Tiểu luận chủ đề: Loại hình nhà kho hoành đạo Nguyễn Trãi
Tiểu luận chủ đề: Loại hình nhà kho hoành đạo Nguyễn Trãi
Môn: Khuynh hướng Văn học và loại hình tác giả Văn học trung đại
Trường: Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|36232506
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG KHOA NGỮ VĂN
Tiểu luận kết thúc học phần
KHUYNH HƯỚNG VĂN HỌC
VÀ LOẠI HÌNH TÁC GIA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
Thiết kế phần tìm hiểu nội dung kiến thức
dạy học cho học sinh THPT Chủ đề:
LOẠI HÌNH NHÀ NHO HÀNH ĐẠO NGUYỄN TRÃI
(khảo sát qua tiểu sử và Ức Trai thi tập)
Giáo viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN QUANG HUY
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN VÕ DIỄM UYÊN – 21SNV2
Đà Nẵng, tháng 1 năm 2023 MỤC LỤC:
PHẦN 1: VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA VẤN ĐỀ
PHẦN 2: TRỌNG TÂM NỘI DUNG KIẾN THỨC
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
2.1 Các thuật ngữ, từ ngữ trọng tâm
2.2 Cách hiểu về các thuật ngữ, từ ngữ trọng tâm
2.3 Các nội dung kiến thức của vấn đề cần phải phân tích và đánh giá a. Tiểu sử Nguyễn Trãi a1. Quê quán a2. Gia đình a3. Dòng họ
a4. Cuộc đời và các trải nghiệm sống, địa vị xã hội, nghề nghiệp, hứng thú nghệ thuật, bối cảnh xã hội b. Ức Trai thi tập
c. Các biểu hiện của nhà Nho hành đạo c1. Cơ sở tư tưởng
c2. Các chủ đề, đề tài sáng tác
c3. Hình thức nghệ thuật
2.4 Câu hỏi liên hệ và cách giải quyết
PHẦN 3: TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN 4: PHỤ LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của
lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi là một người anh hùng dân
tộc, nhà tư tưởng uyên bác, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, nhà văn hoá kiệt xuất,... Nguyễn
Trãi là người có công rất lớn trong việc khái quát các vấn đề mang tính quy luật sự
nghiệp xây dựng và giữ gìn đất nước. Riêng về mặt văn học, Nguyễn Trãi là tác giả có
vị trí rất quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam - vị trí kết tinh và vị trí mở đường
của một nhà văn lớn. Một số tác phẩm đỉnh cao của ông có thể kể đến như: Quốc Âm
thi tập, Môn Hoa Mộc, Quân trung từ mệnh tập, Ức trai thi tập,... Là cây bút xuất sắc
trên nhiều loại hình văn học: chính luận và trữ tình, Hán và Nôm, văn học quan
phương và văn học đời tư… Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta thường đánh giá ông là
nhà Nho hành đạo, do đó tôi chọn đề tài này để tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc hơn về
cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông. Bên cạnh đó, việc hiểu được tư tưởng của
Nguyễn Trãi có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay. Bởi những tư tưởng của Nguyễn Trãi sẽ mang lại nhiều
giá trị trong việc giảng dạy cũng như vận dụng vào thực tế.
PHẦN 2: TRỌNG TÂM NỘI DUNG KIẾN THỨC
2.1 Các thuật ngữ, từ ngữ trọng tâm
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 - Loại hình tác giả
- Loại hình nhà Nho hành đạo
2.2 Cách hiểu về các thuật ngữ, từ ngữ trọng tâm Loại hình tác giả
Loại hình chỉ một nhóm nhà văn, một nhóm tác phẩm hoặc yếu tố (chủ đề, đề tài,
thể loại, nhân vật) có những đặc trưng chung nhưng xuất hiện tại các nước khác nhau,
là ngành nghiên cứu những điểm tương đng, những điểm khác biệt, biến đổi cùng các
nguyên nhân, ý nghĩa của chúng. Loại hình học có hai phân nhánh là chủ đề học, văn loại học.
Ngun: Lê Bá Hán, Trn Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đng chủ biên), 2006, Từ điऀn
thuật ngữ v愃n h漃⌀c, NXB Giáo dục .
Loại hình nhà Nho hành đạo
Trong truyền thống, nhà nho hành đạo là những người sẵn sàng thực hành những
nguyên tắc đạo lý của Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc, suốt đời nguyện thực
hiện lý tưởng “Thượng trí quân, hạ trạch dân” (trên thì giúp vua, dưới thì chăm dân).
Theo nhà nghiên cứu Trn Ngọc Vương, con đường đi của một nhà nho hành đạo: Đỗ
đạt - làm quan - cáo quan. Nhà nho hành đạo tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống ở lý tưởng
Nho giáo. Họ đề cao đạo và chí, chú trọng đến vấn đề tu thân, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Đối với nhà nho hành đạo truyền thống phải có hai điều kiện tiên quyết: Được học tập
trong môi trường của Nho giáo; Đi thi đỗ đạt và ra làm quan.
Nhà Nho hành đạo thi hành thực hiện những nguyên tắc của Nho giáo, họ sẵn
sàng dấn thân, xây dựng một xã hội quốc thái dân an với mô hình Nghiêu Thuấn. Cho
nên hình tượng con người hành đạo trong sáng tác mang nhiều hoài bão, tráng chí,
khát khao cống hiên, xả thân vì đại nghĩa. Ngun:
https://philology.hpu2.edu.vn/doc/ve-mot-kieu-nha-nho-hanh-dao-viet-nam-
giai-doan-nua-cuoi-the-ki-xix--truong-hop-dang-huy-tru--pham-phu-thu--nguyen-
truong-to--nguyen-lo-trach-.html?
fbclid=IwAR2_pRlFnhrkkrAfGH72wTKMujWCewi9DRooeFKhQOGm6xEoFN- um3TRvlc
2.3 Các nội dung kiến thức của vấn đề cần phải phân tích và đánh giá
a. Tiểu sử Nguyễn Trãi a1. Quê quán
Nguyễn Trãi (1380–19/9/1442), quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ
Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương); sau dời đến làng Ngọc Ổi, xứ Sơn Nam
Thượng, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). a2. Gia đình
Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trn Thị
Thái. Có các con là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng
và Nguyễn Phi Hùng. Năm Nguyễn Trãi được năm tuổi bà Trn Thị Thái qua đời, anh
em Nguyễn Trãi lại nương nhờ ông ngoại là Trn Nguyên Đán nhưng đến năm 1390
thì Trn Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con ăn học.
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai: Bà Phạm Đỗ Minh Hiển
Bà Phùng Thị, sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
Bà Nguyễn Thị Lộ, không có con.
Bà Phạm Thị Mẫn, sinh ra Nguyễn Ánh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên).
Bà Trn Anh Minh, sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
Bà Lê Thị: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải Dương. a3. Dòng họ
Dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại có xuất xứ từ Nguyễn Bặc - Thái tể Định Quốc
Công triều Đinh, quê ở huyện Hoàng Hóa, Thanh Hóa, di cư ra khoảng cuối thế kỷ X.
Từ đó dòng họ Nguyễn phát triển đến đời cụ Tiên Nghiêm, sinh ra hai con trai. Vì nhà
nghèo, hai anh em họ Nguyễn từ Chi Ngại đến Trại Ổi (tức làng Nhị Khê - Thường
Tín, Hà Đông) làm thuê cho một nhà bán tương để sinh nhai.
Một thời gian sau người em sang định cư ở thôn Cổ Hoạch (huyện Thanh Oai,
Hà Đông), người anh ở lại Nhị Khê. Từ đó lập nên ba chi họ Nguyễn. Chi họ gốc ở
Chi Ngại, Chi họ Nhị Khê và chi họ Canh Hoạch.
