Tiểu luận: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ ------***----- BÀI TẬP LỚN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN Đề tài:
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
Họ và tên: Lê Thị Thuỳ Giang Ngày sinh: 28/06/2004 Mã số sinh viên: 11221759
Lớp tín chỉ: LLNL1106(123)_10
Hà nội, tháng 10 năm 2023 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................4 PHẦN 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ.......................................4
1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
cách mạng công nghiệp lần thứ tư.....................................................................4
1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua. .9 PHẦN 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ...............................................................14
2.1. Xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thúc
đẩy CNH, HDH đất nước nhanh, bền vững....................................................15
2.2. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường.
.........................................................................................................................16
2.3. Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn,
tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo..............................................................................................16
2.4. Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân
lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cnh, hđh trong tình hình mới.................17
2.5. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa
nhanh và bền vững gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho đẩy mạnh cnh, hđh
đất nước...........................................................................................................17
KẾT LUẬN...................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................20 2 MỞ ĐẦU
Kể từ khi Đảng ta đề ra đường lối công nghiệp hoá và lãnh đạo việc tiến
hành công cuộc công nghiệp hoá trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước
ra khỏi tình trạng một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp
tính đến nay đã trên nửa thế kỷ. tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt và kéo
dài không những đã làm gián đoạn công cuộc công nghiệp hoá, mà bom đạn Mỹ
còn phá huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà bình ở
miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi vào tình trạng khủng
hoảng nặng nề về KT - XH. Hơn thế nữa, quan niệm cũ về công nghiệp hoá đã trở
nên quá lạc hậu trước sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại.
Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi mới, sự nhận thức
mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai trò của con người trong
phát triển KT - XH đương đại, cũng như những khó khăn và cả những sai lầm khó
tránh... đã được Đảng ta đúc kết thành những bài học có giá trị trong việc chỉ đạo
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại
được coi là nhiệm vụ trọng tâm để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước
ta đã công nghiệp hoá thành công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội,
đúc kết thành lý luận công nghiệp hoá đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển
trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri
thức ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển rất mạnh
mẽ, tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Đối
với nước ta, nếu tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng này có thể
“đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh và rút ngắn thời gian tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; đồng thời cũng có thể làm cho chúng ta sẽ tụt hậu ngày càng xa
hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Thực tế đó đang đặt ra vấn đề cần phải
có những giải pháp phù hợp đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước hiện nay. Nhận thấy sự cấp thiết và thực tế của vấn đề nên em đã quyết định
chọn đề tài “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư” nhằm nâng cao kiến thức và trình độ hiểu biết để
theo kịp thời đại và góp phần phát triển đất nước. Là một sinh viên năm hai nên
tầm hiểu biết, nhận thức và lí luận của em còn nhiều hạn chế. Vì vậy em rất mong
nhận được sự giúp đỡ của thầy cô để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. 3 NỘI DUNG PHẦN 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ cuối thế kỉ XVIII đến nay, trong lịch sử diễn ra nhiều loại công nghiệp
hóa khác nhau: công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa. Các loại công nghiệp hóa này xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học và
công nghệ là giống nhau. Tuy nhiên lại khác nhau về mục đích, phương thức tiến
hành và về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công nghiệp hóa diễn ra ở
các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác nhau, trong những điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau, do vậy nội dung khái niệm có sự khác nhau.
Tuy nhiên theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hóa là quá trình
biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
công nghiệp hóa và điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra
quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động với công nghiệp, phương
tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, đựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ra phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong
quá trình phát triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà
còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ
nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy
không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử
dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định. 4
1.1.1.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Một là, đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế theo hưởng hiện đại
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là cuộc cách mạng về lực lượng
sản xuất nhằm chuyển nền kinh tế dựa trên trình độ kinh tế công nghiệp thủ công,
năng suất lao động thấp thành nền kinh tế công nghiệp dựa trên trình độ kinh tế
công nghiệp hiện đại, năng suất lao động cao. Để thực hiện sự cải biến này phải
đổi mới và nâng cao trình độ kinh tế công nghiệp của nền kinh tế theo hướng hiện
đại; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá sản xuất.
