chóng, thì đời sống xã
hội sẽ được nâng cao, và khi đời sống xã hội tăng cao thì đời sống của con
người cũng đi lên, điều kiện sống cũng sẽ tốt hơn, xã hội phát triển cũng sẽ
giúp cho việc đẩy lùi được nhiều điều tiêu cực. Qua đó có thể nói việc tăng
nhanh tốc độ chu chuyển có tác động lớn tới việc phát triển được kinh tế - xã hội.