Theo gia phả chi họ Nguyễn Nhị Khê (khoảng năm 1455) thì cụ tổ sinh ra
Nguyễn Ứng Long - đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh. 19 tuổi ông đỗ đệ nhất giáp
Tiến sĩ, đệ nhị danh bảng nhãn thời Trn Duệ Tông (1374). Năm 1401, Nguyễn Phi
Khanh ra làm quan dưới triều H.
Nguyễn Phi Khanh lấy bà Trn Thị Thái hiệu là Ngọc Điền, con quan Tư Đ
Trn Nguyên Đán. Bà sinh được 4 người con trong đó có Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi
Hùng, Nguyễn Phi Ly. Cụ bà Trn Thị Thái mất sớm (năm 1490). Cụ Nguyễn Phi
Khanh lấy bà vợ kế người họ Nhữ ở xã Mộc Nhuận. Ông là một trong số ít người tham
gia tiền khởi nghĩa Lam Sơn. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Như Soạn là vị
tướng tài ba lập nhiều công được vua Lê phong là Binh Ngô Khai quốc công thn. Sau
khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi và Nguyễn Như Soạn cùng làm quan đông triều,
anh là quan văn, em là quan võ làm rạng tổ tông. Từ đó dòng họ Nguyễn phát triển.
Các chi đều lấy đệ Nhất Thái Thượng Cao Tổ của dòng họ là Nguyễn Phi Khanh (đời thứ nhất).
Đệ nhị tổ (đời thứ 2) là Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, ông sinh năm 1380. Do có
công lao lớn Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ ban họ vua là Lê Trai và phong chức
tước: “Khai quốc công thn, Nhập nội hành khiển, Trung thư hàn lâm ngự sử, Lục Bộ
Thượng Thư, Tứ Kim Ngư Đại Thượng Hộ Quan Phục Hu”. Năm 1442, vụ án Lệ Chi
Viên oan khuất đã kết thúc đời ông cùng ba họ.
a4. Cuộc đời và các trải nghiệm sống, địa vị xã hội, nghề nghiệp, hứng thú nghệ
thuật, bối cảnh xã hội Thời thơ ấu:
Ở Nhị Khê, Nguyễn Phi Khanh đã ra công rèn cặp các con theo khuôn khổ Nho
giáo mà có lẽ là Nho giáo Khổng Mạnh chứ không học Tống Nho vì H Quý Ly đã bài
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
bác Tống Nho là không thiết thực. Tuy còn ít tuổi nhưng Nguyễn Trãi rất ham học.
Điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc:
Cố viên loạn hậu hữu tiên lư
Lục tuế nhi đồng phả ái thư Dịch nghĩa:
Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ
Sáu tuổi con thơ rất thích sách Làm quan nhà H
Năm 1400, H Quý Ly phế truất vua Trn Thiếu Đế, lật đổ nhà Trn, nhà H
thành lập. Cũng trong năm đó, nhà H mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và
đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư, được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi
Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử
Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại
Ngu, nhà H kháng chiến thất bại, H Quý Ly cùng nhiều triều thn bị bắt và bị đem
về Trung Quốc, trong số đó có Nguyễn Phi Khanh. Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc.
Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh.
Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Nhiều tài liệu
khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải
và tỏ ý muốn đi theo hu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đng ý và khuyên ông
nên về lo cứu nước báo thù nhà. Mười năm phiêu dạt
Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Bình Định Vương ở
Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cho tới nay vẫn chưa thấy được những tài
liệu chính xác, đy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như
chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể.
Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển, lênh đênh ở nơi chân trời góc biển
trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con
số mười năm chỉ mang tính tương đối.
Theo Phan Huy Chú trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, sau khi ra
hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ
chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng
Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi đâu. Ông
lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở
đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cu mộng, được thn báo cho tên họ Lê
Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa.
Theo Nguyễn Lương Bích trong sách “Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước”, dựa
trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn
Việt thi lục nói Nhà H mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu
lục viết Nhà H mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau
cuộc kháng chiến thất bại của H Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một
khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn
Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa.
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Ngoài ra, còn có một số người đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng sang Trung Quốc
ở thời kì này, dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc
như Bình Nam dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam), Ngô Châu, Giang Tây, Thiều
Châu Văn Hiến miếu (Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu), Đ trung kí hữu
(Trên đường gửi bạn)…
Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
Thời điểm Nguyễn Trãi lên Lỗi Giang yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham
gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện nay các tài liệu chưa được thống nhất.
Một số học giả cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
từ hội thề Lũng Nhai vào năm 1416.
Có người khẳng định Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420
hoặc 1421 hay sau đó một chút.
Với một số phát hiện mới, đặc biệt là bản Đinh tộc ngọc phả của dòng họ Đinh
Liệt thì Nguyễn Trãi lấy tên là Trn Văn và Trn Nguyên Hãn lấy tên là Trn Võ, đến
Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân vào mùa xuân năm 1423.
Ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn trao cho vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản
Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh mà chủ yếu
là tâm công, đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng.
Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên
phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân.
Trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịch
Tháng 6 năm 1423, Lê Vận và Lê Trăn được Bình Định Vương cử làm sứ giả,
mang lễ vật là năm đôi ngà voi cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cu hoà. Lời lẽ trong
thư rất mềm dẻo, khôn khéo, Tổng binh nhà Minh là Trn Trí chấp thuận ngay. Từ đây,
mọi thư từ giao thiệp giữa quân Lam Sơn và quân Minh cũng như văn thư hiểu dụ các
thành trì đều do một tay Nguyễn Trãi soạn thảo. Nguyễn Trãi cũng đề xuất một diệu kế
nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật
(hoặc mỡ) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thn, nghĩa là Lê
Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt
lá, ri lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số
tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá
cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa
còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi
đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thn, nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn hiếm hoi, Lê Lợi dẫn quân về Lam Sơn, nhanh
chóng củng cố lực lượng. Năm 1424, Trn Trí biết rằng không thể chiêu dụ Lam Sơn
đu hàng, bèn bắt giữ sứ giả Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa bước vào một giai đoạn mới.
Chấp thuận ý kiến của Nguyễn Chích, tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn
tiến vào nam, tấn công đn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An. Kết
hợp với các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho Phương Chính để
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
khiêu chiến với tướng này, hòng khiến quân Minh sơ hở. Tuy nhiên, thành Nghệ An
vẫn cố thủ không chịu đu hàng.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba
hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động – Chúc Động. Bình Định
Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi trở ra bắc.
Đu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành
khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đng thời, ông cũng sai
dựng một toà lu nhiều tng ở dinh B Đề, trên bờ sông Hng, cao ngang tháp Báo
Thiên, hàng ngày ngi trên lu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của
quân Minh; Nguyễn Trãi ngi hu ở ngay tng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại.
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu
dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng
lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất
khả quan : các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đu năm 1427. Bản thân
Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam
Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm
1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm ln Quân Minh ở
Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông
Quan, Cổ Lộng, Tây Đô… mà thôi.
Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương
Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ
Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng – Xương Giang, hai đạo
viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu
diệt hoàn toàn. Quân Minh ở Đại Việt lâm vào tình thế khốn quẫn hoàn toàn, buộc phải
đề nghị giảng hoà. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên
đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người
Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt
sử kí Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rõ rằng: “Duy có hành khiển Nguyễn
Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói
“Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nh漃⌀c quân đi muôn dặm ; giả sử dùng quân được
như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như b漃⌀n Trương Phụ
thì mới có thऀ đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thऀ giữ được”, nên biết
rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua Lê Thái Tổ nghe theo và
hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra.
