














Preview text:
lOMoARcPSD| 59149108
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ MÃ ĐỀ: 28 TIỂU LUẬN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Tên đề tài: Bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nêt đẹp văn hóa tâm linh ở nước ta hiện nay
Họ và tên: Đỗ Nguyên Vũ
Mã sinh viên: 20810310070 Lớp: D15HTTMDT1 Hà Nội, 12/2021 lOMoARcPSD| 59149108 MỤC LỤC Mở đầu:
Lý do chọn đề tài………………………………………………… 3
Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận…………………………….. 3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận………………….4 Nội dung
Phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan………………...4 Văn
hóa tâm lịnh của người Việt Nam…………………………...6
Những biểu hiện của mê tín dị đoan trong
đời song tâm linh của người Việt Nam…………………………..8
Một số giải pháp bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nét đẹp văn hóa
tâm linh ở nước ta hiện nay…………..13 lOMoARcPSD| 59149108 A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài
Mê tín dị đoan là một hiện tượng có ảnh hưởng vô cùng xấu đến sự phát triển của
bất kì quốc gia nào và nước ta cũng thế. Trước đây, khi ở thời phong kiến, do chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ nền văn hóa của Trung Hoa khi xưa, một số thành phần xấu trong xã
hội đã làm biến chất nền văn hóa này, biến nó trở nên rất tiêu cực và nguy hiểm. Sau chiến
tranh, đất nước ta đi vào giai đoạn đang phát triển, chính vì thế hiện tượng này cũng có
phần giảm bớt rất lớn do người dân và Đảng đã cùng nhau chung tay xây dựng kinh tế,
chăm lo hơn cho cuộc sống của con người. Thế nhưng, khi đất nước đang ngày càng đi lên,
nhu cầu về đời sống tinh thần cũng tăng, một số người đã cố tình lợi dụng hiện tượng mê
tín dị đoan trong người dân trỗi dậy để kiếm lợi cho cá nhân. Chúng có hành vi vô cùng
gian xảo, thậm chí chúng còn xuyên tạc cả chính sách của Đảng và nhà nước. Nhận thức
được sự nguy hiểm của hiện tượng này, Đảng đã ra sức để phòng chống và bài trừ hiện
tượng này, thế nhưng chìa khóa của giải pháp này lại nằm ở người dân. Việc người dân
chưa hiểu rõ về mê tín dị đoan khiến họ rất dễ bị lợi dụng lòng tin từ các thành phần bất
hảo. Chính vì thế, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “Bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nêt
đẹp văn hóa tâm linh ở nước ta hiện nay” để làm đề tài kết thúc môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học. II.
Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
1. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận Mục đích
- Tìm hiểu và nghiên cứu về bản chất thật sự của mê tín dị đoan. Đưa ra những nhận
định chính xác về hiện tượng này.
- Nêu lên thực trạng về mê tín dị đoan hiện nay ở Việt Nam. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Trình bày các nội dung về mê tín dị đoan có hệ thống lý luận rõ ràng, chính xác. Nêu
rõ được hiện tượng mê tín dị đoan hiện nay ở Việt Nam qua báo chí, thời sự và qua đời sống hằng ngày.
- Chỉ ra được nhưng quan điểm của nhà nước cũng như những giải pháp của nhà nước
về việc bài trừ mê tín dị đoan. lOMoARcPSD| 59149108
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu -
Môi trường tạo nên hiện tượng mê tín dị đoan.
Thực trạng về mê tín dị đoan hiện nay ở Việt nam
Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, tìm hiểu về hiện tượng mê tín dị đoan hiện nay trên toàn lãnh thổ Việt Nam A. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1.Phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan
Trong sinh hoạt đời sống văn hóa hiện nay một số bộ phận dân cư còn đang bị nhầm
lẫn giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan,…
Tín ngưỡng mang tính chất là niềm tin, là lối sống, là phong tục tập quán, tình cảm
của con người qua nhiều thế hệ, niềm tin của con người vào tín ngưỡng như là một nhu cầu
tinh thần tốt đẹp, tín ngưỡng mang tính chất bền vững trong đời sống tinh thần của xã
hội…đó còn là những giá trị đạo đức, văn hoá với tinh thần nhân đạo, hướng thiện làm
trong sáng hơn tâm hồn con người. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong
lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn
năm qua; tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử
cụ thể, nó chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người, có tác dụng
điều chỉnh con người như khuyên làm điều tốt, điều thiện, điều có ích, răn bỏ điều ác. Mê
tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các thế lực siêu nhiên đến mức mê
muội, có những hành vi cực đoan, thái quá, phản văn hoá, làm cho con người trở nên mù
quáng, mất đi sức mạnh ý chí, tin vào số phận vào các thế lực thần bí, không có thật... hiện
tượng này làm cho con người không phát triển được, rơi vào tình trạng trì trệ, mông muội
với những hủ tục bảo thủ, lạc hậu… lOMoARcPSD| 59149108
Tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan có những điểm giống nhau như: Đều là niềm
tin của con người vào những hiện tượng siêu nhiên, thần bí, hư ảo và không có thực. Tôn
giáo và tín ngưỡng đều tin vào những điều mà mắt mình không nhìn rõ, tai mình không
nghe thấy hình hài, giọng nói của đối tượng thờ cúng. Tôn giáo, tín ngưỡng đều có tác dụng
điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với
cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trên cơ sở giáo lý tôn giáo và các loại hình sinh
hoạt tín ngưỡng. Những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…)
và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu,…đều
tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ
không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình và cũng không
được nghe giọng nói của các đấng linh thiêng đó. Trong xã hội hiện nay vẫn còn những
hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, do đó, trước
những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức
và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần bí.
