Tiểu luận cá nhân - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Tiểu luận cá nhân - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
===========*****==========
BÀI TIỂU LUẬN CÁ NHÂN
MÔN : LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
CHỦ ĐỀ: TRÌNH BÀY KHÁI NIỆM BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC.
PHÂN TÍCH Ý NGHĨA CỦA VẪN ĐỀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.
Họ và tên: LƯU THỊ THÙY TRANG Mã sinh viên: TM2373801116
Ngành: Luật – CN Luật Thương mại Lớp: TMK4D 1 A. LỜI MỞ ĐẦU:
Nhà nước là “ một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”, nhưng
lại “ là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị”. Vì thế,
ngay từ khi nhà nước ra đời, con người đã không ngừng đi vào tìm hiểu bản
chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
các quan điểm này chưa xác định đúng nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà
nước,... Hiện nay, nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý và điều
hành xã hội. Bản chất của nhà nước ngày nay được thể hiện qua việc đại diện
cho quyền lợi của nhân dân, xây dựng và bảo vệ đất nước, thực thi pháp luật và
bảo vệ quyền tự do dân chủ. 2 B. NỘI DUNG:
I. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản thuộc đối tượng
nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đồng thời cũng là vấn
đề khó khăn và phức tạp. Tìm hiểu bản chất của nhà nước là tìm hiểu “ tổng
hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên
trong” của nhà nước, quy định sự vận động và phát triển của nó, hay tìm hiểu
những đặc tính cơ bản, thực chất bên trong của nhà nước và những quá trình
sâu xa diễn ra trong nội bộ của nó. Thông qua việc xem xét quá trình hình
thành nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, có thể khẳng định
xét về bản chất, nhà nước là một hiện tượng xã hội luôn luôn thể hiện tính xã
hội và tính giai cấp, bởi lẽ đó chính là những đặc tính cơ bản, thực chất và bên
trong của mọi nhà nước. Bản chất của nhà nước được thể hiện qua các mặt sau đây:
Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt.
Nhà nước phân chia cư dân theo lãnh thổ.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia, lãnh thổ không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài.
Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lí bằng pháp luật đối với toàn xã hội.
Cho đến nay, đã có 4 kiểu Nhà nước được hình thành: Nhà nước chủ nô,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước vô sản.
Sở dĩ nhà nước có hai tính chất đó là vì nhà nước xuất hiện vừa do nhu
cầu khách quan của sự điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập sự ổn định
và trật tự xã hội, vừa do nhu cầu thống trị giai cấp. Nhà nước là sản phẩm của
xã hội có giai cấp tức là xã hội đã phát triển đến một trình độ và một giai đoạn
nhất định, giai đoạn có sự phân chia con người thành các giai cấp, tầng lớp, lực
lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và
đấu tranh với nhau. Nhà nước là hình thức tổ chức của xã hội có phân hóa giai
cấp, bởi vì sau khi xã hội đã có sự phân hóa và mâu thuẫn xã hội ngày càng gay
gắt thì xã hội không thể tổ chức thành nhà nước với bộ máy quản lý xã hội
nhằm thiết lập, củng cố và giữ gìn trật tự và sự ổn định của xã hội, để xã hội có
thể tồn tại và phát triển. Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì
sự thống trị của giai cấp mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ
lợi ích của giai cấp mình. Bản chất của nhà nước có hai thuộc tính: tính xã hội
và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống nhất không thể tách rời và có
quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào.
