Tích lũy tư bản và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về tích lũy tư bản
(vốn) và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Họ và tên sinh viên: NGUYỄN CÔNG NGUYÊN Lớp: HTTTQL-62A
Hà Nội, tháng 5 / năm 2021 MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN........ ................................................3 1, B n chấất v ả
à nguồồn gồấc củ a tch lũy t b ư n ả 3
2, Nh ng nhấn tồấ ữ nh h ả
ng đếấn quy mồ tch lũy ưở 5 3, M t sồấ h ộ
ệ quả củ a tch lũy t b ư n. ả 9
II. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN( VỐN) Ở
VIỆT NAM..........................................................................................................11 1, Th c tr ự ng tch lũy vồấn t ạ i Vi ạ t Nam ệ 12 2, Nh ng gi ữ i pháp tăng c ả ng tch lũy vồấn ườ Vi ở t Nam ệ 22
2.1, Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy – tiêu dùng...............22
2.2, Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn... .....................................................23
2.3, Tăng cường tích lũy vốn trong nước và thu hút đầu tư từ nước ngoài
.......................................................................................................................24
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................26
Tài liệu tham khảo...................................................................................................28 A. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển với nền kinh tế
thế giới, chúng ta đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế,
chính trị, xã hội, đồng thời cũng dần khẳng định được vị thế của đất nước ta
trên trường quốc tế. Đó là những thành quả rất đáng tự hào mà chúng ta có
được nhờ sự lựa chọn đúng đắn đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và sự vận dụng sáng tạo các phương pháp,
nguyên lí cơ bản của phát triển kinh tế vào điều kiện của đất nước. Xuất phát
điểm từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế yếu kém, thu
nhập bình quân đầu người thuộc vào hàng thấp trên thế giới, chúng ta phải
đối mặt với nhiều vấn đề thực tế như: trình độ kĩ thuật, năng suất lao động
thấp, tỷ lệ dự trữ so với thu nhập còn quá nhỏ,v.v..
Sau khi vận dụng thành công đường lối phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, chúng ta lại có một thách thức mới, đó chính là: Vốn.
Vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế. Vốn là cơ
sở để cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng lao suất động, thúc đẩy các doanh
nghiệp sản xuất cũng như đẩy nền kinh tế phát triển theo chiều sâu. Nhà kinh
tế học hiện đại Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng của nền kinh
tế hiện đại là “kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng
vốn lớn”.Chính vì vậy, vốn là loại hàng hóa đặc biệt, không chỉ là nguồn lực
quan trọng đối với các nước phát triển, mà còn là yếu tố cấp thiết đối với hầu
hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Để giữ được được nhịp độ
phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, chúng ta cần huy 1
động được một nguồn vốn lớn để đầu tư, nguồn vốn vay này có thể từ hoạt
động tích lũy trong nước hay vốn vay nước ngoài. Lý luận cho thấy rằng tích
lũy và huy động vốn trong nước là quan trọng nhất, đảm bảo cho sự phát triển
bền vững, ổn định và lâu dài.
Bài luận: “Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về tích lũy tư bản
(vốn) và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam” dưới đây sẽ nêu lên những lý luận
chung về tích lũy tư bản và việc vận dụng lý luận đó vào thực tiễn ở nước ta,
với nhận thức sâu sắc về vai trò của việc tích lũy vốn phục vụ phát triển kinh
tế đất nước. Bài luận được viết dựa trên hạn chế về trình độ hiểu biết của bản
thân, nên sẽ khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình nghiên cứu, em rất
mong nhận được đánh giá thực tế, hướng dẫn, góp ý của cô, giúp em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô! 2 B. NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
Chủ nghĩa tư bản đã trải qua hai hình thức tích lũy: tích lũy nguyên thủy
và tích lũy tư bản chủ nghĩa. Nêu như tích lũy nguyên thủy tách người nông
dân ra khỏi ruộng đất của họ, tước đoạt tư liệu sản xuất chủ yếu của họ là đất
đại hoặc thông qua con đường xâm chiếm thuộc địa, cướp bóc… thì tích lũy
tư bản chủ nghĩa là một hình thái mới với bước phát triển cao hơn về chất
lượng so với tích lũy nguyên thủy.
1, Bản chất và nguồn gốc của tích lũy tư bản
Để chỉ ra bản chất của tích lũy tư bản, cần nghiên cứu về tái sản xuất.
Trong thực tế nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, quá trình sản xuất liên
tục được lặp đi lặp lại không ngừng. Quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại
không ngừng được gọi là tái sản xuất. Quá trinh này là tất yếu khách quan
theo hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như
cũ. Trong trường hợp này, ứng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN),
toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn phải không ngừng
lớn lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một phần giá
trị thặng dư thành tư bản gọi là tích lũy tư bản. 3
Ví dụ: Một tư bản với: 100, c/v=4/1, m’=100%
Năm thử nhất có quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m
Nếu tái sản xuất giản đơn, nhà tư bản sử dụng hết 20m cho tiêu dùng, thì quy
mô năm 2 là: 80c + 20v + 20m, không thay đổi.