Đối tượng đổi mới kinh tế công nghiệp là tất cả các ngành, các lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân. Trong đó, cần chú trọng các ngành sản xuất tư liệu sản xuất,
các ngành công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, một số ngành
công nghiệp mới, công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Phải đổi mới công nghệ ở
các khâu của quá trình tái sản xuất nhằm bảo đảm tính đồng bộ, cân đối của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cần đột phá vào những khâu có ý
nghĩa quyết định đến nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, các
lĩnh vực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các yếu tố đó
có vai trò, tỷ trọng khác nhau, song quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh tình trạng
phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Dưới
những góc độ khác nhau có các dạng cơ cấu kinh tế như: cơ cấu kinh tế ngành
(công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); cơ cấu kinh tế vùng; cơ cấu thành phần
kinh tế… trong đó cơ cấu kinh tế ngành có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Điều quan trọng là phải tạo ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó là
một cơ cấu kinh tế phản ánh đúng các quy luật khách quan mà trước hết là quy luật
kinh tế; phù hợp với xu thế tiến bộ của KHOA HỌC CÔNG NGHỆ; cho phép khai
thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; thực hiện tốt sự phân công và hợp
tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, mất cân đối, ít hiệu quả sang một cơ cấu
kinh tế phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại dưới tác động của cách mạng KHOA
HỌC CÔNG NGHỆ và xu thế mở cửa, hội nhập.
Đối với nước ta, Đảng ta chủ trương phải từng bước xây dựng cơ cấu kinh
tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại gắn với phân công lao động và hợp
tác quốc tế sâu rộng. Khi cơ cấu kinh tế này được được hình thành, nước ta sẽ kết
thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ thập niên đầu tiên
của thế kỷ XXI. Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cuộc cách mạng công 5
nghiệp lần thứ tư là sự gắn quyện giữa các nền công nghệ làm xóa đi ranh giới giữa
thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet
vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông
minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học...
Internet vạn vật (Internet of Things IoT) là hệ thống mạng điện tử mới dựa
trên công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông, không chỉ kết nối con người
với vật thể, con người với con người mà còn kết nối cả vật thể với vật thể, làm cho
máy móc có thể giao tiếp với máy móc trong môi trường chung đa tầng nấc, đa
chiều cạnh thông qua việc sử dụng các công cụ hiện đại: website, email, điện thoại
thông minh, mạng truyền thông xã hội, thiết bị điện tử, thiết bị số hóa, thiết bị cảm
biến siêu cao... Với internet vạn vật, không gian thực (real sphere) và không gian
ảo (virtual sphere); hệ thống vật thể (physical system) và hệ thống số (digital
system) giao hòa với nhau ngày càng hữu cơ, làm thay đổi căn bản phương thức tổ
chức và vận hành đời sống xã hội cũng như nền sản xuất - dịch vụ - kinh doanh.
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) là công nghệ mô phỏng các
quá trình tư duy, nhận thức của con người, trong đó có các quá trình học tập, phân
tích, xử lý, lập luận, dịch thuật, sáng tác, dự báo, tự điều chỉnh... Hơn nữa, trí tuệ
nhân tạo còn mô phỏng được cả một số hành vi của con người, trong đó chứa đựng
trạng thái tinh thần, cảm xúc, khả năng ứng xử phù hợp với từng cảnh huống. Trên
nền tảng của trí tuệ nhân tạo, các thiết bị tự động sẽ xuất hiện ngày càng nhiều
trong quá trình sản xuất vật chất hoạt động kinh doanh, tác chiến quân sự, an ninh
và nhiều loại hình lao động khác cũng như trong đời sống thường nhật của con người.