Bên cạnh đó, trong xã hội còn có sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần
giữa các nhóm dân cư. Cho nên, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ
đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, trông chờ, ỷ
lại và cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên, chính vì thế mà con người luôn có niềm
tin vào các lực lượng siêu nhiên này để giải toả những bất trắc trong cuộc sống.
Những điểm khác nhau của tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan: Về tín ngưỡng,
tôn giáo nó mang tính chất là niềm tin, là lối sống, là phong tục tập quán và tình cảm của
con người. Hiện nay, tín ngưỡng đó được thể hiện qua một số nêt phong tục lưu truyền bao
đời nay đó là tục thờ cúng tổ tiên, giỗ chạp, thờ thành hoàng, thờ mẫu…ở trong mỗi gia
đình người Việt đều lập một bàn thờ, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người thân đã khuất
để thể hiện sự hiếu lễ với người đã khuất, sự biết ơn của con cháu với tổ tiên, nhằm giáo
dục các giá trị truyền thống gia phong của mỗi gia đình. Ngoài ra, vào các ngày rằm, mùng
một nhiều người còn đến đền, chùa, đình, miếu để cầu phúc, cầu bình an cho bản thân và
gia đình, nó thể hiện nêt đẹp trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng. Xêt về
mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống
tinh thần, đời sống tâm linh, thì ngược lại người hoạt động mê tín dị đoan lợi dụng vào tôn
giáo, tín ngưỡng và các đối tượng mê muội, mất niềm tin vào chính họ và cuộc sống của
họ để nhằm mục đích kiếm tiền, đem lại thu nhập cho gia đình và bản thân họ là chính. Nếu
sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng như: chùa, đình, từ đường, miếu,…, thì những
người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ
sở thờ tự để hành nghề hoặc hành nghề tại gia đình của họ. Những người có sinh hoạt tín
ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (vào các ngày mùng một, ngày rằm hàng
tháng tại đình, chùa, đền miếu, ngày giỗ tổ tiên, ông bà, bố mẹ,người thân đã khuất…) thì
những người hoạt động mê tín dị đoan thường hoạt động không có định kỳ, vì người đi
xem bói chỉ gặp thầy bói khi có những việc bất thường xảy ra như: mất của, sinh con đẻ
cái, chết, ốm đau, hỏa hoạn, tai nạn và bế tắc trong cuộc sống,.. Nếu sinh hoạt tín ngưỡng lOMoARcPSD| 59149108
được pháp luật cho phêp, được xã hội thừa nhận tạo điều kiện cho thực hành, thì hoạt động
mê tín dị đoan bị xã hội lên án, phê phán, bài trừ.
Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan: Tín ngưỡng với mê tín dị
đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ những
điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau, mối quan hệ này thể hiện: Các
nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để truyền bá và thực hành
vào trong giáo hội, tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học
hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về
cách bài trí nơi thờ tự,..; đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính
thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo và cơ sở thờ tự của tín
ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín
ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của những người mê tín dị
đoan có thể được nâng cao; một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ Mẫu,
tín ngưỡng thờ Thành hoàng) dựa vào sự thiếu hiểu biết của một bộ phận dân cư đã sử dụng
một số thủ thuật của mê tín dị đoan để tăng thêm sự thần bí của một số lễ thức ngoài tôn
giáo và tín ngưỡng như: xin âm dương, rút thẻ, bói quẻ…mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó đã vay mượn.
Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau,
chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực
tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống, khác nhau và mối quan hệ
giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín
ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của chúng và bài trừ được mê tín dị đoan.
2. Văn hóa tâm lịnh của người Việt Nam
Văn hóa tâm linh luôn có sự phong phú, đa dạng với nhiều điều thú vị không chỉ mang
đến sự phát triển về đời sống tinh thần mà còn cả đạo đức xã hội.
Việt Nam là quốc gia được đánh giá có đời sống văn hóa tâm linh phong phú và rất đặc
sắc. Với việc đa dân tộc, đa tôn giáo như hiện nay, khi tìm hiểu về đời sống tâm linh của
người Việt sẽ thấy được nhiều nêt độc đáo, thú vị mà không phải nơi nào trên thế giới cũng có được.
Văn hóa tâm linh là gì?