Nếu nhà tư bản không sử dụng hết 20m cho tiêu dùng cá nhân, mà phân
thành 10m dùng để tích lũy và 10m dành cho tiêu dùng cá nhân. Phần 10m
được phân thành 8c + 2c, khi đó quy mô sản xuất năm 2 sẽ là: 88c + 22v +
22m( m’ vẫn như cũ). Như vậy vào năm 2, quy mô tư bản bất biến và khả
biến, giá trị thặng dư đều tăng lên.
Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản
chủ nghĩa thông qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
để tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức
lao động, mở mang nhà xưởng, mua thêm nguyên vật liệu, trang bị thêm máy
móc thiết bị… Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được bởi
là vì tư bản thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của một tư bản mới.
Như vậy thực chất của quá trình tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư,
trong quá trình sản xuất, lãi tiếp tục được bổ sung vào vốn, vốn căng cao thì
lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành
phương tiện mạnh mẽ quay trở lại bóc lột chính họ. Nhờ có tích lũy tư bản,
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị, mà còn
không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
Mục đích của nền sản xuất TBCN là sự lớn lên không ngừng của giá
trị. Để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản không ngừng tích lũy và tái sản 4
xuất mở rộng. Họ xem đó là cách thức căn bản để tăng cường bóc lột công
nhân làm thuê. Bên cạnh đó, do tính cạnh tranh quyết liệt nên các nhà tư bản
buộc phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên. Điều đó chỉ có thể
thực hiện bằng cách tăng nhanh tích lũy tư bản. Động cơ thúc đẩy tích lũy và
tái sản xuất mở rộng TBCN chính là một quy luật kinh tế cơ bản của CNTB.
Trong buổi đầu của CNTB, các nhà tư bản luôn muốn tài sản của mình không
ngừng tăng lên, chi phối tuyệt đối nhưng đến một trình độ phát triển nhất
định, sự giàu có của các nhà tư bản ngày căng tăng lên do sự tích lũy tư bản.
2, Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, thì quy mô tích lũy tư bản
phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ đã được
xác định thì sẽ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Nếu nhà tư bản sử
dụng khối lượng giá trị thặng dư vào việc tiêu dùng cá nhân thì khối lượng
giá trị thặng dư dành cho tích lũy sẽ ít đi và ngược lại, việc tiêu dùng ít sẽ
làm tăng khối lượng tích lũy, do đó làm quy mô tích lũy tăng lên. Do sự cạnh
tranh gay gắt trong xã hội tư bản nên các nhà tư bản buộc phải tăng thêm tích
lũy để mở rộng quá trình sản xuất nhằm đem lại lợi nhuận kinh tế lớn về bản
thân. Tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đã cho sẵn thì khi đó đại
lượng tư bản tích lũy sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết
định. Vì vậy, các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quy mô tích lũy gồm:
Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động.
Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô giá trị thặng
dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích lũy. Để nâng cao tỷ suất giá 5
trị thặng dư, ngoài sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối, nhà tư bản còn có thể bóc lột sức
lao động bằng những biện pháp tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao
động, cắt xén tiền công của công nhân. Điều đó có nghĩa là thời gian công
nhân sáng tạo ra giá trị càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt
giảm, do vậy khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.
Mức độ bóc lột sức lao động được nâng cao bằng cách cắt xén vào tiền
công của công nhân. Như vậy, công nhân không những bị nhà tư bản chiếm
đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị
cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng
trong quá trình tích lũy tư bản.
Một cách khác để nâng cao mức bóc lột nữa là tăng cường độ lao động
và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao
động sẽ làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng
dư tư bản hóa, tức làm tăng tích lũy tư bản.
Thứ hai, năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt giảm xuống,
làm giảm giá trị sức lao động giúp cho các nhà tư bản thu được nhiều giá trị
thặng dư hơn. Năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật
chất của tư bản, do đó làm tăng quy mô tích lũy. Năng suất lao động cao thì
lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ
đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, chúng làm chức năng tư bản để sản
xuất ra tư bản ngày căng nhiều, do đó mà quy mô của tích lũy tư bản cũng 6
ngày càng lớn. Như vậy năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định
đến quy mô của tích lũy.
Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc.
C.Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng. Theo C.Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song
giá trị chỉ được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Như vậy là mặc
dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có
tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy móc được xem
như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại thì sự chênh
lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục
vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động
quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.
Sau khi trừ đi những tổn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và
công cụ lao động – nghĩa là sau khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã
chuyển vào sản phẩm – nhà tư bản sử dụng những máy móc và công cụ lao
động đó mà không đòi hỏi một chi phí khác.
Kỹ thuật càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản
tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công của tư liệu lao động càng lớn.
Có thể minh họa điều đó bằng số liệu sau: 7
Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước.
Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, quy mô của tư bản
ứng trước càng lớn, nhất là bộ phận tư bản khả biến thì khối lượng giá trị
thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô tích lũy của
tư bản. Đối với sự tích lũy của cả xã hội thì tích lũy của tư bản ứng trước có
quy mô nhỏ nhưng lại rất quan trọng. C.Mác đã nói rằng, tư bản ứng trước
chỉ là một giọt nước nhỏ trong dòng sông của sự tích lũy mà thôi. Trong công thức: M = m’.V
nếu m’ (tỷ suất giá trị thặng dư) không thay đổi thì M (khối lượng giá trị
thặng dư) chỉ có thể tăng khi V (tổng tư bản khả biến) tăng. Và, tất nhiên tư
bản bất biến cũng phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất định.