Công nghệ in 3 chiều (3D Printing) hay còn được gọi là chế tạo cộng
(Additive Manufacturing), là công nghệ tạo ra một sản phẩm vật chất bằng cách
bồi đắp dần các lớp vật liệu từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước. Khác với
công nghệ chế tạo truyền thống - chế tạo trừ (Reductive Manufacturing), đây là mô
hình sản xuất mới, hết sức tùy biến sản xuất ra những sản phẩm theo “số đo” của
từng người, theo nhu cầu của từng khách hàng; ngoài ra, quá trình sản xuất những
phụ tùng thay thế sẽ rất tiện lợi: các yêu cầu và thông số kỹ thuật được chuyển cho
các tổ chức mẹ, khâu chế tạo sản phẩm sẽ được các công ty con thực hiện tại chỗ
nhờ hệ thống máy tính dữ liệu lớn (big data) kết nối đa chiều. Đây thật sự là điểm
khởi đầu cho sự hình thành các công xưởng, nhà máy thông minh (Smart Factory)
triển khai một nền sản xuất được cá tính hóa (individualized mass production) mà
các nhà tư tưởng kinh tế xuất sắc của nhân loại đã dự báo cách đây gần 170 năm.
Với mộ hình sản xuất 3D ở các nhà máy thông minh, lợi thế cạnh tranh sẽ dịch
chuyển từ chi phí, quy mô đầu tư... sang các yếu tố khác (ý tưởng, thiết kế, chức
năng riêng biệt, chuỗi cung ứng, dịch vụ...). Khi nền sản xuất này trở thành phổ
biến, chắc chắn các quy luật của kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa sẽ phải
biểu hiện dưới hình thức mới, khác nhiều so với thời kỳ kinh điển từ trước tới nay.
Công nghệ sinh học hiện đại (modern biotechnology) với hạt nhân là công
nghệ gen hay công nghệ di truyền (genetic engineering) đã phát triển lên tầm cao
của lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ gen bao gồm các kỹ thuật thực hiện 6
trên axit nucleic nhằm nghiên cứu cấu trúc của gen; điều chỉnh và biến đổi gen;
tách, tổng hợp và chuyển các gen mong muốn vào các tế bào sinh vật chủ mới tạo
ra các cơ thể mới (thực vật, động vật, vi sinh vật) mang đặc tính mới. Ngoài ra,
công nghệ sinh học hiện đại còn bao gồm công nghệ tế bào, công nghệ enzym và
protein, công nghệ vi sinh vật, công nghệ lên men, công nghệ môi trường...
1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội phát cũng như thách thức
cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Việt Nam có thể tận dụng được những thành tựu khoa học - công
nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời cũng có thể làm sẽ tụt hậu ngày càng
xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. 1.1.3.1. Về thời cơ
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây có thể coi là một cơ hội
vàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam, tiến tới thu hẹp khoảng cách với
các nước phát triển. Cụ thể là:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo ra lợi thế của những nước đi
sau như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế bởi quy mô cồng
kềnh; tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng, vượt qua các quốc gia
khác cho dù xuất phát sau.
Việc đi sau và thừa hưởng những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 giúp Việt Nam tiết kiệm được thời gian nghiên cứu để phát huy tối đa các tiềm
năng và lợi thế sẵn có.
Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, đi tắt, đón đầu,
tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ thành tựu khoa học và công nghệ,
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Các chủ thể trong nền kinh tế có điều kiện tiếp thu và ứng dụng những tiến
bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông tin, công nghệ
số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất
cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Điều này đã tạo ra khả năng nâng cao mức thu
nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.