Theo nhiều ý kiến nhận định cho rằng, văn hóa tâm linh chính là những hiện tượng liên
quan đến linh hồn của con người sau khi chết. Đây là một sự gắn kết và nó thường được
biểu hiện bằng những điều mang tính huyền bí, dị thường. lOMoARcPSD| 59149108
Bên cạnh đó, khái niệm văn hóa tâm linh còn bao hàm cả những giá trị tinh thần rất đa
dạng, mang tính cao siêu của đời sống con người. Đặc biệt, văn hóa này được thể hiện rất
rõ nêt trong việc thờ cúng của người Việt.
Đặc điểm trong văn hóa tâm linh của người Việt
Một điều dễ nhận thấy nhất chính là ý nghĩa văn hóa tâm linh của người Việt được thể
hiện rõ nêt trong việc thờ cúng. Dù Việt Nam có nhiều tôn giáo và mỗi đạo sẽ có những
phong tục thờ cúng khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha
mẹ và người thân đã mất của mình.
Ngoài ra, phong tục thờ cúng còn được biểu hiện ở một phạm trù rộng hơn chính là thờ
thần, thờ thánh, thờ người có công với nước hay các danh nhân văn hóa...Ví như, người
theo đạo Phật sẽ thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Quan Thế Âm Bồ Tát...Đối với người
theo đạo Thiên Chúa Giáo sẽ thờ tượng chúa Giê- su, thờ tượng Đức mẹ...
Thậm chí, nhiều công trình biểu hiện văn hóa tâm linh của người Việt được xây
dựng đã trường tồn với thời gian, với lịch sử và trở thành những di sản văn hóa khiến
cả dân tộc tự hào. Không dừng lại ở đó, văn hóa đời sống tâm linh của người Việt
còn được thể hiện rõ nêt trong các lễ hội, phong tục và cách sinh hoạt hằng ngày của
người Việt. Sự ảnh hưởng của tôn giáo và tư tưởng “Trần sao âm vậy” nên các đền
chùa, nhà thờ, tượng cũng được xây dựng ngày càng nhiều. Cùng với đó là các nghi
lễ cầu cúng cũng trở nên đa dạng hơn.
Xây dựng tượng là nêt văn hóa tâm linh của người Việt
Bên cạnh đó, việc thờ cúng bằng cách xây dựng tượng cũng được nhiều người lựa chọn.
Đây là một nhu cầu mang tính tất yếu của xã hội. Khi văn hóa tâm linh được xem trọng,
việc thờ cúng được quan tâm thì xu hướng thi công tượng để phục vụ công việc thờ cúng
cũng là điều dễ hiểu.
Tượng được làm để đặt tại đền chùa hay thờ tại gia. Thậm chí, nhiều công trình tượng đá
được xây dựng với kích thước rất lớn, được đặt ở ngoài trời vừa thể hiện được tín ngưỡng
tôn giáo lại vừa tạo nên một công trình nghệ thuật mang tính độc đáo nhất. Đặc biệt, nhiều
bức tượng đã trở thành kỳ quan được nhiều người biết và hiếu kỳ đến “tận mục sở thị”.
Tất nhiên, một điều đáng nói chính là việc xây dựng tượng để thể hiện văn hóa thờ cúng
tâm linh cũng cần được lưu ý để đảm bảo có được sự lựa chọn phù hợp. Từ mẫu mã, kích
thước đến chất liệu cần phải được cân nhắc thật kỹ càng. Điều này không chỉ đảm bảo bức
tượng sau khi hoàn thiện có được chất lượng tốt, mẫu mã đẹp mà còn thể hiện được sự
thành kính, tấm lòng hướng đến đấng tối cao của tôn giáo mà mình tin theo.
Mặt trái của văn hóa tâm linh lOMoARcPSD| 59149108
Một điều không thể phủ nhận chính là bất cứ nêt văn hóa này cũng có mặt tích cực và tiêu
cực của nó. Văn hóa tâm linh của người Việt cũng không ngoại lệ. Vì tôn sùng tư tưởng
“Trần sao âm vậy” nên nhiều người thường tự mình cúng nhiều của cải, đồ ăn, thức uống
với mong muốn cầu tài lộc cho bản thân mình. Hay phải có lễ mới thể hiện được lòng thành
của mình. Họ xem việc thờ cúng giống như việc “chạy chọt” ngoài đời thực. Phải “có đi mới có lại” vậy.
Thậm chí, vì hiểu sai ý nghĩa của nêt văn hóa mang tính tâm linh mà nhiều người đã trở
nên mê tín dị đoan. Họ cho rằng, chỉ cần cúng bái, giải hạn là có thể giải được nghiệp, tội
lỗi mà mình gây ra hay cúng lễ vật càng nhiều thì thần thánh mới chứng giám. Chính mặt
trái này đã dẫn đến những biến tướng của văn hóa tâm linh của người Việt và kêo theo nhiều hệ lụy xã hội. II. Vận dụng
1.Những biểu hiện của mê tín dị đoan trong đời song tâm linh của người Việt Nam
Mê tín dị đoan có nhiều hình thái tồn tại, nổi trội là “lên đồng”, bói toán (gồm xem
tướng, xem tử vi,…),…
“Lên đồng”
Hình thức “lên đồng” ở đây liên quan đến một hình thái tôn giáo thế giới là Saman
giáo – hình thái nảy sinh trong xã hội bộ lạc sắp bước vào phong kiến, khi đã có sự phân
hóa, khi con người đã hiểu không phải ai cũng tiếp cận được với thần linh, mà phải thông
qua những người có khả năng đó, là những thầy Saman. Ở Việt Nam, người ta gọi là những ông đồng bà đồng.