a. Bản chất giai cấp của nhà nước
Khi của cải trong xã hội ngày càng nhiều, kéo theo đó là xuất hiện các tầng
lớp giai cấp; đến một giai đoạn nhất định nào đó; các tầng lớp không thể dung
hòa được với nhau và xảy ra mâu thuẫn giai cấp. Những mâu thuẫn không thể 3
giải quyết được giữa những giai cấp; đã sinh ra nhu cầu nắm giữ quyền lực để
cai quản, thống trị xã hội. mâu thuẫn xã hội đòi hỏi giai cấp đó phải trở thành
giai cấp thống trị và Nhà nước ra đời. Nhà nước sinh ra và tồn tại trong một xã
hội có giai cấp; nên tính giai cấp được thể hiện một cách sâu sắc nhất. Nhà
nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt; là công cụ để quản lý và duy trì trật tự
trong xã hội; bảo vệ lợi ích cho các giai cấp đặc biệt là giai cấp thống trị; thực
hiện các mục đích của giai cấp thống trị đề ra. Nhà nước quản lí xã hội bằng
cách áp đặt hệ tư tưởng của mình; là hệ tư tưởng thống trị đối với xã hội thông
qua pháp luật. Như vậy có thể hiểu bản chất giai cấp của nhà nước thể hiện ở
chỗ nhà nước là giai cấp thống trị và chủ yếu phục vụ lợi ích cho giai cấp thống
trị. Ngoài ra bản chất giai cấp của Nhà nước còn được thể hiện qua việc duy trì
sự ổn định và bảo vệ sự an toàn và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khỏi bị xâm phạm.
b. Bản chất xã hội của nhà nước
Bản chất xã hội của nhà nước thể hiện trong mục đích, chức năng của nhà
nước; là đảm bảo lợi ích chung, thể hiện ý chí chung của xã hội. Nhà nước sẽ
không thể tồn tại nếu; nhà nước chỉ bảo vệ lợi ích của duy nhất giai cấp cầm
quyền; mà không quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích cơ bản của của các giai cấp
khác trong xã hội. Bản chất xã hội của nhà nước thể hiện thông qua các mặt sau:
Nhà nước có nhiệm vụ duy trì, quản lý và xử lý các vấn đề phát sinh trong
xã hội; để bảo vệ lợi ích, phục vụ nhu cầu của xã hội. Những vấn đề mang
tính chất chung phải có sự quản lý nếu không dễ gây ra tình trạng hỗn loạn.
Bản chất xã hội của nhà nước thể hiện qua các hoạt động của nhà nước; để
giải quyết những vấn đề chung của xã hội như thiên tai, sản xuất, ổn định trật tự xã hội,…
Nhà nước phải tiến hành thực hiện giúp cho những lĩnh vực trong xã hội;
được hoạt động bình thường và phát triển, thực hiện các công việc chung
để phát triển xã hội như; xây đường xá, bệnh viện, trường học, giải quyết
các tệ nạn xã hội,… vì lợi ích phát triển chung của cả cộng đồng.
Nhà nước còn đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
về; tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tải sản.
c. Mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội
Như vậy, tính xã hội và tính giai cấp là hai thuộc tính chung của tất cả cả các
nhà nước, nếu thiếu một trong hai tính chất đó thì nhà nước không còn là một
nhà nước. Thực tế cho thấy, nếu chỉ có tính xã hội mà không có tính giai cấp
thì nhà nước chỉ đơn thuần là một tổ chức xã hội, tổ chức tự quản, mà không
phải là nhà nước bởi vì nhà nước nào cũng chịu sự lạnh đạo, chi phối của một
giai cấp, một lực lượng xã hội nhất định. Ngược lại, nếu chỉ có tính giai cấp mà
không có tính xã hội thì nhà nước chỉ đơn thuần là bộ máy bạo lực, trấn áp mà
không phải là nhà nước với tư cách là đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc
trong các quan hệ đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, có thể khẳng định, những biểu hiện cụ thể của tính xã hội, tính giai
cấp, mức độ thể hiện và mối tương quan giữa hai thuộc tính này của nhà nước 4
sẽ khác nhau ở các nhà nước khác và ở các giai đoạn phát triển khác nhau của
một nhà nước. Chẳng hạn, nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước
tư sản ở một số giai đoạn phát triển của nó thì tính giai cấp thể hiện công khai
và rõ rệt hơn nhiều so với tính xã hội được thể hiện rất mờ nhạt và hạn chế. Với
nhà nước tư sản ở giai đoạn hiện nay, tính xã hội của nó để thể hiện rộng rãi và
rõ rệt hơn so với các giai đoạn trước.
Ở nhiều nhà nước đương đại, tính xã hội của chúng thể hiện tương đối rõ.