Do đó, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư phải tăng quy mô tư bản ứng trước. 8
3, Một số hệ quả của tích lũy tư bản.
Theo C.Mác, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn
đến các hệ quả kinh tế mang tính quy luật như:
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
C.Mác cho rằng nền sản xuất có thể được quan sát qua hình thái hiện
vật và hình thái giá trị. Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ
lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kĩ thuật.
Trong cấu tạo kĩ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản
ánh ở mối quan hệ tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giá trị
này được gọi là cấu tạo hữu cơ. Cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng do cấu
tạo kĩ thuật cũng vận động theo xu hướng tăng lên về lượng. Vì vậy, quá trình
tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Thứ hai, tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản.
Để làm rõ hệ quả này, ta cần phải chỉ rõ ra mối quan hệ giữa tích lũy –
tích tụ - tập trung tư bản.
Trong quá trình tái sản xuất TBCN, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên
thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư
bản hóa giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng
thời làm tăng quy mô tư bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản
phụ thêm. Đây là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. 9
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách
hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn.
Tích tụ và tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
Thứ ba, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng chênh lệch
giữa thu nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả về
tuyệt đối lẫn tương đối.
Quá trình tích lũy tư bản tất yếu sẽ dẫn đến sự phân cực: một bên làm
cho CNTB phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng thông qua sự tích tụ và
tập trung tư bản, thông qua việc nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản và làm cho
giai cấp tư bản ngày càng trở nên giàu có; ngược lại, những người dân lao
động không tránh khỏi sự bần cùng hóa và thất nghiệp. đây là quy luật chung của tích lũy tư bản.
Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái
là bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối
là cùng với đà tăng trưởng của lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối
cho giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối nhưng lại giảm tương
đối so với phần sản phẩm dành cho giai cấp tư sản. Bần cùng hóa tuyệt đối
thể hiện sự giảm tuyệt đối về mức sống của nhân dân làm thuê. Bần cùng hóa
tuyệt đối thường xuất hiện với bộ phận giai cấp công nhân đang thất nghiệp
và đối với toàn bộ giai cấp công nhân đang làm thuê trong các điều kiện kinh
tế khó khăn, đặc biệt là trong khủng hoảng kinh tế.
Qua đó có thể thấy rằng tích lũy tư bản mang lại nhiều lợi ích nhất là
cho giai cấp tư bản trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên nó lại không 10
ngừng làm khoảng cách giàu nghèo trở nên rõ rệt hơn. Mặc dù vậy, chúng ta
cần phải áp dụng hợp lý quy luật tích lũy tư bản để nền kinh tế phát triển theo chiều hướng đi lên.
II. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ
BẢN( VỐN) Ở VIỆT NAM
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh
tế, nhất là hơn 30 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, thuộc
nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, thu nhập bình
quân đầu người cải thiện rõ rệt so với những năm trước thời kì đổi mới, sản
xuất phát triển, đời sống nhân dân ngày càng tốt đẹp lên. Tuy nhiên, để giữ
được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức ổn định và hơn thế nữa, nền kinh tế sẽ
phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy và huy động vốn. Thực tế đã được nhiều
chuyên gia kinh tế trong nước và nước ngoài nhận định rằng, Việt Nam muốn
có tốc độ phát triển vượt bậc, xếp loại những nước có tốc độ phát triển kinh tế
cao nhất thế giới thì phải nỗ lực huy động tối đa nguồn vốn trong nước, tăng
cường sử dụng nguồn vốn nước ngoài và đầu tư phải có hiệu quả cao. Các
chuyên gia cũng đưa ra con số cụ thể để thu nhập bình quân đầu người của
Việt Nam tăng 4-5 lần trong khoảng vài chục năm tới thì chỉ số ICOR
(Incremental Capital - Output Ratio - một chỉ số cho biết muốn có thêm một
đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị
vốn đầu tư trong kỳ đó) là khoảng 2,3 ~ 2,5 và mức tăng trưởng ít nhất
là 8% một năm. Chúng ta đã có một khởi đầu đáng mừng, tuy nhiên không
thể phủ nhận tình trạng khan hiếm vốn trong nước. Việt Nam muốn tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết cần có một nguồn vốn lớn. Để làm 11
được điều đó, chúng ta phải huy động tối đa nguồn vốn còn rải rác trong dân
cư và các nguồn lực vốn từ bên ngoài, đồng thời tiếp thu những kinh nghiệm
quản lý cho nền kinh tế từ các nước phát triển trên thế giới.
1, Thực trạng tích lũy vốn tại Việt Nam
Trước đây, trong thời kì kinh tế bao cấp, cuộc sống của nhân dân vô
cùng khó khăn, tiêu dùng còn hạn chế, quá trình tích lũy vốn còn nhiều trở
ngại, nguồn vốn không đủ để thực hiện các chính sách phát triển kinh tế,
khiến các doanh nghiệp cũng không phát huy được hết khả năng của mình.