Để thực hiện việc nối thông đó, các thầy Saman phải có khả năng tự đưa mình vào
trạng thái ngây ngất, trong trạng thái như vậy thì thần linh mới nhập được hồn vào họ. Khi
đó, họ không phải là họ, nhưng có khả năng giúp bản thân họ hoặc giúp mọi người chuyển
tải những ước vọng của con người đến với thần linh. Saman giáo hiện nay có mặt trên khắp
trên thế giới, điều đặc biệt là càng xã hội đô thị hóa, hiện đại hóa thì Saman càng phát triển,
bởi con người phải chịu nhiều những dồn nên của xã hội.
Có những người có căn số mà không ra “trình đồng” thì họ sẽ trở thành điên loạn.
Việc họ ra “trình đồng” là cách giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng. Đó là một nhu cầu có
tính chất cơ học, rơi vào trạng thái đó họ không còn là người nữa, hành vi của họ lệch
chuẩn. Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, qua quá trình nghiên cứu thì 100% những người có
căn số “lên đồng” bị điên loạn, được “ra đồng” đều khỏi. Cái đó không có gì là mê tín dị
đoan cả. Nhân tố quan trọng nhất của tôn giáo tín ngưỡng là niềm tin vào những thứ mang
tính chất siêu nhiên, những cái con người không giải thích được mà đang tác động tới đời lOMoARcPSD| 59149108
sống? Tại sao chúng ta thờ cúng tổ tiên? Vì tình cảm cũng là một khía cạnh. Nhưng vì các
cụ mất đi nhưng linh hồn các cụ vẫn còn, vẫn ngày ngày tác động tới đời sống con cháu
nên người ta thờ, để tạo nên nối kết thông quan giữa con người và thần linh. Thì “lên đồng”
cũng là một cách để nối thông với thần linh. Đừng nhìn “lên đồng” tách biệt, bởi “lên đồng”
là một hoạt động của đạo Mẫu.
Liệu có phải tất cả những người đang xưng là “ông đồng, bà đồng” đều có khả năng
đó? Phải phân biệt hai loại, một loại là những người có căn số, phải “ra đồng”. Thực chất,
bản thân những “ông đồng bà đồng” không muốn vậy, mà họ bị đày, nếu không “ra đồng”
thì thành điên loạn, ốm đau không chữa bệnh được. Còn khi đã “ra đồng” thì họ lại rất
sướng, họ thành những “vị thần, vị thánh”. Nhưng gần đây, có lẽ khoảng từ những năm sau
đổi mới, có thêm một loại nữa là “đồng đú, đồng đua”… những người không có căn số,
nhưng trong xu trào hiện nay thì họ cũng thành những “ông đồng bà đồng”. “Lên đồng” là
cách để họ giải tỏa, dù không phải chuyện sống chết, bệnh tật nhưng là nhu cầu giải tỏa
dồn nên để có cân bằng. Việt Nam là một điển hình; gần đây, chuyện “lên đồng”, thường
ở tầng lớp giàu có, hay đô thị nhiều “ông đồng bà đồng” hơn nông thôn. Đúng là trong xu
hướng xã hội đang lao đi tìm kiếm những lợi ích vật chất thì cũng có nhiều người lợi dụng
“lên đồng” để kiếm tiền. Chính nhóm những “ông đồng bà đồng” không có căn này có
chuyện biến chất, lợi dụng niềm tin của con người để thu lợi cho họ.
Ngoài ra, còn rất nhiều đối tượng khác, với mhững thủ đoạn tinh vi hơn, đang âm
thầm hoạt động, mà vẫn chưa bị cơ quan nhà nước phát hiện. Hoạt động biến chất của “lên
đồng”, có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Về kinh tế: Đối với những người
tin tưởng vào nó, bị thiệt hại về tài sản cá nhân – gia đình; sức khỏe, tính mạng bị đe dọa,
tinh thần lo lắng bất an, ảnh hưởng đến công việc, dẫn đến lao động giảm sút; đồng thời
tác động đến mọi người xung quanh, làm chậm trễ tiến trình sản xuất, ảnh hưởng dến nền
kinh tế xã hội. Về văn hóa: Làm cho lớp trẻ, nhìn nhận sai lệch về các giá trị văn hóa dân
tộc, khó phân biệt đúng – sai; làm cho con người trở nên lười lao động, sống không lí tưởng,
không hoài bảo, thiếu động lực sáng tạo. Về mặt chính trị – xã hội: Gây rối loạn trật tự xã
hội, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng – Nhà nước ta. Bói toán
Một hoạt động nổi trội khác cuả mê tín dị đoan khác đó là “bói toán”, hoạt động này
dựa trên ngành khoa học – Bói toán. Bói toán, có nguồn gốc từ Trung Quốc và xuất hiện
từ thời nhà Tống; nhằm giúp con người thõa mãn khao khát hiểu biết về tiền – đương – hậu
vận của chính mình và người thân. Trong bói toán, có nhiều ngành nhỏ như xem tướng,
xem tử vi, bói chữ,… Trong đó, xem tướng đã tách rời và phát triển thành một ngành khoa
học riêng – nhân tướng học. Nhân tướng học Á Đông là tổng hợp tất cả bộ môn tâm lý học lOMoARcPSD| 59149108
Tây Phương. Tâm lý học Tây Phương khảo sát con người qua nhiều chuyên khoa riêng rẽ.