Nhiều nhà nước ngày nay đã cố gắng bảo đảm công bằng xã hội, chú trọng phát
triển văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế, bảo trợ xã hội, giảm bớt sự
phân hóa giàu nghèo trong xã hội thông qua việc quy định mức lương tối thiểu
cho người lao động, lương hưu và chế độ thu nhập lũy tiến để điều tiết thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư, trợ cấp thất nghiệp cho người lao động, phòng và
chống các căn bệnh thế kỷ, hỗ trợ và khuyến khích người nghèo phát triển kinh
tế, bảo vệ môi trường sống,...Nhà nước ngày nay được coi như người chịu trách
nhiệm chính trong việc phòng ngừa, giải quyết hậu quả của những rủi ro trong
xã hội, bảo đảm sự đoàn kết xã hội và sự phổ biến tri thức. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa trong tương lai là kiểu nhà nước có tính xã hội rộng rãi và rõ rệt nhất
bởi lẽ nó luôn bảo vệ lợi ích của đại đa số dân cư là những người lao động
trong xã hội. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ là một nhà nước như vậy. 2. B
ản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của việc xây dựng chiến
lược đó, bài viết này tìm hiểu về quan niệm, bản chất, giá trị, đặc trưng của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a) Về quan niệm và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một giá trị vừa mang
tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phải là một kiểu
nhà nước mà là một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nền tảng
Hiến pháp và pháp luật, vì dân chủ, con người, quyền con người, quyền công
dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những phương hướng
cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, được xây dựng,
hoàn thiện đồng thời với xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân chủ xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là ba trụ cột phát triển đất nước.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận và khẳng định điều đó. 5
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang tính chất dân chủ,
nhân văn sâu sắc. Nhà nước pháp quyền Việt Nam mang tính chất “xã hội chủ
nghĩa”, được thể hiện ở các quan điểm, mục tiêu, đặc trưng, giá trị, nội dung
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b) Về giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tồn tại, được hiện thực
hóa, vận động và phát triển thông qua các giá trị của nó. Quá trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quá trình hiện
thực hóa, làm sâu sắc, gia tăng các giá trị của nó. Giá trị của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phẩm chất cao cả, có ý nghĩa mang tính
mục tiêu, quan điểm, làm nền tảng chi phối quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một giá trị tích hợp, hàm chứa nhiều giá trị. Đó là các
giá trị cốt lõi: chủ quyền nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất; phân
công và kiểm soát quyền lực nhà nước; công bằng, công lý, quyền con người,
quyền công dân; thượng tôn pháp luật; giá trị tối cao của Hiến pháp. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hướng tới, hiện thực hóa và gia tăng các giá trị đó.
c) Về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp nước ta, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thời gian qua, xu thế phát triển tất yếu của nó thời gian tới và tham khảo kinh
nghiệm nước ngoài, có thể khái quát hóa các đặc trưng cơ bản vừa thể hiện tính
phổ biến vừa thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Đặc trưng này thể hiện tính phổ biến của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nói về chủ quyền nhân dân, được thể
hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định trong các văn kiện của Đảng,
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Đặc trưng này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn
thiện thể chế bảo đảm chủ quyền nhân dân, vai trò chủ thể, trung tâm của nhân
dân; thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”; mở rộng các hình thức thực hành dân chủ trực tiếp;
phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phát huy vai trò
nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong
việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, quyền con người, quyền công dân là giá trị cao cả của xã hội, được
công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật. Đặc trưng
này thể hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam. Để đáp ứng đặc trưng này đòi hỏi tiếp tục nâng cao nhận thức về quyền 6
con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế, thiết chế về quyền con người,
quyền công dân; lấy việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân làm tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước;
đưa nguyên tắc dựa trên quyền con người thành yêu cầu trong xây dựng và
thực thi chính sách, pháp luật.