Nguồn viện trợ từ nước ngoài không phát huy được công năng một cách hiệu
quả, hệ số ICOR của Việt Nam không ngừng tăng lên.
Thứ nhất, việc huy động nguồn vốn đầu tư trong những năm qua gặp
nhiều khó khăn, nguyên nhân là do thị trường nội địa kém phát triển, thu
nhập và nhu cầu sử dụng hàng hóa của người dân còn thấp; quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm; các chính sách về huy động
nguồn lực từ các thành phần kinh tế cho đầu tư còn chưa thực sự hấp dẫn;
môi trường đầu tư chưa tốt; bộ máy hành chính nhà nước còn chưa thực sự là
bạn đồng hành của các nhà đầu tư.
Nguồn vốn trong nước còn nhiều hạn chế, một phần do chúng ta vừa
trải qua thời kì cải cách kinh tế, tỷ lệ tích lũy còn nhỏ, chưa đủ điều kiện để
các doanh nghiệp có thể sẵn sàng phát triển. Nguồn tiết kiệm của hộ gia đình
phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình, trong những năm gần đây
nguồn tiết kiệm hộ gia đình đã tăng lên đáng kể, có thể nói từ sau thời kì đổi
mới, đời sống người dân không ngừng được tăng lên, thu nhập tăng dẫn đến
họ tiết kiệm nhiều hơn, dẫn đến nguồn vốn từ tiết kiệm hộ gia đình đóng góp 12
một phần khá quan trọng vào nguồn vốn của cả nền kinh tế. Bên cạnh đó tiết
kiệm chính phủ và tiết kiệm doanh nghiệp cũng tăng lên tương đối. Sau thời
kì bao cấp, nước ta trải qua một thời gian bị thâm hụt ngân sách nặng nề do
đã chi tiêu quá nhiều ngân sách nhà nước để bù đắp việc thua lỗ của các
doanh nghiệp quốc doanh trước đó. Tiết kiệm doanh nghiệp cũng tăng lên do
chính sách mở cửa, giao thương với các nền kinh tế khác giúp các doanh
nghiệp thu được nhiều lợi nhuận hơn, từ đó mở rộng quy mô sản xuất và tích lũy giá trị thặng dư.
Chất lượng nguồn vốn FDI còn nhiều hạn chế, chưa thu hút được nhiều
dự án có hàm lượng công nghệ cao, có tác động lan tỏa, lôi kéo các ngành
công nghiệp hiện đại. Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với vốn đăng kí còn thấp,
tính đến hết năm 2016 chỉ đạt gần 46%.
Ngoài ra, FDI thường tập trung vào các địa phương có môi trường kinh
doanh thuận lợi, hạ tầng phát triển, nên sẽ làm gia tăng khoảng cách phát
triển giữa các địa phương, sẽ tác động không nhỏ tới các quá trình hoạch định
chính sách an sinh xã hội và hài hòa xã hội. Khu vực FDI, nhất là trong các
khu công nghiệp, có đóng góp không nhỏ vào tình trạng ô nhiễm môi trường,
khiến cho chi phí khắc phục môi trường trong tương lai có thể xóa đi những
lợi ích trước mắt mà khu vực này mang lại. Trung Quốc ước tính mỗi năm
cần 10% GDP để trả lại môi trường như nguyên trạng (Halldings, 2014).
Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn và đầy triển vọng của dòng vốn
FDI, bởi với lợi thế chính trị ổn định, thủ tục hành chính dần thông thoáng,
thanh tra, kiểm tra và chi phí không chính thức đã giảm bớt. Trong năm 2020
vừa qua, mặc dù bị ảnh hưởng bởi COVID-19 nhưng theo kết quả điều tra
PCI 2020 cho thấy, các doanh nghiệp FDI vẫn đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam. 13
Điều này chứng tỏ rằng Việt Nam đã thành công trong chiến lược thu hút vốn
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và phát triển khu vực tư nhân trong nước. Số
liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng GDP của khu vực FDI đã tăng
từ mức 15,4% năm 2011 lên khoảng 19% GDP năm 2019, trong khi tỷ trọng
của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giảm dần (từ mức 29% xuống
gần 27% trong cùng giai đoạn) và của khu vực kinh tế ngoài nhà nước gần
như không đổi, dao động trong khoảng 43% GDP.