Với ưu thế dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và Internet cao,
mức độ tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ tốt, cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 đang tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội lớn trong việc xây dựng
và phát triển dữ liệu lớn. Tại sự kiện ngày Internet 2022 do Hiệp hội Internet Việt
Nam phối hợp cùng Trung tâm Internet Việt Nam tổ chức ngày 07 tháng 12 năm
2022 thì Việt Nam hiện có khoảng 70 triệu người dùng Internet, xấp xỉ 70% dân
số, đạt mức số lượng người dùng Internet đứng thứ 6 châu Á và thứ 12 trên thế
giới. Ngoài ra, Việt Nam là nước có kết nối internet bằng điện thoại di động cao, có
đến 63.8 triệu người dùng sở hữu điện thoại thông minh, chiếm 96.1% lượng người 7
dùng Internet trên cả nước. Theo kết quả nghiên cứu người tiêu dùng số của Đông
Nam Á trong giai đoạn mới của Beta và Bain % Company năm 2022, Việt Nam
nằm trong nhóm các thị trường đứng đầu về tỷ lệ đón nhận các công nghệ tài chính
(Fintech) và Metaverse, VR… Khoảng 58% người tiêu dùng số tại Việt Nam đã sử
dụng các giải pháp Fintech (ngân hàng trực tuyến, ví điện tử, ứng dụng chuyển
tiền...) trong năm qua. Có 7 trong số 10 người tiêu dùng số tại Việt Nam đã sử
dụng công nghệ liên quan đến Metaverse (tiền điện tử, thực tế tăng cường/thực tế
ảo và NFT). Đặc biệt, Việt Nam có tỷ lệ ứng dụng VR cao nhất các nước Đông Nam Á với 29%. Điều này
cho thấy Việt Nam đang rất sẵn sàng với các công nghệ
mới. Đây là cơ hội lớn cho nền kinh tế số và sự phát triển của những ngành mới ở Việt Nam thời gian tới. 1.1.3.1. Về thách thức
Một là, thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: chuyển dịch cơ cấu
lao động trong gần 30 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn nhiều nếu so
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào
các ngành sử dụng lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Trình độ lạc
hậu của người lao động và của cả nền kinh tế chính là trở ngại lớn nhất để chúng ta
bắt kịp với các thành tựu khoa học, công nghệ trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0. Trong tương lai, nhiều lao động trong các ngành nghề của Việt Nam có
thể thất nghiệp, ví dụ như lao động ngành dệt may, giày dép.
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt nam còn rất nhiều hạn chế. Tỷ
lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp. Theo số liệu thống kê điều tra
lao động việc làm năm 2021 thì có tới 73,9% lao động không có trình độ chuyên
môn kỹ thuật (con số này đã giảm xuống còn 72,7 vào quý 2 năm 2023); 11,6% lao
động có trình độ đại học trở lên; 3,5% lao động có trình độ cao đẳng; 4,1% lao
động có trình độ trung cấp; 6,8% lao động có trình độ sơ cấp. Thêm vào đó, những
người lao động có trình độ đại học trở lên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường lao động. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp đang có xu hướng gia tăng trong số lao
động có trình độ cao. Theo số liệu, tỉ lệ thất nghiệp của nhóm những người có trình
độ đại học năm 2021 là 3,38%, trình độ cao đẳng là 4,43%.
Ba là, năng suất lao động còn thấp so với khu vực. Năng suất lao động của
toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 188,1 triệu đồng/lao
động (tương đương 8.083 USD/lao động). Tính theo PPP 2017, năng suất lao động
của Việt Nam năm 2022 đạt 20,4 nghìn USD, chỉ bằng 11,4% mức năng suất lao
động của Singapore; 35,4% của Malaysia; 64,8% của Thái Lan; 79% của Indonesia
và bằng 94,5% của Philippines; tương đương mức năng suất lao động của Lào (20
nghìn USD). So với các nền kinh tế phát triển có quy mô lớn, năng suất lao động
của Việt Nam bằng 15,4% của Mỹ; 19,1% của Pháp; 21,6% của Anh; 24,7% của
Hàn Quốc; 26,3% của Nhật Bản và 59% của Trung Quốc. 8
Đáng báo động là chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các
nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh
tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp mức năng suất lao động của các nước.