Thứ ba, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
Đây là đặc trưng mang tính phổ biến, xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Đặc trưng này đòi hỏi phải xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn
Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội; bảo đảm thi
hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
Thứ tư, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối
hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đặc trưng này thể hiện tính đặc
thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn với hệ thống
chính trị Việt Nam, là sự thể hiện sinh động việc vận dụng sáng tạo của Đảng
và Nhà nước ta. Đặc trưng này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp theo hướng xác định rõ ràng, rành mạch chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các thiết chế quyền lực; tiếp tục xác
định rõ, đầy đủ, đúng đắn về sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước; hoàn thiện cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ năm, hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ,
kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp
cận, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả. Đặc trưng này thể
hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được
ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Đây
là điều kiện cần và đủ để bảo đảm xã hội có trật tự, kỷ cương, an toàn pháp lý
cho con người, xác lập được vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Xây dựng và thực hiện pháp luật để khẳng định, hiện thực hóa
các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc, nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong đời sống xã hội và Nhà nước.
Theo đặc trưng này, cần phải đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống pháp luật dân
chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích chính đáng của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo; chú trọng
xây dựng pháp luật theo chiều sâu và nâng cao chất lượng pháp luật; hoàn thiện
cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật; tiếp tục
hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường các nguồn lực thích
đáng cho thực hiện pháp luật, bảo đảm thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất 7
quán và hiệu quả; phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nhất là nguồn nhân lực
pháp luật chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ sáu, bảo đảm độc lập tư pháp. Đây là đặc trưng phổ biến, cốt lõi, được
cộng đồng quốc tế thừa nhận như một giá trị không thể thiếu được của Nhà
nước pháp quyền. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quan trọng của mình: thực hiện
pháp luật công bằng, khách quan, nghiêm minh, nhất quán, bảo vệ hiệu quả các
quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.
Độc lập tư pháp được thể hiện ở ba mức độ:
1) vị trí độc lập của quyền tư pháp trong tương quan với quyền lập pháp và
quyền hành pháp; 2) sự độc lập giữa các tòa án bên trong hệ thống của mình; 3)
sự độc lập của các thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Theo đặc trưng này, đòi hỏi
phải tăng cường bảo đảm tính độc lập của quyền tư pháp trong cơ chế quyền
lực nhà nước; tiếp tục hoàn thiện tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào các đơn vị hành chính; đổi mới quản trị tòa án; mở rộng thẩm
quyền của tòa án; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm;
hoàn thiện thủ tục tố tụng tranh tụng; phát triển và nâng cao chất lượng nhân
lực của tòa án, nhất là đội ngũ thẩm phán.
Thứ bảy, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tuân thủ pháp luật quốc tế và
thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia, dân tộc. Đặc trưng này thể hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng,
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tuân thủ pháp luật quốc tế và thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Đặc trưng này đặt ra nhiệm vụ chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực pháp luật theo hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế để tăng cường sự chủ động
hội nhập quốc tế của Việt Nam; đổi mới mạnh mẽ, tạo ra sự thay đổi về chất
trong hợp tác quốc tế về pháp luật; thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, áp dụng
pháp luật quốc tế, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hợp tác pháp luật quốc tế.
Thứ tám, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, phù hợp với hệ thống chính trị Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tất yếu lịch sử, quy
luật của xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhân tố bảo đảm bản
chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mang tính chính
danh, tính chính đáng, hiến định. Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhưng không đứng
trên Hiến pháp và pháp luật mà đặt mình trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật. Các tổ chức của Đảng và đảng viên vừa phải gương mẫu, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện 8
đường lối, chủ trương, các quy định của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã
ghi nhận và khẳng định điều đó. Đặc trưng này đòi hỏi phải nâng cao năng lực,
đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức và thể chế lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo đảm các tổ
chức của Đảng và đảng viên, nhất là các tổ chức, đảng viên hoạt động trong các
cơ quan nhà nước gương mẫu, đi đầu trong thực hành dân chủ và tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Quan niệm, bản chất, giá trị, đặc trưng tạo thành hệ thống các yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được thể hiện xuyên suốt trong
các quan điểm, mục tiêu, đột phá, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là quá trình khẳng định, hiện thực hóa và làm gia tăng liên tục bản chất, các giá
trị, đặc trưng của nó để nhân dân cảm nhận và thụ hưởng được ngày càng đầy
đủ bản chất, các giá trị, đặc trưng đó.