Dựa vào bảng trên, ta thấy rằng lượng vốn đầu tư FDI đã tăng từ 2010
đến 2020( từ 19,89 lên 28,53 – đơn vị: tỷ USD) đây là một con số đáng mừng
cho một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, tuy nhiên hiệu quả sử dụng
nguồn vốn này vẫn chưa thực sự triệt để, đó là một hạn chế mà chúng ta cần
phải quan tâm giải quyết trong những chặng đường kế tiếp. 14
Ngoài ra, Việt Nam còn nhận được nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) từ nhiều tổ chức kinh tế, các nước phát triển trên thế giới. ODA
được hiểu là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các
khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất
thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát vì triển
mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng
cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Những tổ chức, quốc gia tài trợ nguồn vốn ODA nhiều nhất cho Việt
Nam là: Ngân hàng Thế Giới, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU,... Trong số các tổ
chức trên thì có nhiều tổ chức đã cam kết cho Việt Nam vay nguồn vốn ODA
không hoàn lại một phần theo từng giai đoạn. Đây là một nguồn vốn lớn mà
Nhà nước có thể vay để phát triển đầu tư công, với lãi suất thấp( chỉ khoảng
2%), thời gian ân hạn dài, được viện trợ một phần không hoàn lại. 15
Tuy nhiên, không có gì thực sự là miễn phí ở đây cả, các nước phát
triển khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng
thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh -
quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách
riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế. Về kinh
tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ
các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của
nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu
có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ
đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao. Nguồn vốn viện
trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa
các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA
phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch do vụ họ sản xuất. Nguồn
vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn
với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp,
thậm chí là không cần thiết đối với các nước vay vốn. Nước tiếp nhận ODA
tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục
dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không
trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức
nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể
làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Ngoài ra, tình trạng thất
thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA
vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong
quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và 16
chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy
nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần. Trong quá trình Việt Nam thoát
khỏi mức thu nhập thấp và trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình,
các khoản vay ưu đãi sẽ giảm dần và thay vào đó là khoản vay kém ưu đãi hơn.
Chính vì thế không nên lệ thuộc vào nguồn vốn ODA này quá nhiều,
sau khi đạt được một số thành công bước đầu trong công cuộc xây dựng nền
kinh tế, chúng ta nên thay đổi cách thức tập trung nguồn vốn sang một hướng
khác, nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài cho đất nước. Nên huy động nguồn vốn từ
tích lũy trong nhân dân và nguồn tích lũy từ các doanh nghiệp để tái đầu tư
sản xuất. Đồng thời trả dần nguồn vốn vay ODA này kịp thời, không để quá
hạn mới trả, cũng giảm bớt được những rào cản, chính sách vay vốn do các
nước tài trợ áp đặt lên hàng hóa, sản phẫm cũng như chính sách ưu đãi cho các nước này. Thứ hai, mặc
dù những năm gần đây nguồn vốn đã lớn lên đáng kể,
nhưng chúng ta vẫn phải nhìn vào thực tế rằng: sự hạn chế về năng lực quản
lý của nhà nước, hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước, tình
trạng tham nhũng, là những nguyên nhân giải thích tại sao ICOR ở Việt Nam
tăng cao trong nhiều năm vừa qua. Quá trình tái đầu tư công tuy bước đầu đạt
được một số kết quả nhưng tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả còn phổ
biến, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, ...Nếu như đồng
vốn được sử dụng nhiều hơn vào việc cải thiện trình độ công nghệ và cải tiến
quy trình, hay cho đầu tư nghiên cứu triển khai, thì tăng trưởng chắc hẳn phải 17
cao hơn mức hiện tại, hệ số ICOR sẽ giảm, và nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn.
Biểu đồ chỉ số ICOR theo các khu vực kinh tế ( 1996-2010)
Từ biểu đồ trên, ta thấy chỉ số ICOR có xu hướng tăng nhanh là từ sau
năm 1996, và chủ yếu là khu vực kinh tế nhà nước . Mặc dù sau năm 2010,
ICOR của khu vực này có cải thiện, song vẫn cao hơn giai đoạn 2000-2005,
và cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân và khu vực FDI.
Là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu vốn đầu tư lớn là tất yếu.
Nhưng ngay cả khi có lượng vốn lớn mà sử dụng không hiệu quả thì có thể
dẫn tới kết quả không mong đợi. Xu thế gia tăng tỷ trọng đầu tư trong GDP
nhiều năm qua ở Việt Nam phản ánh lựa chọn tăng trưởng dựa vào đầu tư
trong nhiều năm sau Đổi mới. Xu hướng này chỉ được đảo ngược từ sau năm 2010. 18
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ năm 1995, hệ số ICOR của
Việt Nam liên tục tăng: từ mức 3,5 giai đoạn 1991 – 1995, tăng đến 5,24 giai
đoạn 2001 – 2003. Năm 2008, hệ số ICOR của nền kinh tế là 6,6. Từ đó đến
nay, hệ số ICOR của nước ta giao động trong khoảng 6 – 6,5. Dù tăng trưởng
kinh tế đã dần hồi phục, với tăng trưởng GDP đạt 7,08% trong năm 2018 -
mức cao nhất kể từ năm 2008 đến nay, song hệ số đầu tư tăng trưởng (ICOR)
tiếp tục ở mức cao, đặt ra nhiều vấn đề đối với chất lượng tăng trưởng và hiệu
quả đầu tư tại Việt Nam.