Có học phái chuyên khảo ý thức và tiềm thức, có học phái nghiên cứu tính tình, có học phái
chuyên khảo tác phong. Sự tồn tại song song của những chuyên khoa đó cho thấy nhân học
Tây Phương phân tích con người nhiều hơn là tổng hợp con người. Một khảo hướng như
thế không tránh nổi khuyết điểm phiến diện. Khoa tướng Á Đông nhập chung các lĩnh vực
nhân học làm một. Những nêt tướng của khoa nhân học Á Đông đồng thời mang ý nghĩa
tính tình lẫn tác phong. Nhưng, tướng học Á Đông không dừng chân ở đó. Khoa này còn
đào sâu cả địa hạt phú quý, bệnh tật, thọ yểu, sinh kế, nghề nghiệp. Ngoài con người, Đông
Phương còn nghiên cứu cả đời người.
Mặt khác, tướng học Á Đông còn tìm hiểu, qua nêt tướng mỗi cá nhân, những chi
tiết liên quan đến những người khác có liên hệ mật thiết với mình: đó là cha mẹ, vợ chồng,
anh em, con cái, bạn bè. Sau cùng, sự giải đoán của tướng học Á Đông còn rộng rãi và táo
bạo hơn hẳn khoa tâm lý Tây Phương. Từ nội tâm và liên hệ của con người, khoa tướng Á
Đông tiên đoán luôn vận mạng, dám khẳng định cả sự thành bại, thịnh si, xêt cả quá khứ
lẫn tương lai không dừng lại ở một giai đọan nào. Về mặt quan niệm, tướng học Á Đông
không có gì thần bí. Khoa này lúc nào cũng hướng về con người và đời người làm đối
tượng quan sát. Sự quan sát đó đặt nền tảng trên những nêt tướng con người. Tính tình và
vận số khám phá được không bao giờ được suy diễn từ thần linh hay từ những ý niệm trừu
tượng. Đó là quan niệm hoàn toàn nhân bản. Quan niệm này dựa trên định đề căn bản là:
có ở bên trong ắt phải biểu lộ ra bên ngoài. Vì thấm nhuần tinh thần nhân bản, khuynh
hướng tướng học Á Đông coi trọng phần nhân định: cái tâm con người quyết định tương
lai con người. Thuật xem tướng chung quy thu gọn vào thuật xem tâm. Nhân tướng học là
một nhân tâm học. Nguyên tắc chỉ đạo này được diễn tả qua châm ngôn căn bản sau đây:
“Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt”. Vốn coi nội tâm là chân tướng, cho nên phần
tướng của hình hài chỉ là những yếu tố bề ngoài hướng dẫn người xem đi vào bề sâu của
tâm hồn. Và chỉ khi nào khám phá được bản thể thâm sâu của con người thì mới đạt mục
đích của Tây Phương. Đây là quy tắc duy nhất, bất di bất dịch của việc học tướng và của
việc xem tướng. Theo quan niệm Á Đông, con người là một sinh vật luôn luôn biến đổi.
Do đó, các nêt tướng cũng biến chuyển theo tâm hồn. Quan niệm này thực tiễn và
phù hợp với dịch lý của vạn vật. Đây cũng là một ý niệm căn bản của nhân tướng học Á
Đông. Khoa này, thoạt kỳ thủy đã xuất phát từ Kinh Dịch tức là sách khảo cứu về các quy
luật biến hóa của vạn vật và của con người. Nói về phương pháp, nhân tướng học áp dụng
lối quan sát trực tiếp con người tức là dựa vào những dữ kiện thực tại và cụ thể chứ không
căn cứ vào những hệ luận huyền bí và trừu tượng. Những kết luận về tướng cách cá nhân
được rút tỉa từ hình dáng của khuôn mặt, từ đặc điểm của cơ thể, từ màu sắc của nước da,
từ đặc tính của mục quang, phong thái đi đứng, nằm, ngồi, cười, nói, ăn ngủ cho đến âm
thanh, âm lượng… Những kết luận đó được suy diễn theo lối quy nạp. Người ta tìm những
nêt tướng giống nhau của những người đồng cách để thiết lập những định tắc cho những ý
nghĩa của hình hài, bộ vị, tác phong. Nói như thế, có nghĩa là khoa tướng Đông Phương đã lOMoARcPSD| 59149108
biết sử dụng phương pháp thống kê vô cùng rộng rãi, ngõ hầu tìm hiểu và định giá những
nêt tướng đã quan sát được trong nhiều trường hợp tương tự, qua nhiều thế hệ khác nhau.