Bốn là, trình độ khoa học công nghệ của nước ta đang ở vị trí thấp so với
mức trung bình của thế giới. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ năm
2021, thì hiện nay cả nước có gần 857.500 doanh nghiệp, với hơn 90% là doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Phần lớn đều đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung
bình của thế giới từ 2-3 thế hệ. Trong đó, có đến 76% máy móc, dây chuyền công
nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, 75% số thiết bị đã hết
khấu hao, 50% thiết bị là đồ tân trang..., chỉ có 20% là nhóm ngành sử dụng công
nghệ cao. Một khảo sát khác từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc cho
thấy, tỷ lệ giá trị nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm tại Việt Nam chỉ chiếm
13.34% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ lệ tại các nước đang phát triển khác lên đến 40%.
Năm là, quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp vừa,
nhỏ và siêu nhỏ chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp của cả nước, phần lớn doanh
nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50 - 99 lao động) để có được mức năng suất
lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít (chỉ chiếm 2,1%), doanh
nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị trường, trung tâm công nghệ của thế giới,
do đó, chưa thực hiện được chức năng cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới
vào thị trường trong nước. Doanh nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến
sáng tạo còn hạn chế, chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu nên chưa
tận dụng được tính lan tỏa của tri thức, công nghệ và năng suất lao động từ các
công ty, tập đoàn xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó mức
độ sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai.
Sáu là, các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển đều
cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tư, chuyển giao công
nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc Cách mạng công
nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Đây cũng chính là áp lực lớn cho
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam cần
tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường nhất là thị
trường khoa học công nghệ, cải thiện đổi mới môi trường đầu tư kinh doanh, tích
lũy đầu tư để thu hút chuyển giao, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học công
nghệ vào phát triển nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảy là, quản trị nhà nước cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối
với nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ gặp nhiều khó
khăn nếu công cuộc cải cách cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng được
Nhà nước đề ra trong thời gian qua thực hiện không thành công. Bên cạnh đó,
những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra áp lực lớn nếu Nhà nước
không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản lý để ứng phó. 9
1.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC THỜI GIAN QUA
1.2.1. Một số thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua
1.2.1.1. Về khoa học công nghệ
* Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển.
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ
qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đăng
trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16
nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34
nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa học công nghê thuộc khu
vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động khoa học công
nghệ của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối
nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Đến năm 2022, mạng lưới tổ chức KH&CN công lập còn 478 tổ chức gồm:
301 tổ chức trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các đại
học quốc gia, các tổng cục, học viện và các đơn vị tương đương; 170 tổ chức thuộc
thẩm quyền quản lý của UBND cấp tỉnh; 7 tổ chức trực thuộc các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước. Các tổ chức KH&CN công lập thuộc các bộ, ngành hoạt động
trong lĩnh vực gồm: khoa học kỹ thuật và công nghệ , khoa học nông nghiệp , khoa
học tự nhiên , khoa học y dược, khoa học xã hội và khoa học nhân văn.
* Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học công nghệ được tổ chức từ trung
ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, góp phần thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án
khoa học công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. cơ chế
tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học công nghệ đã bước đầu
được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu -
phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học công nghệ, quyền tự chủ của các tổ
chức, cá nhân trong hoạt động khoa học công nghệ bước đầu được tăng cường.
quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học công nghệ được mở rộng.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và
trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 10
* Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích
cực của các tổ chức khoa học công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và
công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học công nghệ đến
sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học
công nghệ của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. hoạt động khoa học
công nghệ ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
1.2.1.2. Về cơ cấu kinh tế
* Về cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ. Trước hết là trong
cơ cấu GDP, theo báo cáo của Niên giám Thống kê 2021, tỷ trọng khu vực Nhà
nước đã giảm xuống còn dưới 21,18%; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã
chiếm hơn 20%; còn khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên dưới 11%... Vốn đầu tư đã
có sự chuyển dịch theo hướng khai thác các nguồn lực của các thành phần kinh tế
ở trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội, tính theo giá hiện hành, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước đã
giảm xuống còn 24,8% (2021); của khu vực ngoài Nhà nước tăng lên 59,4%; của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 15,8% (2021).