Biến động ICOR của Việt Nam từ 2010-2017
Vấn đề đặt ra là phải có các chính sách và biện pháp để tăng huy động
vốn (cả về số lượng và tỷ lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả
quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Hệ số ICOR năm 2017 của Việt Nam là 5,72,
tức là để tốc độ tăng trưởng GDP tăng thêm 1 điểm phần trăm thì cần phải
tăng tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP lên 5,72 điểm phần trăm. Thực tế cho thấy, 19
càng tiếp cận sâu rộng với thị trường thế giới thì lợi thế cạnh tranh ban đầu sẽ
giảm. Nếu không phát huy được lợi thế cạnh tranh ban đầu và không tạo
được những lợi thế cạnh tranh mới thì khó có thể đạt được mức tăng trưởng mong muốn.
Thứ ba, chưa khai thác hết tiềm năng nguồn vốn ngoài nhà nước, chưa
huy động vào đầu tư trực tiếp cho quá trình sản xuất kinh doanh. Dòng vốn
chảy vào các lĩnh vực, ngành mang tính ngắn hạn, thiếu bền vững do yếu tố
tâm lý chi phối mà ít tuân theo các quy luật của thị trường nên đôi khi tăng
trưởng quá nóng hay quá lạnh. Số doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước phá
sản hoặc dừng sản xuất tăng lên trong vòng 10 năm trở lại đây. Cụ thể được
thể hiện dưới bảng sau: Năm
Số doanh nghiệp phá sản (nghìn) 2010 43 Số doanh nghiệp phá sản từ năm 2011 53 2010 đến 2020 2012 54 2013 60,8 2014 67,8 2015 71,4 2016 73 2017 75 2018 90,6 2019 89 2020 101,7 20
Đây thực sự là con số đáng báo động, đầy thử thách đối với nền kinh tế,
các doanh nghiệp phá sản không những để lại những hậu quả như: Vốn vay
phải trả, thất nghiệp,.. khó khăn cho việc khắc phục những hậu quả mà nó để
lại. Trong hai năm, 2019 và 2020, đại dịch COVID-19 bùng lên, ngay lập tức
đã đóng băng nhiều doanh nghiệp. Không chỉ đời sống xã hội bị ảnh hưởng,
hầu hết các doanh nghiệp lớn nhỏ đều chịu ảnh hưởng ít nhiều từ làn sóng
dịch bệnh, tất cả mọi kế hoạch kinh doanh đều bị đảo lộn, cắt giảm chi phí tối
đa. Đại dịch y tế toàn cầu COVID-19 có sức tàn phá khủng khiếp đến nền kinh tế thế giới.
Làn sóng phá sản diễn ra ở khắp nơi. Đây là một thách thức lớn đối với
nền kinh tế, để khắc phục hậu quả do dịch bệnh để lại, chúng ta cần từ hai
đến ba năm, hoặc thậm chí là vài năm để có thể đưa nền kinh tế trở lại với
chu kỳ phát triển của nó. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế nhận định rằng,
năm 2020 đối với Việt Nam có thể là “bản lề” để mở ra một chu kì kinh tế
mới đầy triển vọng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro.
Trong 25 năm, từ 1996 - 2020 nền kinh tế Việt Nam qua góc nhìn về
lao động và nguồn vốn đã cho thấy, nhiều sự biến động lớn. Từ việc phân tích
phân rã tác động của lao động và nguồn vốn đến sự phát triển của nền kinh tế,
rằng kinh tế Việt Nam chưa thực sự bền vững, chưa thực sự ổn định. Để tối
ưu hóa việc sử dụng lao động và nguồn vốn, Chính phủ cần có những biện
pháp cụ thể, phù hợp với bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế; thay đổi 21
mô hình thị trường kinh tế trên nền tảng lao động, vốn và khoa học công
nghệ; tiếp tục cải cách nền tảng thể chế, giáo dục và chính sách, cơ chế phân
bổ ngân sách cho phát triển con người và khoa học công nghệ.
2, Những giải pháp tăng cường tích lũy vốn ở Việt Nam
Từ những thực trạng trên cho thấy, việc tích lũy vốn là cực kì quan
trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mục đích của Đảng và Nhà
nước là nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần văn hóa cho mọi người
dân, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng một nền kinh tế
lớn XHCN. Trong điều kiện đất nước ta từ sản xuất nhỏ, lại quá độ lên
CNXH, chúng ta phải cùng chung sức, huy động toàn bộ sức lực của mọi cá
nhân tổ chức, triệt tiết để kiệm nhằm tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế nước
ta cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
2.1, Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy – tiêu dùng
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô tích lũy tư
bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Mà tỷ lệ cụ thể
giữa tích lũy và tiêu dùng phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ kĩ thuật, sử dụng hợp lý các công
cụ lao động, vật tư lao động và các yếu tố khác.