Nhờ đó, quân Minh nhanh chóng giảng hoà, tổ chức hội thề Đông Quan và rút
toàn quân về nước. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi
nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Nguyễn Trãi can nên
tha cho những người cùng đường. Văn thn triều Lê
Đu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã
đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
cho quốc tính (họ Lê) và tước Quan phục hu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển
như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thn. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê
Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn
Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh.
Lão thn triều vua Lê Thái Tông
Lê Thái Tông được chỉ định nối ngôi vua chỉ hơn một tháng trước khi Lê Thái Tổ
qua đời. Nhưng, Lê Thái Tổ cũng có một cố mệnh khác. Lê Quý Đôn cho biết rằng
“Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính”.
Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong
số đó có Nguyễn Trãi. Sau đó, ông lại được tiến cử vào dạy học cho Lê Thái Tông ở
toà Kinh Diên. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông
ghi chép khá đy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó.
Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với hoạn quan
Lương Đăng sửa định nhã nhạc và quy chế lễ nghi trong triều đình. Đây vốn là công
việc mà Nguyễn Trãi được Lê Thái Tổ sai làm từ trước, nhưng chưa kịp thi hành. Ngay
tháng ấy, Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu rằng “Kऀ ra, thời loạn
dùng võ, thời bình chuộng v愃n. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc
thì không thऀ đứng vững, không có v愃n thì không thऀ thi hành. Hoà bình là gốc của
nhạc, thanh âm là v愃n của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không hết
lòng hết sức, nhưng vì h漃⌀c thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được
hài hoà. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, đऀ cho các nơi làng mạc không có tiếng oán
giận than sầu, đó là không mất cỗi gốc của nhạc vậy.”
Tuy nhiên, vì bất đng ý kiến gay gắt với Lương Đăng, chỉ bốn tháng sau, Nguyễn
Trãi xin rút lui khỏi công việc này. Tháng 12 năm 1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố
các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cm
đu một nhóm văn thn như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu,
Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối. Kết quả, Nguyễn Liễu bị đày ra viễn châu do có lời
phỉ báng hoạn quan trước mặt vua.
Không chỉ thất bại trong công tác chế định nhã nhạc, Nguyễn Trãi còn chịu nhiều
định kiến từ các nhân vật nắm giữ quyền hành thời bấy giờ như Lê Sát, Phạm Vấn…
Năm 1434, tờ biểu văn cu phong do Nguyễn Trãi soạn, quan ở Nội mật viện là
Nguyễn Thúc Huệ và học sĩ Lê Cảnh Xước muốn sửa đối vài chữ. Nguyễn Trãi không
cho, giận dữ mắng hai viên quan ấy là tham lam vơ vét, dẫn đến nạn hạn hán đang
hoành hành lúc bấy giờ. Nguyễn Thúc Huệ đem nói việc đó với Lê Sát và Phạm Vấn,
khiến hai người tức tối, trách mắng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi từ tạ nhưng Lê Sát vẫn
giận không nguôi. Mâu thuẫn rắc rối đến độ, trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm
1435, các quan đại thn đá việc và mắng xéo lẫn nhau. Vua Lê Thái Tông hỏi về cách
xử lý, Nguyễn Trãi đã khuyên vua nên thi hành nhân nghĩa. Nhân lời tâu của Nguyễn
Trãi, Lê Sát, Lê Ngân mỉa mai ông là có nhân nghĩa, có thể cảm hoá được kẻ ác thành
người thiện, ri yêu cu Nguyễn Trãi nhận và giải quyết mấy tên tù ấy. Nguyễn Trãi
bối rối từ chối, tự nhận rằng “Những kẻ ấy là hạng trẻ con ranh mãnh, ương ngạnh,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
pháp luật của triều đình còn không thऀ trừng giới được, huống chi b漃⌀n tôi ít đức thì
cảm hoá thế nào được?”. Hi lâu sau mới quyết định trảm hai tên, còn thì xử lưu đày.
Vì vậy, khoảng cuối năm 1437, đu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn
Sơn – nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông – chỉ thỉnh thoảng mới vâng
mệnh vào chu vua. Nguyễn Mộng Tuân từng đến chơi nhà ông và có câu thơ rằng:
Nhất điều thuỷ lãnh tri Tam quán
Tứ bích gia bần phú lục kinh Dịch nghĩa
Nhà quan Tri Tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước
Bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở.
Năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc
Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn
Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự. Ông cũng được giao cho
việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo. Nguyễn Trãi nhận
mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn
Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo
và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Vụ án Lệ Chi Viên và được giải oan
Tháng bảy âm lịch năm 1442, Lê Thái Tông đi duyệt võ ở Chí Linh có ghé thăm
Nguyễn Trãi ở Côn Sơn. Trên đường trở về kinh thành nhà vua đi cùng Nguyễn Thị
Lộ, vợ lẻ của Nguyễn Trão lúc này đang sung chức Lễ nghi nữ học sĩ trong triều. Ngày
4 tháng 8 âm lịch (7-9-1442) xa giá về đến Lệ Chi Viên tục gọi là Trại Vải nhà vua bị
cảm và đến sáng thì mất. Các quan hộ giá giữ kín tin dữ và về đến ngày mng sáu
tháng tám mới rước linh cữu vua về Thăng Long. Ngay sau đó Nguyễn Trãi và Nguyễn
Thị Lộ bị bắt khép vào tội âm mưu giết vua.
Không đy nửa tháng sau: ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất tức ngày 19 tháng 9
năm 1442: Nguyễn Trãi và gia tộc đã rụng đu vì cái án tày trời: tru di tam tộc.
Một đến hai mươi năm sau, vào năm Quang Thuận thứ 5 tức năm 1464, nhìn thấy
được nỗi oan uổng của Nguyễn Trãi, vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu rửa oan cho
ông, truy phong ông chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, uuuujNguyễn Anh Vũ làm
tri huyện. Nhà vua lại cấp cho gia đình họ Nguyễn một tram mẫu ruộng để dung vào
việc đế tự. Đặc biệt nhà vua lại cử riêng Trn Khắc Kiệm lo việc sưu tm di cảo thơ
văn của ông. Cũng nhờ đó, một phn tác phẩm quý giá ấy đến ngày nay còn giữ lại được. b. Ức trai thi tập
Tập thơ do Dương Bá Cung sưu tm, gm 105 bài, trong đó có 17 bài tn nghi.
Đa số các bài trong tập này là thơ thất ngôn bát cú; thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn, chỉ có
2 bài theo thể trường thiên là "Côn Sơn ca" và "Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên".
Năm 1822–1823, Dương Bá Cung sưu tập các tác phẩm của Nguyễn Trãi, ri
theo loại mà sắp xếp thành một tập. Đến đu những năm 30 của thế kỷ XIX, lúc này tài
liệu thu thập đã tương đối phong phú, ông mang đến cho Nguyễn Năng Tĩnh xem và
nhờ biên soạn, sắp xếp, phê bình kiểm duyệt và đề lời tựa. Nguyễn Năng Tĩnh nhận lời
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
và đã xếp thành 4 quyển, sau đó ở cuối lại phụ chép thêm thơ văn Nguyễn Phi Khanh
làm quyển thứ 5, lấy nhan đề Ức Trai di tập.
Về nội dung, có thể chia ra 3 chủ đề lớn:
- Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh.
- Thơ sáng tác sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu (trong đó có bài "Đề Hoàng ngự
sử Mai tuyết hiên" làm khi ở Đông Quan).
- Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh, giống thơ "ngôn chí" trong Quốc âm thi tập.
c. Biểu hiện nhà Nho hành đạo của Nguyễn Trãi c1. Cơ sở tư tưởng
Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Tư tưởng nhân nghĩa: Ông có những đóng góp to lớn trong việc hoạch định
đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược, giải phóng
dân tộc. Hơn thế, Nguyễn Trãi còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam ở thế
kỷ XV. Ông đã có công tổng kết, khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự
nghiệp dựng nước và giữ nước trong điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt nam. Thông
qua các tác phẩm trong Ức Trai thi tập , chúng ta thấy tư tưởng Nguyễn Trãi đã phản
ánh nhiều mặt của đời sống nước ta đương thời: về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn
hoá; về vai trò của nhân dân, về lý tưởng xã hội,...
Thính vũ là một bài thơ chữ Hán đy tình cảm bộc lộ tâm tư của tác giả bắt đu là
cảnh trời mưa, trong gian phòng u tối tịch mịch, thi nhân là khách trọ đã thức thâu đêm
một mình trong căn phòng vắng vẻ u tối nghe tiếng mưa rơi tâm trạng bn chn, như
chưa thực hiện một hoài bão lớn, một trách nhiệm nam nhi nợ nước thù nhà, tiếng trúc
khua tiếng chuông chùa hoà âm điệu làm cho nỗi bun càng chất ngất thức thâu đêm,
ngoài trời mưa rỉ rả lúc to lúc nhỏ, ngâm thơ vẫn không sao ngủ được đến sớm mai. Tịch mịch u trai lý, Chung tiêu thính vũ thanh. Tiêu hao kinh khách chẩm!
Điऀm trích sổ tàn canh. Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị
(Thính vũ – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa: Vò võ trai phòng vắng, Suốt đem nghe tiếng mưa. Não nùng nung gối khách, Thánh thót mấy canh dư. Cách trúc khua song nhặt,
Hoà chuông động giấc mơ.
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Đứt nối đến tờ mờ.
(Thính vũ – Nguyễn Trãi)
Mệnh trời: Nguyễn Phi Khanh cho rằng, con người sống và làm việc phải theo
“lẽ trời”, vì thế việc “xuất” hay “xử” của nhà Nho không phải là tuỳ tiện theo ý mình
mà phải tuân thủ ý trời, phải theo lẽ trời. Có thể thấy, đối với các nhà Nho, mọi việc
diễn ra từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc xã hội, của đất nước đến việc của đời người
đều là do trời chi phối. Đây cũng chính là quan niệm của Nguyễn Trãi về mệnh trời.
Với ông, sự biến đổi của một triều đại, sự thịnh suy của một đất nước đều liên hệ đến
trời. Không chỉ vận nước hay mệnh vua mà cả sự thành hay bại, sang giàu hay đói rách
của con người, theo Nguyễn Trãi, cũng do trời quy định.
Bình sinh thế lộ than truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
(Ký hữu I – Nguyễn Trãi)
Bình sinh đường đời nhiều vất cả quá thऀ
Muôn việc đành nên phó mặc trời
(Ký hữu I – Nguyễn Trãi)
Tư tưởng nhân dân: Tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đưa ra một chân lý, đó là:
phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của
nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại
được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến,
có tính trường tn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Một
khía cạnh rất đáng quý trọng tư tưởng tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng
trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay
cả sau khi kháng chiến đã thành công và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn
Trãi nhận thức được rằng lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết
định sự hưng vong của triều đại, đất nước.
Ải ốc thê than kham độ lão,
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu.
(Mạn hứng I, kỳ 2 – Nguyễn Trãi)
Nhà nhỏ, nương thân có thऀ qua tuổi già,
Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm mối tiên ưu.
(Mạn hứng I, kỳ 2 – Nguyễn Trãi)
Quan điểm sống : Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu
chuẩn Nho giáo : sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung.
Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trn Đình Hượu cho rằng
“ Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một
Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là
phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó.”
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta nghĩ ngay đến ông là một nhà nho chân chính.
Theo Trn Nguyên Việt cho rằng: “Nguyễn Trãi là nhà Nho. Trong bất cứ trường hợp
nào ông cũng không bỏ được đạo Nho”. Tuy nhiên, trên những bước đường thăng
trm của cuộc đời, “Nguyễn Trãi đã tìm đến Phật giáo và Đạo giáo đऀ mở rộng và làm
sâu sắc thêm suy nghĩ của mình”. Qua Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi đã để lại một số
tác phẩm thể hiện cảm quan thiền đạo của mình: Thu dạ khách cảm, Lâm Cảng dạ
bạc, Mạn hứng II, Du Sơn tự, Đề Đông Sơn tự, Du Nam Hoa tự,...
Những vn thơ mà dưới nhãn quan của nhà thơ, qua một thời gian dài chiêm
nghiệm, ông xem tất cả đều là huyễn ảo, là không có thật, chịu ảnh hưởng tư tưởng
Tính Không của nhà Phật ít nhiều có pha tư tưởng Lão Trang như trong bài Thu dạ khách cảm:
Đáo đầu vạn sự giai hư huyễn
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn.
(Thu dạ khách cảm – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Rốt cuộc muôn điều hư ảo cả,
Sở còn Phàm mất hãy thôi bàn.
(Thu dạ khách cảm – Nguyễn Trãi)
Hay như bài Lâm Cảng dạ bạc được tác giả viết trong những năm tháng xa quê, đau
đáu vận nước, sang canh ba mà vẫn trằn trọc không yên giấc, nghe tiếng chuông chùa
từ xa vọng đến, tác giả suy ngẫm:
Mạc ngoại hư danh than thị huyễn
Mộng trung phù tục sự kham phao.
(Lâm Cảng dạ bạc – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Rốt cuộc muôn điều hư ảo cả,
Sở còn Phàm mất hãy thôi bàn.
(Lâm Cảng dạ bạc – Nguyễn Trãi)
Bài Đề yên Tử sơn Vân Yên tự viết về thánh đia của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, ngợi
ca Phật Hoàng Trn Nhân Tông, người khai sáng thiền phái này:
Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ, nhật chính hồng.
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.
Ủng môn ng漃⌀c sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không.
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.
(Đề yên Tử sơn Vân Yên tự - Nguyễn Trãi)
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 Dịch nghĩa:
Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
Trời mới canh n愃m đã sang tinh.
Vũ trụ mắt đưa ngoài biऀn cả,
Nói cười người ở giữa mây xanh.
Muôn hang giáo ng漃⌀c tre gài cửa .
Bao dãi tua châu đá rủ mành.
Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.
(Đề yên Tử sơn Vân Yên tự - Nguyễn Trãi)
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua
các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lí. Ông khuyên con người
ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của
đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hn hơn là sự giàu có về tiền bạc.
Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều
thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cu xin danh lợi, không oán
thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận
phn thiệt thòi về mình. Tư tưởng Lão – Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận
danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên.
c2. Các chủ đề, đề tài sáng tác
Xuyên suốt thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là cội gốc,
là đu mối của muôn việc lớn. Nó là cơ sở của mọi thành bại. Bản chất của nhân nghĩa là hiếu sinh.
Quyền mưu bản thị dụng trừ gian
Nhân nghĩa duy trì quốc thế an
(Hạ quy Lam Sơn I – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Quyền mưu vốn dĩ đऀ trừ gian,
Nhân nghĩa giữ gìn thế nước an.
(Hạ quy Lam Sơn I – Nguyễn Trãi)
Dân là gốc, thân dân, cứu dân, vì dân, theo dân, dân no là đủ: Tư tưởng “nhân
nghĩa” của Nguyễn Trãi gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân và an dân, biết
trọng dân ơn dân, thấy được vai trò, sức mạnh của nhân dân. Chúng ta thấy Nguyễn
Trãi luôn đề cao việc lấy “văn trị” và “nhân nghĩa” để sửa sang việc “an dân trị nước”:
Thánh tâm lục dữ dân hưu tức,
V愃n trị chung tư trí thái bình.