Đây quả thật là một phương pháp nhân học dựa vào các trường hợp điển hình, không
bao giờ chịu tách rời thực tế. Sau cùng, mặc dầu nhân tướng học xếp loại tướng người,
nhưng khoa này không xem các loại đó như những khuôn mẫu cố định. Những mẫu người
đặc biệt đó vẫn sinh động, đó là những mẫu người sống, biến thái qua thời gian, biểu lộ
qua những nêt thần, nêt khí, nêt sắc thay đổi từng thời kỳ. Tùy đặc điểm của thần khí sắc
biến thiên đó, người ta xêt đến biến cố, đến vận mệnh. Cho nên khoa tướng số Á Đông có
phần tĩnh ở các hình hài, bộ vị, nhưng cũng có phần động ở thần khí sắc. Những ngọai biểu
của thần khí sắc qua thời gian cũng có định tắc riêng, cũng được suy diễn từ việc quan sát,
từ sự thực nghiệm, từ các thống kê, từ lối quy nạp.
Tiếc rằng, cho tới nay, nền tảng nhân bản và tinh thần thực nghiệm đó chẳng còn
được mấy người hiểu biết và khai triển khiến cho cái tinh hoa và giá trị của khoa này bị
phai lạt dần. Lại có người lạm dụng, bất cứ việc gì cũng đánh giá người khác qua bề ngoài,
dẫn đến sai lầm trong các mối quan hệ xã hội. Quá chú trọng vẻ bên ngoài, thường trao
chuốt, xa hoa không phù hợp thực tế. Lại có người cố tình thay đổi ngoại hình của mình để
được may mắn, như xâm mày (mày làm tướng), chấm nốt rùi (ở vị trí sinh tài lọc),…Những
hành động đó điều là sai lầm, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân tướng học. Cản
trở sự tiến bộ của xã hội.
Trong những kiểu bói toán, khoa Tử vi thường được coi là một trong những kiểu
bói toán có tính chính xác cao và được nhiều người tín nhiệm. Trước khi khoa Tử vi ra đời,
Trung Hoa đã có nhiều hình thức bói toán khác như “bốc phệ” do Văn Vương đời nhà Chu
dựa trên Hà đồ (bức vẽ ở sông Hà, vẽ bát quái của vua Phục Hi) tạo thành, do sáu mươi
bốn quẻ bói hợp thành. Sau đó nền triết học Trung Hoa đã đi qua nhiều luận thuyết như
thuyết Âm Dương Ngũ Hành dựa trên sự tương sinh tương khắc của năm yếu tố cơ bản –
kim, mộc, thủy, hỏa, thổ – nhằm giải thích đời sống và tùy từng cặp yếu tố kết hợp với
nhau nó sẽ cho ra những kết quả khác nhau với độ biến thiên rất phức tạp. Đây là học thuyết
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khoa Tử vi sau này. Đến thời Tống, nền văn minh Trung Hoa
đã có bước phát triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu về nhân học. Nhiều triết gia đã chuyên
tâm nghiên cứu về con người nhằm tìm ra những nguyên tắc về cuộc sống. Khoa Tử vi tuy
ra đời chậm nhưng đã tổng hòa được những tinh hoa của bói dịch, nhân tướng học, thiên
văn học của Trung Quốc cổ đại. Tử vi đã quy nạp lại cho mình một hệ thống thuật ngữ
riêng. Một số quan điểm trong Tử vi tuy không được chứng minh nhưng vẫn được áp dụng
trong đời sống hằng ngày, như áp dụng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành vào y học. Với
những nêt đặc trưng độc đáo của mình, khoa Tử vi được nhiều nhà khoa học ngày nay xem
như là một bước tiến về nhân học Trung Hoa thời Trung đại. Đối tượng nghiên cứu của Tử
vi chính là con người và số mệnh con người. Con người trong Tử vi là con người gắn liền
với gia đình và những mối quan hệ xã hội. Có thể coi Tử vi là một dạng thức khoa học kết lOMoARcPSD| 59149108
hợp triết học một cách khá sơ khai và chất phác. Loại hình nghiên cứu của nó dựa trên tính
trực quan và mang nhiều yếu tố triết học ở dạng sơ kỳ. Tử vi dùng nhiều phương pháp
nghiên cứu kết hợp, đó là phân tích và tổng hợp. Trong đó chia thành đại phân tích và vi
phân tích. Những triết lý bói toán cũng được hệ thống hóa dựa trên nền tảng của triết lý
Âm Dương Ngũ Hành. Tử vi vận động theo các vì sao ở mười can, mười hai chi dịch
chuyển và biến đổi theo lý thuyết Bát Quái, tương tác với nhau theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành.
Khoa Tử vi vừa mang tính khoa học thống kê vừa mang tính bói toán và có phần dị
đoan. Nếu xêt theo những điều kiện cần thì khoa Tử vi có thể được coi là một khoa học
theo một mặt nào đó. Khoa Tử vi có hệ thống lý luận riêng với những thuật toán riêng và
cách tiếp cận nghiên cứu nhân học độc đáo. Ngoài ra, khoa Tử vi cũng có tính lập luận và
logic học rõ ràng từ đó đưa ra được những trải nghiệm và chứng minh từ thực tế đời sống.