Mối tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử
dụng được các tài sản hiện có, với một mức độ tích lũy nào đó có thể đảm
bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo
tăng tiêu dùng và tích lũy đến mức cao nhất. Để giải thích được sự ảnh hưởng 22
của tích lũy và tiêu dùng đến quy mô tích lũy tư bản, chúng ta cần trả lời hai
câu hỏi. Thứ nhất, với tỷ lệ tích lũy và tiêu dùng nào là thích đáng? Tỷ lệ này
có cố định không hay dựa trên một nguyên tắc nào đó để sắp xếp không? Đây
thực sự là một vấn đề quan trọng, cần nghiêm túc nghiên cứu, làm sao có thể
vừa xây dựng và phát triển kinh tế, vừa đảm bảo cải thiện đời sống giữa lợi
ích lâu dài và lợi ích trước mắt, giữa lợi ích của người dân với lợi ích của
toàn xã hội. Chính vì vậy việc phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng không cố
định mà tùy vào từng hoàn cảnh, trong từng thời kì nhất định. Mặc dù vậy,
việc tăng quy mô tích lũy vẫn là vấn đề cần được chú trọng ưu tiên để đất
nước ta có thể bắt kịp với nhịp điệu của nền kinh tế thế giới, cho nên chúng ta
cần khuyến khích mọi người ra sức tiết kiệm, tích lũy.
Bác Hồ đã từng viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.(
bài: "Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”-
Hồ Chí Minh). Trong bài viết quan trọng này, Người đã chỉ ra một cách cụ
thể: Tiết kiệm là gì? Vì sao phải tiết kiệm? Tiết kiệm những gì? Và ai cần phải tiết kiệm?
Bác luôn luôn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên và nhân dân ta phải làm tốt
việc tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, vì đây là biện pháp để tăng vốn
tích lũy cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Ngày nay, có
thể nói tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng không chỉ đơn thuần là tỷ lệ về kinh tế
mà còn thể hiện đường lối, chính sách của Đảng. 23
2.2, Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng nguồn vốn với hiệu quả cao nhất, chúng ta cần xác định rõ
đối tượng cần được cấp vốn, từ đó phân bổ hợp lý nguồn vốn một cách hợp lý
nhằm tận dụng hiệu quả tối đa do nguồn vốn mang lại. Không thể để cho
nguồn vốn đã hẹp hòi lại bị sử dụng sai mục đích hay không có nền tảng vững chắc.
Ở hầu hết các quốc gia đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đầu tư công là một công cụ kinh tế của Nhà nước, được sử dụng
và đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Nhưng ngược lại, đầu tư
công cũng có thể trở thành gánh nặng cho quốc gia, nếu nó được sử dụng một
cách thái quá, gây nên sự dàn trải, kém hiệu quả. Chính vì thế, Chính phủ
không nên cấp vốn toàn bộ mà nên cổ phần hóa doanh nghiệp trong nước,
nhờ vậy doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình.
Việc đồng vốn được sử dụng có hiệu quả hay không, một phần lớn phụ
thuộc vào yếu tố con người. “ Con người là giá trị cốt lõi của doanh nghiệp”.
Cần có một đội ngũ quản lí có khả năng lực, trình độ và có trách nhiệm cao
trong công việc. Người quản lý phải: Khai thác, sử dụng các nguồn lực một
cách triệt để, không để vốn nhàn rỗi; nâng cao năng lực người quản lý tài
chính; sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm; quản lý vốn chặt chẽ đúng mục đích,
không để thất thoát; tính toán sử dụng các nguồn vốn để đưa vào kinh doanh.
Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt với nguồn vốn FDI ngày nay, việc thiết
lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ có hiệu quả cao cũng góp phần tạo ra cạnh tranh lớn. 24
2.3, Tăng cường tích lũy vốn trong nước và thu hút đầu tư từ nước ngoài
Tăng cường tích lũy vốn trong nước thông qua nhiều nguồn vốn như:
ngân sách nhà nước, các tổ chức tín dụng và ngân hàng, tài sản công, thị
trường chứng khoán, các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài,...
Nguồn vốn đầu tiên là ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai
trò quan trọng để giải quyết các nhu cầu của nhà nước về chi thường xuyên,
chi cho đầu tư và chi cho công nghiệp. Vì vậy, nâng cao hiệu quả tích lũy,
tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cần thiết.
Một biện pháp khác để nâng cao nguồn vốn là thông qua các tổ chức tín
dụng và ngân hàng. Hai hình thức này cho thấy hiệu quả tương đối cao do thu
hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Tuy nhiên để thực hiện được
chính sách này, các ngân hàng phải tạo dựng lòng tin ,đảm bảo bí mật thông
tin cũng như ổn định tiền gửi của khách hàng. Đồng thời, chính phủ cũng cần
nâng lãi suất lên một mức nào đó nhằm thu được ngày càng lớn nguồn vốn
còn nhàn rỗi. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần phải liên kết với các tổ chức tín
dụng nhằm tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện.