(Quan duyệt thủy trận – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Lòng vua rất muốn dân an,
Thái bình rốt lại lấy v愃n sửa đời.
(Quan duyệt thuỷ trận – Nguyễn Trãi).
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
“Văn trị” ngược lại với “Võ trị”, vì “Văn trị” là lấy đức độ, lòng tôn trọng muôn dân
bá tánh và chính sách thuận lòng người để cai trị. Và “văn trị” là làm cho dân được
nghỉ ngơi, sống an lạc yên vui trong thời bình bằng những chính sách hợp lòng dân, vì
“ý dân là ý trời” theo cách nói từ ngàn xưa. Do đó, Ức Trai tiên sinh rất coi trọng sức
dân như là động lực để giữ gìn non sông:
Phúc chu thủy tín dân do thủy,
Thị hiऀm nan bằng mệnh tại thiên.
(Quan hải – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Lật thuyền biết nước là dân,
Mệnh trời, cậy hiऀm khó bằng được thay.
(Quan hải – Nguyễn Trãi)
Trung hiếu (đạo quân thân): Về bản chất, chữ “trung” được quan niệm vẫn là
trung với vua, nhưng ông đã tiến sát đến tư tưởng “trung với nước”. Trong nội dung
của quan niệm trung với vua có thành phn trung với nước. Bản thân ông, trong thực
tiễn đời sống chính trị của mình đã giành nhiều tâm sức, thời gian để lo cho nước, cho
dân. Về bản chất, chữ “hiếu” được quan niệm là đạo làm người con hiếu với cha mẹ.
Từ việc coi gia đình là nền tảng của quan hệ xã hội, ông khẳng định “hiếu” là gốc của
đạo trị nước, là tiêu chí cao nhất để đánh giá phẩm chất đạo đức con người. Nguyễn
Trãi coi nhà là gốc nước nên chủ trương lấy đạo hiếu để trị nước, đng thời nhấn mạnh
vai trò của “hiếu” gắn liền với “trung” và do đó ông không tác rời đạo làm con với đạo làm bề tôi.
Với Nguyễn Trãi, về trung hiếu, về nghĩa quân thn, đạo phụ tử đã được ông nói
rất nhiều. Ngay từ bé ông đã được cha, ông ngoại dạy cho rất nhiều và có ảnh hưởng
sâu sắc đối với Nguyễn Trãi
Thần châu nhất tự khởi can qua
Vạn tính ngao ngao khả nại hà
(Loạn hậu cảm tác – Nguyễn Trãi)
“Vạn tính ngao ngao”, từng khiến Ứng Long vô cùng xúc động dưới đời Trn nhưng
lại không cản được Phi Khanh sớm hàng giặc đời H. Ngược lại, muôn họ xao xác tác
động mạnh mẽ đến Nguyễn Trãi vào đỉnh điểm gian nguy. Ông khẳng định lòng trung
thành với vua H đng thời khóc thương vương quốc Đại Ngu non trẻ.
Vua và cha đều trong tay người Minh, hoàn cảnh xã hội Giao Chỉ rối rắm tiềm ẩn
nguy cơ bất chợt, chẳng ai màng thành lập lực lượng “phản Minh phục H” vì Thái
thượng hoàng chấp nhận đời lính thú ở Quảng Tây, hoàng huynh H Nguyên Trừng
âm thm cộng tác… nhiều lý do đưa Nguyễn đến quyết định ra đu thú. Qua “Đề
Đông Sơn tự”, Nguyễn xác định phải bỏ suối-rừng vì lòng trung-hiếu. Đây là lời từ tạ
quê hương trước khi hàng giặc. Theo Ức Trai, ông hành động như vậy để tròn nghĩa vụ với vua và cha.
Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
Tam thập dư niên trần cảnh mộng,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Sổ thanh đề điऀu hoán sơ hồi.
(Đề Đông Sơn tự - Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Một niềm trung hiếu đeo đẳng mãi.
Tủi với suối, thẹn với rừng vì sai lời nguyện xưa.
Hơn ba mươi n愃m mộng giữa cõi trần,
Vài tiếng chim kêu g漃⌀i người tỉnh lại.
(Đề Đông Sơn tự - Nguyễn Trãi)
Nhân cách lí tưởng, xã hội lí tưởng: người quân tử cao khiết hướng về chúa thánh
minh, dân Nghiêu Thuấn: tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở
ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, trên vua thánh dưới tôi hiền; để khắp thôn
cùng, ngõ hẻm không còn tiếng giận oán su. Và để giữ cho nước được yên ổn, quê
hương được thanh bình luôn luôn là niềm mong ước của dân tộc ta, việc rèn luyện binh
sĩ, tăng cường quân bị là mối quan tâm hàng đu. Do đó, việc đánh tan giặc phương
Bắc hùng mạnh từng bao ln rắp tâm xâm chiến nước ta đã là nỗi tự hào cao độ tràn
ngập trong giọng thơ Ức Trai tiên sinh:
Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san.
(Hạ quy Lam Sơn I – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Sóng kình, khí Bắc lặng hơi,
Đất Nam vẫn giữ muôn đời nước non
(Hạ quy Lam Sơn I – Nguyễn Trãi)
“Kình” là con cá voi to lớn, mạnh mẽ, khi bơi tạo ra lớp sóng cun cuộn, “sóc tẩm” là
khí xấu từ phương Bắc. Cả hai đều chỉ về một thế lực thường xuyên đe dọa nền độc
lập và hòa bình của đất nước ta. Kinh nghiệm của cha ông ta xưa kia và kế tục ở thế hệ
Nguyễn Trãi cũng như về sau là luôn luôn cảnh giác đề phòng những toan tính của
ngoại bang tìm cách uy hiếp hoặc xâm chiếm đất nước.
Nhiều tâm sự đau bun, cô đơn: cái hư danh, hư ảo,tuổi già, tóc bạc u su, bệnh tật,...
Sau mười năm sống dưới nanh vuốt của giặc, Nguyễn Trãi tìm được tự do, ông
về thăm ngay Côn Sơn, lòng tràn đy cảm xúc. Côn Sơn là đất vua nhà Trn xưa
phong cho ông ngoại của Nguyễn Trãi, đại tướng vương gia Trn Nguyên Đán, vì
chiến công lớn trong chiến thắng chống giặc Nguyên xâm lấn nước ta thế kỷ trước.
Thuở nhỏ Nguyễn Trãi sống với mẹ và ông ngoại ở Thăng Long, và Côn Sơn, tới khi
ông ngoại mất. Suốt mười lăm năm trẻ dại được ông ngoại yêu thương dậy dỗ, do đó
Nguyễn Trãi ngoài văn chương chữ nghĩa vượt bực còn thêm sự hiểu biết uyên bác về
binh pháp. Thi nhân yêu quý Côn Sơn, quê hương tâm linh của mình với phong cảnh núi rừng tuyệt thú.
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lý tài qua như mộng đáo,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên.
(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Mười n愃m xa nước non nhà
Trở về tùng cúc hoang vu nửa rồi
Hẹn suối rừng, đành phụ thôi
Cúi nhìn đất cát, hỡi ơi, thương mình
Th愃m quê hương, như mộng hình
Chưa xong giặc giã, phước lành còn ta
Khi nao dưới núi dựng nhà
Đầu kê gối đá, trà pha nước nguồn?
(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác – Nguyễn Trãi)
Về Côn Sơn ln này, núi nhà hoang vắng, cây cỏ điêu tàn, người thân thiết chẳng
còn một ai. Xưa kia đã ước hẹn về đây sống, nhưng vẫn phải dứt áo ra đi.