3. Bản chất của nh
à nước theo chủ nghĩa Mác - Lênin?
Bản chất là khái niệm diễn đạt những đặc tính bên trong của sự vật, cái cốt lõi
của sự vật gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật đó. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thì bản chất nhà nước có 02 thuộc tính:
a) Bản chất giai cấp của nhà nước:
Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp, và bao giờ cũng thể
hiện bản chất giai cấp sâu sắc, thể hiện ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng
chế đặc biệt, là công cụ sắc bén nhất để thực hịên sự thống trị giai cấp, thiết lập
và duy trì trật tự xã hội.
b) Bản chất xã hội của nhà nước:
Thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, Nhà nước phải giải quyết tất
cả các vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, phục
vụ những nhu cầu mang tính chất công cho xã hội như: xây dựng trường học,
bệnh viện, đường xá, giải quyết các tệ nạn xã hội…..
=> Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất
giai cấp, vừa mang bản chất xã hội.
4. Bản chất nhà nước Việt Nam hiện nay
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đứng
lên làm Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lập ra Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Do miền Nam chưa được hoàn toàn giải phóng nên
nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam để thống nhất đất nước đồng thời chuyển dần sang thực hiện nhiệm 9
vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Năm 1975 miền Nam được
giải phóng, đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đổi tên thành Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã
được tìm tòi, sáng tạo dựa hên cơ sở lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như V. I. Lênin đã khẳng định:
"Tất cả các dân tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không
thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã
hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ
đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của
chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của nền chuyên chính
vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đổi với các mặt khác nhau của đời sổng xã hội”.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang đầy đủ những yếu tố
của một nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, vừa mang những đặc trưng riêng
gắn liền với điều kiện đất nước và con người Việt Nam.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là
quan hệ sản xuất được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ sở hữu nhiều hình thức,
thực hiện chính sách xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Cơ sở xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhân dân Việt Nam mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được tập hợp thông nhất dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với cơ sở kinh tế và xã hội như trên, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được xác định là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở tiếp tục kiên định các nguyên lí của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước, về hoạt động xây
dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tập trung -
dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước... Nhà nước pháp
quyền Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo tinh thần đề cao chủ quyền
nhân dân, những vấn đề quan trọng nhất của đất nước do nhân dân quyết định.
Nhà nước coi con người là giá trị cao nhất trong xã hội, luôn phấn đấu vì hạnh
phúc của con người theo tinh thần “tất cả cho con người, tất cả vì con người”;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; thừa nhận vị trí tối thượng của hiến pháp và luật trong đời sống xã hội.
Nhà nước tể chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, thực hiện
quản lí xã hội bằng hiến pháp và pháp luật; thực hiện nguyên tắc bình đẳng
trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, Nhà nước công nhận, tôn 10
trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hoá, xã hội theo hiến pháp và pháp luật; dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, độc lập, tự do, hạnh phúc vừa là mục tiêu vừa là
động lực để Nhà nước và xã hội phấn đấu vươn tới; Nhà nước bảo đảm thực
hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế...
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, tất
cả quyền lực nhà nước ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc
về nhân dân. Các cơ quan nhà nước ở Việt Nam nhận quyền lực từ nhân dân.
Còn nhân dân Việt Nam “thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6 Hiến pháp năm 2013).
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do nhân dân, nói
cách khác, nhân dân Việt Nam gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội
ngũ trí thức và những người lao động khác tổ chức thành nhà nước. Nhân dân
Việt Nam trực tiếp bầu ra đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, là những cơ
quan đại biểu của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, để phục vụ lợi ích của nhân
dân. Nhân dân không chỉ lập ra các cơ quan nhà nước mà còn có thể trực tiếp
làm việc trong các cơ quan đó để trực tiếp nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước.