Thị trường chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn và nếu thị
trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt, lãi suất và tỷ giá
ổn định, lạm phát được kiềm chế, dự trữ ngoại hối dồi dào, nhu cầu tiêu dùng
và mức sống người dân được nâng cao, môi trường kinh doanh ngày càng
được cải thiện, dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát hiệu quả…Tuy nhiên để
thị trường chứng khoán phát triển, chúng ta phải cổ phần hóa các công ty,
như ở trên đã nói. Thị trường chứng khoán đang được các nước phát triển tận 25
dụng tích cực bởi nó rất có hiệu quả trong việc tích tụ và tập trung vốn. Trải
qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán tại Việt
Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, tích lũy được một số lượng lớn
nguồn vốn, góp phần đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường
quốc tế. Nếu như năm 2000, khi thị trường chứng khoán mới mở cửa, vốn
hóa thị trường chỉ đạt 986 tỷ đồng, tương đương 0,28% GDP, các doanh
nghiệp hầu như phải huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng, thì sau 2
thập kỷ, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam tính đến cuối năm 2020
tương đương 83% GDP năm 2019. Đây quả thực là con số đáng tự hào trong
vòng hai thập kỷ qua, càng đánh giá mức độ tối ưu hóa nguồn vốn bằng nhiều
nguồn lực, đồng thời cũng khẳng định vai trò chiến lược của chứng khoán
trong việc tích lũy nguồn vốn.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có hai hình thức là đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp. Sau hơn ba thập niên mở cửa, Việt Nam đã đạt được không
ít thành tựu về lượng trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Nguồn vốn FDI đóng góp lớn trong tăng trưởng kinh tế . Từ khi bắt đầu mở
cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các cải cách trong nước
khác, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Khu vực FDI có vai trò
ngày càng lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Đây là khu vực kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất trong nền kinh tế trong 5 năm gần đây. Vì thế, Chính
phủ cần thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài bằng cách cải thiện môi trường
đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới hấp dẫn được các nhà đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cần đảm bảo lợi ích giữa nhà đầu tư và chính 26
chúng ta thông qua việc sửa đổi, bổ sung bộ luật đầu tư nước ngoài sao cho phù hợp. C. KẾT LUẬN
Việt Nam đang từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành tựu đáng tự hào, nước ta đang trong thời kì
phát triển mạnh mẽ và năng động, với những lợi thế vàng như: nền kinh tế
mới nổi, năng động, chính trị ổn định, dân số trẻ với nguồn lao động dồi
dào,... Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế cũng đặt ra nhiều áp lực về
tăng quy mô vốn cho nền kinh tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu tích lũy tư
bản và việc vận dụng lí luận đó vào thực tiễn Việt Nam rất quan trọng và cấp
thiết. Mục tiêu của nước ta là đến năm 2045, Việt Nam trở thành một nước
phát triển, thu nhập cao. Chặng đường đó còn dài và sẽ còn gặp nhiều khó
khăn thử thách, nhưng với sự quyết tâm cao độ của toàn thể nhân dân, sự lãnh
đạo sáng xuất của Đảng, đường lối, chính sách của Nhà nước và vận dụng có
hiệu quả những nguyên lý kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào thực tiễn
khách quan, chúng ta sẽ đạt được những mục tiêu đã đề ra .
Trong năm 2021,do ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh COVID-19, các
chuyên gia nhận định thị trường vốn Việt Nam đang phải đối diện với nhiều
thách thức như: các ngân hàng khó tăng năng lực tài chính, nguy cơ nợ xấu
ngày một dày lên, do hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh đều bị ảnh
hưởng từ đại dịch, cùng với đó nhiều hình thái tín dụng, thanh toán gắn với
công nghệ như các loại tiền ảo, tiền mã hóa,.. xuất hiện tràn lan, trong khi 27
Việt Nam chưa có chính sách để quản lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có những
thành quả đáng kể như sự phát triển của thị trường chứng khoán trong vòng
20 năm qua. Hàng trăm ngàn tỷ đồng đã được các doanh nghiệp, các ngân
hàng huy động qua thị trường chứng khoán, tạo nên bức tranh cân đối của thị
trường vốn Việt Nam. Hơn thế, với lợi thế quy mô dân số đông và trẻ, với
nhu cầu chi tiêu lớn và nguồn lao động dồi dào. Điều này sẽ kích thích sự sôi
động của thị trường vốn. Nhưng làm sao để sử dụng nguồn vốn đó một cách
hiệu quả vẫn còn là một vấn đề nan giải và cần thời gian điều chỉnh sao cho hợp lý.
Xu hướng toàn cầu hóa tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội nhưng cũng
mang lại không ít khó khăn, thử thách. Trong một môi trường kinh doanh
năng động, đầy tính cạnh tranh, buộc mỗi doanh nghiệp phải không ngừng
mở rộng quy mô vốn để đầu tư phát triển. Con đường duy nhất để tích lũy
vốn đó là tích lũy tư bản để tái sản xuất. Vì thế mỗi người dân, mỗi doanh
nghiệp phải biết ra sức tích lũy để mở rộng đầu tư hơn nữa. Ngoài ra cần tích
cực thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài(FDI, ODA,..) nhằm tác động lớn đến
toàn bộ nền kinh tế. Đây cũng là tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, khẳng định đúng đắn chính sách phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN của nước ta. 28 Tài liệu tham khảo
1. GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LENIN – BỘ GD&Đ
2. “ Phát triển thị trường vốn- Cơ hội trong kỷ nguyên mới” – Dangcongsan.com
3. Đánh giá thành tựu 30 năm đổi mới và định vị kinh tế Việt Nam – PGS.TS. Trần
Đình Thiện & ThS. Chu Minh Hội
4. Các số liệu, bài báo cáo từ Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( từ 1986 – 2020)
5. Một số bài báo trong nước và nước ngoài 29 30 31