Ông viết những câu tâm sự thật sâu: Trần thổ, đê đầu chỉ tự liên. Cúi nhìn đất cát,
đó là nhìn gốc rễ đất nước của mình, còn trong tay giặc, thi sĩ thấy thương thân phận
mình, thương dân mình thấm thía. Về thăm nhà, chỉ đi thoáng qua như trong mộng, ri
lại lên đường lo phục quốc. Giặc giã chưa hết, chúng còn đang dẫm nát đất nước, may
phước mà ta còn thân này (để chiến đấu ).
c3. Hình thức nghệ thuật
Thể loại thơ: Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách thun thục thể thơ Đường luật,
trong đó thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật được sử dụng chủ yếu: Loạn hậu cảm tạ,
Hạ nhật mạn thành I, Hạ nhật mạn thành II, Hạ quy Lam Sơn I, Hạ quy Lam Sơn
II,...Ông đã vận dụng một thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật một cách thành thạo và
tuân thủ chặt chẽ quy luật nghiêm ngặt của thơ Đường. Không những thế, ông đã bộc
lộ những cung bậc cảm xúc, nỗi niềm sâu kín cùng những dòng thơ. Nguyễn Trãi đã
tuân thủ chặt chẽ luật thơ Đường bằng việc gieo vn ở chữ cuối các câu 1,2,4,6,8.
Đng thời các quy luật về đối thanh đối vn vẫn được ứng dụng chặt chẽ trong câu 3,4,5,6 của bài thơ.
Bên cạnh đó, còn có thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cũng được sử dụng trong tập Ức
Trai thi tập: Lam quan hoài cổ, Ngẫu thành II, Thái Thạch hoài cổ, Vãn lập,...
Ngoài ra, còn có một số tác phẩm được viết bằng thơ ngũ ngôn tứ tuyệt: Giang
hành, Tiên Du tự, Thính Vũ,... Đặc biệt phải kể đến hai tác phẩm theo thể trường thiên
là Côn Sơn ca và Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên.
Ngôn ngữ: Ức Trai thi tập được viết toàn bộ bằng chữ Hán. Ngôn ngữ mà
Nguyễn Trãi sử dụng thật trong sáng, giản dị, tinh tế, dễ hiểu, kín đáo mà trm lắng,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
đậm chất suy tư, trăn trở, phù hợp với những ưu tư của ông về nước. Các bài thơ của
ông có một điều đặc biệt là dùng chữ rất cô đọng, chữ ít nghĩa nhiều. Có những bài thơ đạt đến đỉnh cao.
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn,
Vòm biếc đêm thanh trời tựa nước.
Giữa chằm hạc rít lạnh làm sao,
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ.
(Đề Bá Nha cổ cầm đồ - Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa
Không tạo được một Chung Kỳ vì đúc tượng vàng khó,
Một mình ôm đàn ng漃⌀c gảy dưới tr愃ng.
Đêm vắng, bầu trời xanh mát như nước,
Một tiếng hạc kêu, lạnh lẽo cả chín chằm.
(Đề Bá Nha cổ cầm đồ - Nguyễn Trãi)
Sử dụng điển cố (điển tích): Việc sử dụng điển cố (điển tích) trong tác phẩm văn
học là một nét uyên bác và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Nhờ vào nội hàm của
điển cố, Nguyễn Trãi đã gián tiếp bộc lộ, bày tỏ được tư tưởng, tình cảm của mình qua
những sáng tác của mình.
Nguyễn Trãi vốn mang trong mình dòng máu yêu nước thương dân của cha và
ông ngoại. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã hăm hở nhập thế, mong mỏi được trổ tài kinh
bang tế thế, giúp vua xây dựng một xã hội thịnh trị, giúp dân có được cuộc sống yên
bình, no đủ. Hoài bão đó được ông thể hiện bằng một hình tượng vô cùng đẹp và kì vĩ: “bắc minh bằng”:
Cửu vạn đoàn phong ký tích tằng
Đương niên thác tỉ bắc minh bằng
(Mạn hứng – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Cưỡi gió lên chín vạn dặm, nhớ xưa đã từng có chí ấy
Bấy giờ toan ví mình như chim bằng biऀn bắc
Trong sách Trang Tử (Tiêu dao du) có ghi: Đoàn phù dao nhi thướng giả cửu
vạn lý (Chim bằng nương theo gió xoáy mà bay lên cao chín vạn dặm). Nguyễn Trãi
đã mượn điển này để thể hiện khát khao, ước muốn được tung hoành giữa bu trời cao rộng.
Yêu nước, thương dân, Nguyễn Trãi hăng hái với chí hướng giúp nước, giúp đời
nhưng chưa kịp hành động ông đã vấp phải sự gièm pha, nghi kị của bọn quyền thn
trong triều. Nhà vua cũng không còn tin dùng ông như trước nữa. Ông chán ngán, đau
đớn, xót xa trước sự thật phũ phàng: Chúng báng cô trung tuyệt khả liên (Oan thán).
Trong bu khí quyển ngột ngạt toàn những kẻ xiểm nịnh đó biết tìm đâu ra người tri
âm, tri kỷ để giãi bày tâm sự:
Chung Kỳ bất tác, chú kim nan,
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
(Đề Bá Nha cổ cầm đồ - Nguyễn Trãi)
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 Dịch nghĩa:
Khó đúc tượng vàng đऀ tạo lại một Chung Kỳ,
Một mình ôm đàn ng漃⌀c đánh dưới ánh tr愃ng.
(Đề Bá Nha cổ cầm đồ - Nguyễn Trãi)
Theo Liệt tử, Bá Nha là người giỏi đánh đàn, Chung Tử Kỳ là người sành nghe
đàn. Mọi tình ý Bá Nha bày tỏ qua tiếng đàn, Chung Tử Kỳ thấu hiểu cả. Về sau,
Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha treo đàn không gảy nữa vì cho rằng đời này không còn ai
hiểu nổi tiếng đàn của mình. Nguyễn Trãi đã mượn điển Bá Nha, Tử Kỳ để nói lên nỗi
cô đơn của mình. Ông mãi kiếm tìm trong vô vọng một người tri âm thấu hiểu được
tiếng tơ lòng của Ức Trai.
Chán ngán trước thực tại, trước vòng danh lợi đua tranh, Nguyễn Trãi tìm về với
cuộc sống ẩn dật, tìm về với chốn không có khách tục, chốn toàn chim muôn cây cỏ để
làm bạn với thiên nhiên, để di dưỡng tâm hn, quên đi cuộc sống n ào với những thế
tục đua chen. Trong Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi hay nhắc đến Thương Lang, Thương
Châu, Cốc Khẩu, Ngũ h xuân, Đông Sơn… chính là để nói đến ước muốn sống cuộc
đời nhàn tản, ẩn dật của mình:
Thế sự bất tri hà nhật liễu,
Biऀn chu quy điếu Ngũ hồ xuân.
(Mạn thành – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Việc đời chẳng biết ngày nào xong
Chiếc thuyền nhỏ trở về câu xuân ở Ngũ hồ.
“Ngũ h” (năm h) là điển được lấy từ chuyện Phạm Lãi thời Xuân Thu sau khi giúp
Việt Vương Câu Tiễn báo thù diệt được nước Ngô thì bỏ Câu Tiễn không giúp nữa mà
đi chơi ở Ngũ h để thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình, quên đi mọi danh lợi trong cuộc đời.
Nhờ vào việc sử dụng điển, Nguyễn Trãi đã xây dựng được những hình tượng
thơ rất sinh động, ngôn ngữ hàm súc, ý thơ thanh thoát, trang nhã, kết cấu linh hoạt,
súc tích… Từ đó tạo cho ý thơ mang giá trị biểu đạt và biểu cảm cao.