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước vì nhân dân, tất
cả mọi chính sách, pháp luật, hoạt động, mọi cố gắng của Nhà nước Việt Nam
đều vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân thì sẽ vì nhân dân, do vậy, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước ở Việt Nam phải luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trực tiếp tố chức và
quản li hầu hết các mặt quan trọng của đời sống xã hội.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu dân đói thì Đảng, Chính phủ có
lỗi, nếu dân dốt thì Đảng, Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm Đảng, Chính phủ có lỗi
và nếu dân rét thì Đảng, Chính phủ cũng có lỗi. Từ đó cho thấy, Nhà nước Việt
Nam không chỉ là tổ chức chính trị của nhân dân Việt Nam mà còn là tổ chức
kinh tế, văn hoá, xã hội... đã và đang trực tiếp tổ chức và thống nhất quản lí nền
kinh tế quốc dân, sự nghiệp văn hoá, hệ thống giáo dục quốc dân, nhà nước đầu
tư, phát triển và thống nhất quản lí sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, sự
nghiệp thể dục, thể thao, du lịch... của đất nước nhằm “bảo đảm và phát huy
quyền ỉàm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sổng ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện' (Điều 3 Hiến pháp năm 2013). 11
Trên thực tế Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân,
nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây
dựng đất nước giàu mạnh, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện dân chủ, công
bằng xã hội, phấn đấu để tiến tới xoá bỏ mọi sự áp bức, bóc lột và bất công.
Thứ ba, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ,
một công cụ thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục
tiêu “điều kiện tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”,
làm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện. Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, mọi chính sách và pháp luật của Nhà nước đều có sự
tham gia ý kiến của nhân dân, đều vì lợi ích của nhân dân. Nhà nước tạo mọi
điều kiện để nhân dân tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương, thực hiện dân chủ hoá trên các
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, tư tưởng... Bộ
máy nhà nước Việt Nam luôn được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc
dân chủ, tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc, từng
bước tiến tới nền dân chủ thực sự theo tinh thần: Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Chủ trương của Việt Nam hiện nay là:
“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi
đường lối, chủ trưomg của Đảng, chỉnh sách, pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân,
tận tụy phục vụ nhân dân”.
Đẩy mạnh thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện:
“Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhăn dân tham gia ở
tất cả các khâu của quả trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”.
Cùng với việc phát huy dân chủ phải tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm
công dân, giữ vững kỉ luật, kỉ cương và đề cao đạo đức xã hội.
Thứ tư, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Điều 5 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là quổc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh song trên đất
nước Việt Nam”. Do vậy, Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị
của nhân dân, biểu hiện tập trung khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam bình
đẳng về mọi phương diện, các dân tộc đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện, tạo điều kiện để các dân tộc
thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Trong giai đoạn hiện
nay cân nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy 12
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thể, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng.
Thứ năm, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giai cấp công nhân với đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam, là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo.
Hiến pháp Việt Nam hiện hành đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Không chỉ tổ chức và xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp, Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thực hiện sự chuyên chỉnh với kẻ thù của
nhân dân, phòng chống giặc ngoại xâm, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị Nhà nước Việt Nam nghiêm trị theo
pháp luật. Nhà nước Việt Nam bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, mở rộng dân chủ đối với nhân dân đồng thời luôn chuyên chính với kẻ thù
của nhân dân, bởi chỉ có như vậy mới bảo vệ được tự do và dân chủ của nhân dân.