Các cung trên lá số Tử vi là những hàm số căn bản. Trong các cung có Chính tinh và Phụ
tinh. Những ngôi sao này tương tác với nhau theo quy luật âm Dương Ngũ Hành khiến một
lá số Tử vi trở thành một “đa hàm số” với nhiều biến số biến đổi rất phức tạp. Tuy nhiên,
điều đó cũng phần nào thể hiện bản mệnh của con người cũng vốn thật phức tạp, không có
một phản ứng nhất định nào theo nguyên lý của lý trí hay tình cảm. Nhưng điều đó cũng
khiến nhiều người trong khoa học cảm thấy đặt niềm tin vào Tử vi là không cần thiết. Khoa
Tử vi là một phương pháp, một công thức, một đồ biểu nhưng nó không đo lường được về
lượng cũng như về chất một cách chính xác. Nó là một hệ thống tương quan giữa các yếu
tố phức tạp, và khi đưa ra không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ
thể nào. Khoa Tử vi khiến người ta nghĩ về sự liên hệ giữa các yếu tố trong cuộc đời và kết
luận về một lá số Tử vi đòi hỏi phải là kết luận dựa trên sự tổng hợp các nhận định cục bộ.
Con người và bản mệnh trong khoa Tử vi là một con người toàn diện, bao hàm cả thể chất
lẫn tinh thần, cả di truyền lẫn bản tính cá nhân, cả môi trường gia đình và xã hội, cả công
danh lẫn tài lộc. Con người đó chính là “sự tổng hòa của những mối quan hệ xã hội”. Khoa
Tử vi không tách rời các phương diện mà xem xêt con người ở một thế giới quan tổng hợp,
có tương tác với môi trường xã hội chứ không phải biệt lập ở một phương diện cụ thể.
Tuy nhiên, cũng có những thiếu hụt trong chính khoa Tử vi khiến nhiều người cho
rằng khoa Tử vi không phải là một khoa học dù vẫn cần phải nhìn nhận giá trị của nó. Khoa
Tử vi chỉ là một quá trình xêt đoán dựa trên những hàm số và biến số được thể hiện bằng
những ngôi sao trên lá số Tử vi. Chính vì vậy, tính chính xác của Tử vi không được bảo
đảm bao giờ. Việc mỗi sao khi ở một cung lại mang những ý nghĩa khác nhau và ý nghĩa
đó thay đổi khi nó kết hợp với những sao khác nhau tạo thành nhiều luận đoán khác nhau
trên một lá số Tử vi khiến tính huyền bí của Tử vi học càng nhiều hơn. Cách tính giờ của
khoa Tử vi cũng có nhiều thay đổi khiến người ta càng nghi ngờ vào tính xác thực của Tử
vi. Từ xưa, người ta tính giờ dựa vào mặt trời. Kể từ khi ảnh hưởng của phương Tây, thời
gian trong ngày được chia làm hai mươi bốn múi. Quy ước này khác với quy ước của khoa
Tử vi chia một ngày làm mười hai múi. lOMoARcPSD| 59149108
Khoa Tử vi cũng có hạn chế về việc coi người tu hành không nằm trong vòng cung
Mệnh nên không xem được. Nó cũng không giải thích được sự khác nhau giữa số mệnh
của những người sinh cùng thời điểm. Tai hại hơn nữa, từ việc sùng bái Tử vi dẫn đến việc
một số gia đình cho mổ lấy trẻ em vào giờ tốt để có lá số Tử vi tốt là một việc làm mù
quáng, đầy mê tín và thiếu khoa học. Thiết nghĩ khoa Tử vi là một nhánh nghiên cứu nhân
học khá lý thú. Nó dựa trên các sao trong Tử vi để mệnh danh một yếu tố trong con người
và sự tương tác qua lại giữa chúng nhằm đưa ra những nhận định dựa trên những suy đoán
qua thống kê về số phận và tính cách con người. Nếu ta biết gạn đục khơi trong, nhìn nhận
những giá trị khoa học và triết học cơ bản cũng như loại trừ những yếu tố mê tín dị đoan
của khoa Tử vi thì đây chính là một trong những vấn đề khoa học rất đáng được quan tâm
nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên, trong xã hội lại có một bộ phận không hiểu biết nhiều về thuật bói toán,
lại tự tổ chức “hành nghề” với mục đích thu lợi cho bản thân. Lợi dụng lòng tin của người
dân, chúng thực hiện nhiều thủ đoạn bịp bọm, bất chấp hậu quả.
2. Một số giải pháp bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nét đẹp văn hóa tâm linh ở nước ta hiện nay
Cần phân biệt rõ giữa tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan
Tự do lựa chọn tín ngưỡng là quyền của mỗi công dân và quyền này được pháp luật bảo vệ.
Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội, làm con người trở nên mê mụi, thiếu ý chí phấn đấu,
là “vết tì” cản trở sự phát triển đất nước.
Quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của công dân Việt Nam được
quy định trong Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế. Hiến pháp năm 1992 của nước
CHXHCN Việt Nam, điều 70 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi
thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước”.