Hình tượng trung tâm: Trong những tác phẩm mang tính chính luận, con người
công dân Nguyễn Trãi đã cất lên tiếng nói của nhân dân, của thời đại. Ở những tác
phẩm thơ trữ tình, con người công dân và con người cá nhân Nguyễn Trãi hài hòa với
nhau tạo nên sự thống nhất sâu sắc giữa nhà thơ – chiến sĩ, nhà thơ của những biến cố
lịch sử và nhà thơ – nhân tình, nhà thơ của đời thường. Hình ảnh người anh hùng vĩ
đại và con người trn thế được Nguyễn Trãi ghi lại qua một số tác phẩm trong Ức Trai thi tập.
Quan niệm về người anh hùng: cái đích của người anh hùng cn đạt được là cứu dân độ thế.
Bệnh đa cốt sấu miên ưng thiऀu,
Quan lãnh thân nhàn mộng diệc thanh.
Nhất niệm tức lai thiên niệm tức,
Kê trùng tự thử liễu tương tranh.
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
(Thu dạ khách cảm – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Ngủ ít, xương gầy do bệnh lắm,
Mộng thanh, mình rỗi bởi quan nhàn.
Một niềm dứt ấy muôn niềm dứt,
Gà b漃⌀ thôi tranh, kẻo hại thân.
(Thu dạ khách cảm – Nguyễn Trãi)
Người anh hùng trong thơ Nguyễn Trãi lúc nào cũng là con người vì dân mà không
màng bản thân. Trong lúc ốm đau, nhàn rỗi nhưng lòng vẫn mang nỗi lo đau đáu cho
dân cho nước. Những suy tư, lo âu cứ nối tiếp nhau lòng vòng luẩn quẩn.
Ô thố thông thông vãn bất lưu,
Hồi đầu vạn sự tổng nghi hưu.
Không hoa huyễn nhãn miên tiêu lộc,
Tục cảnh kinh tâm suyễn nguyệt ngưu.
Ải ốc thê thân kham độ lão,
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu.
Bành thương tang cốc đô hưu luận,
Cổ vãng kim lai lạc nhất khưu.
(Mạn hứng I, kỳ II – Nguyễn Trãi) Dịch nghĩa:
Thấm thoắt quang âm kéo chẳng lùi,
Quay đầu muôn việc thảy nên thôi.
Mắt hoa hươu lá ngờ mơ thấy,
Cảnh tục trâu phào sợ nguyệt oi.
Qua buổi nương già nhà l漃⌀ hẹp,
Vì dân lo trước dạ khôn nguôi.
Cốc Tang th漃⌀ yऀu đừng bàn nữa,
Xưa trước nay sau cũng một loài.
(Mạn hứng I, kỳ II – Nguyễn Trãi)
Trong thơ chữ Hán – tập thơ “Ức trai thi tập”, cảm hứng thiên nhiên của Nguyễn
Trãi là cảm hứng giao hòa, hòa quyện giữa tình yêu thiên nhiên với tình yêu đất nước.
Đặc biệt mảng thơ về thiên nhiên đất nước chính là mảng thơ đặc sắc nhất trong Ức
Trai thi tập, những bài thơ không đơn thun nhắc đến thiên nhiên mà còn nêu cụ thể
địa danh nổi tiếng của đất nước. Chẳng hạn như bài thơ Côn Sơn ca nhắc đến địa danh
Côn Sơn – Kiếp Bạc ở Hải Dương, bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” nhắc đến di tích lịch
sử sông Bạch Đằng, ngoài ra còn nhiều địa danh khác như: Yên Tử, Vân Đn, Dục
Thúy,… Thiên nhiên trong những bài thơ này kì thực là một bức tranh hoành tráng, kì
vĩ, như bài thơ “Đề Yên Tử sơn”:
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
(Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự – Nguyễn Trãi)
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Hơn thế, bức tranh thiên nhiên ấy còn được vẽ bằng những nét tinh tế, mượt mà và mĩ
lệ, bài thơ Dục Thúy sơn có câu:
Tháp ảnh trâm thanh ng漃⌀c Ba quang kính thuý hoàn
(Dục Thuý sơn – Nguyễn Trãi)
Thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi không phải là phi ngã, vô ngã mà đâu đâu cũng thấy
người in bóng cảnh, cảnh in bóng người. Nhà thơ gắn bó với thiên nhiên, coi là bu bạn, gia đình.
2.4 Câu hỏi liên hệ và cách giải quyết
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kết tinh của tài năng, nhân cách của
ông với sự kế thừa truyền thống của dân tộc và sự vận dụng sáng tạo học thuyết Nho
giáo vào thực tiễn xã hội Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt ra
khỏi khuôn khổ của Nho giáo, có ý nghĩa nhân sinh quan sâu sắc. Như vậy, việc tìm
hiểu về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đóng góp như thế nào vào việc giáo dục với trẻ hiện nay?
- Giáo dục lòng yêu nước, thương dân: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là
lòng yêu nước thương dân, vì vậy giáo dục tinh thn nhân nghĩa cũng chính là giáo
dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tư tưởng vì dân, lấy dân làm
gốc. Ngoài ra cn giáo dục cho thế hệ trẻ lòng nhân ái thông qua các hoạt động vì cộng
đng. Giáo dục cho họ tinh thn yêu hòa bình, ghét chiến tranh. Để thế hệ trẻ có thể
góp phn xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
- Giáo dục tinh thn khoan dung, độ lượng: Giáo dục lòng khoan dung để làm cho thế
hệ trẻ biết tha thứ cho lỗi lm của người khác, sống vị tha và nhân ái hơn. Từ đó, định
hướng cho thế hệ trẻ đường đi, lý tưởng đúng đắn với các vấn đề trọng đại của đất
nước. Một khi thế hệ trẻ biết lắng nghe, biết chia sẻ, biết tha thứ và yêu thương một
cách chân thành thì mọi người sẽ xích lại gn nhau hơn, xã hội sẽ ngày một tốt đẹp hơn.
- Giáo dục đạo đức nghề nghiệp: Đạo đức nghề nghiệp là một vấn đề không mới
nhưng luôn luôn có tính thời sự và là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Như đã
phân tích ở phn trước, mặt trái của kinh tế thị trường, của đng tiền, danh vị và lợi ích
cá nhân, lợi ích nhóm đang tạo ra những hệ lụy, làm băng hoại và suy thoái đạo đức
con người ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Với những vấn đề đang diễn ra trong các
ngành nghề thì việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho thế hệ trẻ là rất cn thiết. Bên
cạnh giáo dục cho thế hệ trẻ tri thức nghề nghiệp thì còn phải giáo dục cho họ lòng yêu
nghề, sự tận tâm với công việc, tinh thn trách nhiệm, và nhất là đạo đức trong mỗi
ngành nghề để họ có thể tạo ra được những sản phẩm, những công trình có ý nghĩa đối
với bản thân và cộng đng.