Thứ sáu, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của thời
Id quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp lại phải trải
qua muôn vàn khó khăn, gian khổ nên cho đến nay mặc dù đã xây dựng xã hội
chủ nghĩa được khá nhiều năm, song Việt Nam vẫn đang trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội - thời kì vừa có chủ nghĩa xã hội vừa chưa có chủ nghĩa xã
hội, thời kì cái cũ đang mất đi nhưng chưa mất hẳn, cái mới đã ra đời nhưng
chưa hoàn chỉnh. Vì thế, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng
mới chỉ là nhà nước của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên những ưu việt
của một nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn chưa được bộc lộ rõ, chưa trở thành
hiện thực, mọi thứ vẫn đang còn ở phía trước. Do vậy, giai đoạn hiện nay Nhà nước Việt Nam cần:
“Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của
nhăn dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực
hiện tốt chức năng quản lí kinh tế, quản lí xã hội; giải quyết đủng
mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản
lí và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa và kỉ luật, kỉ cưomg. Nhà nước chăm lo,
phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân”. Đồng thời càn phải: 13
"... đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành
pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để
Nhà nước quản li xã hội, vừa là công cụ để nhân dần làm chủ,
kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã và đang vượt qua rất nhiều thử thách, khó khăn, không ngừng phát
triển và hoàn thiện để từng bước hiện thực hoá những lí tưởng cao đẹp của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
II. Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC
Vấn đề bản chất của nhà nước là một chủ đề rộng lớn trong lĩnh vực khoa
học chính trị và triết học chính trị. Có nhiều góc độ và quan điểm khác nhau về
ý nghĩa của vấn đề này. Dưới đây là một số khía cạnh quan trọng:
1. Quyền lực và Tổ chức:
- Quyền Lực:Nhà nước thường đại diện cho sự tập trung quyền lực ở một
tầng lớp cấp cao, thông thường là chính phủ. Quyền lực này có thể được thực
hiện thông qua các cơ quan như quốc hội, chính phủ, và hệ thống tư pháp.
- Tổ Chức: Nhà nước là một tổ chức có tổ chức, với các bộ máy quản lý và cơ
quan địa phương để thực hiện chức năng quản lý và điều hành. 2. Bảo vệ và An ninh:
- Nhà nước thường đảm nhận trách nhiệm bảo vệ an ninh nội địa và ngoại
đạo, sử dụng lực lượng quân đội và cảnh sát để duy trì trật tự và an toàn.
3. Chính trị và Quản lý Xã hội:
- Nhà nước thường định rõ các chính sách và quy định liên quan đến kinh tế,
giáo dục, y tế, và các lĩnh vực xã hội khác. Nó can thiệp vào các hoạt động xã
hội để đảm bảo sự công bằng và phát triển.
4. Luật Pháp và Hệ Thống Pháp Luật:
- Nhà nước thường đặt ra và duy trì hệ thống pháp luật để quy định hành vi
của công dân và tổ chức, đồng thời giải quyết tranh chấp và xử lý tội phạm.
5. Chủ Quan và Đối Tượng:
- Ý nghĩa của nhà nước có thể thay đổi tùy thuộc vào quan điểm chính trị và
triết học của mỗi người. Một số người coi nhà nước là công cụ bảo vệ quyền
lợi và tự do cá nhân, trong khi người khác có thể nhìn nhận nó như một đại
diện của quyền lực tập trung và kiểm soát.
Vấn đề bản chất của nhà nước thường gắn liền với các triết lý chính trị, với
các tranh luận về mức độ can thiệp của nhà nước vào đời sống cá nhân và
kinh tế, cũng như về cách nhà nước nên được tổ chức và quản lý. 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) TS. Nguyễn Xuân Hưởng (Chủ biên). Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
(2) https://www.studocu.com/vn/home
(3) Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật / Trường Đại học Luật
Hà Nội ; Chủ biên: Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm ; Nguyễn Văn Động (4) Luatvietnam.vn (5) Everest.org.vn (6) Luatminhkhue.vn (7) Nhandan.vn MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU:..............................................................................................3
B. NỘI DUNG:..................................................................................................4 15
I. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.....................................................................4
1. Khái niệm bản chất của nhà nước...................................................................4
2. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.......................6
3. Bản chất của nhà nước theo chủ nghĩa Mác - Lênin?...................................10
4. Bản chất nhà nước Việt Nam hiện nay.........................................................10
II. Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.......................15
1. Quyền lực và Tổ chức:.................................................................................15
2. Bảo vệ và An ninh:.......................................................................................15
3. Chính trị và Quản lý Xã hội:........................................................................15
4. Luật Pháp và Hệ Thống Pháp Luật:............................................................15
5. Chủ Quan và Đối Tượng:.............................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................16
MỤC LỤC........................................................................................................ 17 16 17 18 19 20