Nhưng do mập mờ chưa phân định rõ, đâu là tự do tín ngưỡng được pháp luật bảo
hộ, đâu là mê tín dị đoan đang bị bày trừ, mà nhiều người dân đã vô tình tiếp tay cho những
tổ chức mê tín dị đoan hoạt động. lOMoARcPSD| 59149108
Do đó, cần phân biệt rõ tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan, để cả nước ta đồng lòng
bày trừ triệt để tệ nan mê tín dị đoan – tệ nạn đe doa sự phát triển đất nước; tạo lòng tin
cho các tín đồ để họ an tâm sống “tốt đời đẹp đạo”.
Nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, vạch trần bộ mặt bịp bợm của bọn hoạt
động mê tín dị đoan
Tệ nạn mê tín dị đoan đang ngày càng “hoành hành” dữ dội; tiếp diễn phức tạp trong
đời sống xã hội ở nước ta. Mê tín, dị đoan là tệ nạn rơi rớt lại từ chế độ cũ, nhưng đến nay
vẫn dai dẳng “ăn sâu, bám rễ” trong suy nghĩ của nhiều người. Hiện tượng mê tín xuất hiện
ở nhiều đối tượng, nhiều thành phần, lứa tuổi khác nhau. Chẳng hạn, việc xem ngày, giờ
tốt xấu rất phổ biến, không chỉ với những việc lớn như làm nhà, cưới hỏi mà tất thảy mọi
việc lớn nhỏ, nhiều người vẫn có thói quen chọn “ngày lành, tháng tốt”. Cá biệt, có người
đến mức cắt tóc, cạo râu cũng tránh những ngày đầu tháng. Nhà nước tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của người dân, song không khuyến khích mọi người tin và làm theo những
điều mê muội. Cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu trong việc đẩy lùi tệ mê tín, dị đoan.
Có cán bộ lãnh đạo khi tuyển chọn, cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ không căn cứ vào năng lực,
phẩm chất mà lại lựa chọn người hợp tuổi, hợp mạng. Việc ký kết hợp đồng làm ăn nhiều
khi cũng máy móc chọn ngày, giờ, địa điểm theo phong thủy.
Ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đời sống của người dân còn nghèo, trình độ
dân trí hạn chế, cho nên trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của tệ nạn mê tín, dị
đoan. Khá nhiều hủ tục lạc hậu, man rợ vẫn tồn tại ở một số bản, làng có nhiều bà con đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống. Không ít nơi, việc tổ chức ma chay, cưới xin vẫn tiến hành
theo thủ tục rườm rà, rắc rối, thậm chí mê muội. Có nơi, đến nay còn duy trì hủ tục chôn
cất người chết ngay trong nhà; người ốm, người mắc bệnh không đến trạm y tế, bệnh viện
mà phó mặc số phận cho thầy mo, thầy cúng, thầy tướng số. Đội ngũ thầy lang bốc thuốc,
trị bệnh xuất hiện ở nhiều địa phương. Có thầy lang chữa bệnh bằng các biện pháp rất thiếu
cơ sở, như làm bùa ngải, cho người bệnh uống nước lã, giẫm đạp lên người…
Không chỉ những người lớn tuổi mà nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên cũng bị
ảnh hưởng nặng nề của tệ mê tín, dị đoan. Đầu năm mới, nhiều sinh viên không chú tâm
việc học mà chăm chỉ lên chùa lễ bái, rút thẻ cầu may với mong muốn thi cử trót lọt, quay
cóp không bị phát hiện. Nhiều em cầu kỳ tìm chọn người xông nhà, nhắn tin chúc năm mới
với hy vọng gặp may cả năm. Có em duy trì việc ăn kiêng cẩn thận trước kỳ thi, khi đi thi
thì lựa chọn giờ xuất hành, tìm người đón ngõ để nhằm đạt điểm cao. Tệ nạn mê tín, dị
đoan lây lan, phát triển trong lớp trẻ là rất đáng lo ngại.
Mặt khác, thủ đoạn của bọn tổ chức hoạt động mê tín dị đoan ngày càng trở nên tinh
vi xảo quyệt. Do đo, nâng cao trình độ nhận thức người dân, vạch trần bộ mặt bịp bợm của
bọn hoạt động mê tín dị đoan, là vấn đề cần được quan tâm. lOMoARcPSD| 59149108
Đề cao pháp luật nhà nước, tăng cường quản lí xã hội
Nhiều người chưa có hiểu biết rõ ràng về pháp luật, dẫn đến không chấp hành hoặc xem
thường những quy định của pháp luật. Đặc biệt là vấn đề tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan.
Trong xã hội nước ta, vẫn còn tồn tại một số thành phần bất hảo, những thế lực thù địch
trong và ngoài nước luôn tìm cách chống phá nhà nước ta. Chúng tìm mọi cách, lợi dụng
những “kẻ hở” của pháp luật nhà nước ta để gây rối.
Do đó, đề cao pháp luật tăng cường quản lí xã hội là một vấn đề cấp bách cần được thực
hiện, để bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan ra khỏi xã hội nước ta. B. KẾT LUẬN