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
PHẦN 3: TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Bá Hán, Trn Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đng chủ biên), 2006, Từ điऀn thuật ngữ
v愃n h漃⌀c, NXB Giáo dục . Nguyễn Khắc Minh, “Phả hệ dòng họ Nguyễn
Trãi”http://www.vanhoanguyentocvietnam.com/b/pha-he-dong-ho-nguyen-trai-364
Queen Group, “Cuộc đời và sự nghiệp anh hung dân tộc – danh nhân văn hoá thế giới
Nguyễn Trãi”https://www.queengroup.vn/nguyen-trai/
Phan Thị Vĩnh, “Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vào việc giáo dục
cho thế hệ trẻ hiện nay”, Luận v愃n thạc sĩ khoa h漃⌀c xã hội và nhân
v愃nhttp://thuvien.due.udn.vn:8080/dspace/bitstream/TVDHKT/13920/1/11227%20TT. pdf
“Nguyễn Trãi: bề tôi của bốn dòng vua (Bài 1)”, Nghiên cứu lịch sử
https://nghiencuulichsu.com/2018/01/18/nguyen-trai-be-toi-cua-bon-dong-vua/? fbclid=IwAR0AkPviWr-
w3mfHIaPOdOkOLu4nBzzGKvBPAQSQKml2BWVQ_k987IcKR6Q
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
“Nguyễn Trãi: bề tôi của bốn dòng vua (Bài 2)”, Nghiên cứu lịch sử
https://nghiencuulichsu.com/2018/03/20/nguyen-trai-be-toi-cua-bon-dong-vua-bai-2/?
fbclid=IwAR17F727qaAWDE2iRL8cHVfJ4y6mCNiN-9- 3cnWQ7sTTg_nKvoxNfVYpuNY
Nguyễn Công Lý, Nguyễn Công Thanh Dung, “Cảm quan thiền đạo trong thơ Nguyễn
Trãi”, Chuyên mục V愃n h漃⌀c – Ngôn ngữ h漃⌀cfile:///Users/air/Downloads/60027-Article
%20Text-168509-1-10-20211112.pdf
Phạm Văn Sự, Trn Thị Hng Nhung, Vũ Văn Đông, “Tư tưởng yêu nước của Nguyễn
Trãi”http://tapchikhcn.saodo.edu.vn/uploads/files/articles_file/1559290309_16._a._Du .pdf?
fbclid=IwAR1YlowzIAU5iGJtKNjS3i1WaV5f2JETs08toirtEmarBiqOVU8wawr_Bpg
Trn Ngọc Hưởng, Luận đề về Nguyễn Trãi, NXB Thanh Niên
Tác giả trong nhà trường Nguyễn Trãi, NXB Văn Học
Trn Văn Nhĩ, Đinh Ninh, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Trương Thị Thuý, “Điển cố và sự thể hiện chủ đề trong Ức Trai thi
tập”https://giaoducthoidai.vn/dien-co-va-su-the-hien-chu-de-trong-uc-trai-thi-tap- post487215.html
Lê Đức Thọ, “Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi và ý nghĩa trong định hướng
lối sống cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa h漃⌀c Quốc tế
AGUhttps://apps.agu.edu.vn/qlkh//storage/app/agu/1576049532-06-le-duc-thopdf.pdf?
fbclid=IwAR17F727qaAWDE2iRL8cHVfJ4y6mCNiN-9- 3cnWQ7sTTg_nKvoxNfVYpuNY
Lương Minh Cử, Nguyễn Thị Hương, “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi”,
Khu di tích quốc gia đặc biệt Côn Sơn – Kiếp Bạchttps://consonkiepbac.org.vn/ve-tu-
tuong-nhan-nghia-cua-nguyen-trai/
Doãn Chính, “Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi”, Viện Hàn Lâm khoa h漃⌀c xã hội
Việt Nam – Viện triết h漃⌀chttp://philosophy.vass.gov.vn/triet-hoc-vietnam/Ve-tu-tuong-
triet-hoc-cua-Nguyen-Trai-88.0.html
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
4. PHỤ LỤC CÁC VĂN BẢN SỬ DỤNG
1. Dục Thuý sơn, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Hải khẩu hữu tiên san, Niên tiền lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh truỵ nhân gian.
Tháp ảnh, trâm thanh ng漃⌀c, Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiऀn hoa ban.
2. Đề Bá Nha cổ cầm đồ, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Chung Kỳ bất tác chú kim nan,
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ,
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
3. Đề Đông Sơn tự, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
Tam thập dư niên trần cảnh mộng,
Sổ thanh đề điऀu hoán sơ hồi.
4. Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Yên sơn sơn thượng tối cao phong,
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng.
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại,
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Ủng môn ng漃⌀c sóc sâm thiên mẫu,
Quải thạch châu lưu lạc bán không.
Nhân miếu đương niên di tích tại.
Bạch hào quang lý đỗ trùng đồng.
5. Hạ quy Lam Sơn I, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Quyền mưu bổn thị dụng trừ gian,
Nhân nghĩa duy trì quốc thế an.
Đài các hữu nhân nho tịch noãn,
Biên thùy vô sự liễu doanh nhàn.
Viễn phương ng漃⌀c bạch đồ vương hội,
Trung quốc uy nghi đổ Hán quan.
Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san.
6. Ký hữu I, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên.
7. Lâm Cảng dạ bạc, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao,
Am am cách ngạn hưởng bồ lao.
Thuyền song khách dạ tam canh vũ,
Hải khúc thu phong thập trượng đào.
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
Mộng trung phù tục sự kham phao.
Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
Bất vị ky sầu tổn cựu hào.
8. Loạn hậu cảm tác, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Thần châu nhất tự khởi can qua,
Vạn tính ngao ngao khả nại hà.
Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt,
Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
Niên lai biến cố xâm nhân lão,
Thu việt tha hương cảm khách đa.
Tạp tải hư danh an dụng xứ,
Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha
9. Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lí tài qua như mộng đáo,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.
10. Mạn hứng I, kỳ II, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Ô thố thông thông vãn bất lưu,
Hồi đầu vạn sự tổng nghi hưu.
Không hoa huyễn nhãn miên tiêu lộc,
Tục cảnh kinh tâm suyễn nguyệt ngưu.
Ải ốc thê thân kham độ lão,
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu.
Bành thương tang cốc đô hưu luận,
Cổ vãng kim lai lạc nhất khưu.
11. Mạn hứng II, kỳ II, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Cửu vạn đoàn phong ký tích tằng,
Đương niên thác tỷ bắc minh bằng.
Hư danh tự thán thành cơ đẩu,
Hậu h漃⌀c thuỳ tương tác chuẩn thằng.
Nhất phiến đan tâm chân hống hoả,
Thập niên thanh chức ng漃⌀c hồ b愃ng.
Ưu du thả phục ngôn dư hiếu,
Phủ ngưỡng tuỳ nhân tạ bất n愃ng.
12. Mạn thành I, kỳ I, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Nhãn trung phù thế tổng phù vân,
Oa giác kinh khan nhật Tấn Tần.
Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh,
Bang như hữu đạo diệc tu bần.
Trần Bình tự tín n愃ng vi tऀ,
Đỗ Phủ thùy liên dĩ ngộ thân.
Thế sự bất tri hà nhật liễu,
Biऀn chu quy điếu Ngũ Hồ xuân.
13. Quan duyệt thuỷ trận , Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Bắc hải đương niên dĩ lục kình,
Yến an do lự cật nhung binh.
Tinh kỳ y nỉ liên vân ảnh,
Bề cổ huyên điền động địa thanh.
Vạn giáp diệu sương tỳ hổ túc,
Thiên sưu bố trận quán nga hành.
Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
V愃n trị chung tu trí thái bình.
14. Quan hải, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiऀm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.
15. Thính vũ, Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ Tịch mịch u trai lý, Chung tiêu thính vũ thanh. Tiêu hao kinh khách chẩm!
Điऀm trích sổ tàn canh. Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh. Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
16. Thu dạ khách cảm I , Ức Trai thi tập, NXB Văn hoá – Văn nghệ
Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn,
Vi ngâm tụ thủ quá hoàng hôn.
Thu phong lạc diệp ki tình tứ,
Dạ vũ thanh đ愃ng khách mộng hồn.
Loạn hậu phùng nhân phi túc tích,
Sầu trung tống mục ngụ càn khôn.
Ðáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn.
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com)