* Về cơ cấu vùng kinh tế:
Đã xây dựng được một cơ cấu vùng hợp lý theo hướng phát huy lợi thế
từng vùng. Hiện nay cả nước có sáu vùng KT - XH và bốn vùng kinh tế trọng
điểm. Sáu vùng KT - XH bao gồm: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc
và Đông Bắc ), vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam
Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Bốn vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh và Quảng Ninh; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm 8 tỉnh, thành
phố: Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây
Ninh, Long An, Tiền Giang; vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh,
thành phố: Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định;
vùng Kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long, gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần
Thơ, An Giang, Cà Mau và Kiên Giang.
* Về cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng CNH,
HĐH. Theo Niên giám Thống kê 2021, Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP
giảm xuống còn 12,56% năm 2021. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong
GDP tăng lên 37,48% năm 2021. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng lên
41,21% năm 2021. Quá trình chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn
nhiều hơn với các yêu cầu về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong cơ cấu ngành
công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của công nghiệp khai khoáng giảm dần, trong 11
khi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa
dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các
ngành dịch vụ gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá như dịch vụ tài chính, ngân
hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính viễn thông. phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP. * Về cơ cấu lao động:
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực. Gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ trọng lao
động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh xuống khoảng 29,1% năm 2021. Tỷ trọng
lao động ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng liên tục, trong đó, ngành
công nghiệp, xây dựng tăng lên 32,1% năm 2021; ngành dịch vụ tăng lên 32,2%
năm 2014. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên khoảng 66% năm 2021.
1.2.2. Một số hạn chế của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua
1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra chậm
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã
“chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp. Các ngành
dịch vụ sử dụng tri thức, KHCN phát triển còn chậm. Nếu như trong giai đoạn đầu
của quá trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ chuyển dịch khá, cơ cấu ngành
nông nghiệp trong GDP giảm mạnh xuống 12,31% năm 2018, thì từ năm 2019 đến
nay, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2021,
ngành nông nghiệp vẫn chiếm hơn 12,56% GDP, năm 2022 là 11,88%, cao hơn
đáng kể so với tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh
(tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 7,1%, của Malaixia là 7,1%)
1.2.2.2. Cơ cấu vùng kinh tế còn nhiều bất cập
Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế cũng
cho thấy quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng và quy hoạch ngành theo vùng
hiện nay của nước ta chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để định hướng, điều phối,
phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản trị không gian KT-XH, đặc biệt
là thực hiện vai trò liên kết nội vùng.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa thực sự phát huy vai trò đầu tàu, thiếu
tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư chưa vượt trội; các vùng khó khăn phát triển thiếu
bền vững, khoảng cách giữa các vùng chưa được thu hẹp; liên kết vùng còn yếu,
nhất là giữa các tỉnh và thành phố.
Trong khi đó, vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch,
kế hoạch phát triển các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực quốc gia và xã hội
phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế vùng và tăng cường liên kết vùng còn hạn chế. 12
Chất lượng quy hoạch phát triển KT-XH vùng còn nhiều bất cập, tình trạng
quá nhiều quy hoạch ở cấp địa phương, quy hoạch dàn trải, không tính đến lợi ích
kinh tế chung và lợi ích cộng đồng đã gây ra lãng phí và phức tạp trong thực hiện.
Chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng là yếu tố quan trọng đặc biệt để bảo
đảm cho liên kết vùng có hiệu quả nhưng lại là khâu yếu nhất trong quá trình xây
dựng quy hoạch, kế hoạch liên kết vùng hiện nay. Cách phân vùng KT-XH còn
nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy được lợi thế so sánh từng vùng theo chuỗi giá trị
sản phẩm, các chuỗi giá trị liên kết kinh tế nội vùng và liên vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Đây là yêu cầu bức thiết bởi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang
đặt ra những thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp sẽ tham gia vào chuỗi
sản xuất toàn cầu về những thay đổi liên quan đến chi phí, quản trị rủi ro, giảm
thiểu tính linh hoạt và sự độc lập trong chiến lược kinh doanh.
1.2.2.3. Một số hạn chế về khoa học công nghệ
Thứ nhất, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ còn thấp trong tương quan so sánh với các quốc gia khác trong khu vực và
trên thế giới. Theo Điều tra nghiên cứu và phát triển 2021, tỷ trọng tổng chi quốc
gia cho KHCN/GDP năm 2021 là 0,93%, trong đó chi cho nghiên cứu và phát triển
chiếm 0,43% GDP. Tỉ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển/GDP của Việt Nam so
với các nước là rất thấp, thấp hơn 4 lần mức trung bình thế giới. Mặc dù đầu tư
NSNN cho KH&CN tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển, đẩy
mạnh các hoạt động nghiên cứu, đổi mới KH&CN như hiện nay. So với các nước,
nguồn lực tài chính từ NSNN để đầu tư cho KH&CN ở Việt Nam còn hạn chế (gần
0,6% GDP, chiếm khoảng 40% tổng chi cho R&D). Trong khi đó, tỷ lệ chi cho
R&D của Liên minh châu Âu (EU) năm 2017 đạt 2,03% GDP; Trung Quốc đạt
2,19% GDP; Nhật Bản đạt 3,26% GDP; Singapore đạt 1,95% GDP; Malaysia đạt 1,95% GDP(2021).
Thứ hai, đội ngũ cán bộ KHCN của Việt Nam tuy tăng về số lượng nhưng
so với tổng dân số thì tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực. Theo số
liệu từ điều tra của Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2020), tỷ lệ quy đổi cán bộ
nghiên cứu tương đương toàn thời gian (FTE) thì tổng số cán bộ nghiên cứu quy
đổi theo FTE của Việt Nam năm 2019 là 72.991 người, tăng 6.038 người so với
năm 2017. Bình quân Việt Nam có 7,6 cán bộ nghiên cứu FTE trên 1 vạn dân, hay
1,27 FTE trên 1 nghìn lao động.
So sánh trong khu vực Đông Nam Á cho thấy, Việt Nam đứng thứ 3 (sau
Thái Lan và Malaysia) về số lượng cán bộ nghiên cứu theo FTE. Nếu so sánh về số
cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân thì Việt Nam đứng thứ 4, sau Singapore (69,2),
Malaysia (23,6) và Thái Lan (12,1). Singapore (74,8). Bên cạnh đó, chất lượng
nguồn nhân lực nghiên cứu của Việt Nam chưa cao, thiếu hụt nhiều cán bộ đầu
ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Điều này dẫn đến
chất lượng nghiên cứu KHCN của Việt Nam năm 2022 theo bảng xếp hạng Natural
Index, Việt Nam đạt vị trí thứ 46 toàn cầu và thuộc nhóm 10 nước dẫn đầu khu vực 13
Châu Á – Thái Bình Dương, xếp trên một số nước Đông Nam Á như Indonesia,
Malaysia, Philippines... Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi của tảng băng. Thái Lan tuy ở
ngay trên Việt Nam (thứ 9) nhưng chỉ số đạt được (65,5) cao gấp nhiều lần Việt
Nam (trong danh sách toàn cầu, Thái Lan ở vị trí 40). Singapore (chỉ số 618,81)
dẫn đầu Đông Nam Á, xếp thứ 17 thế giới, thứ 6 châu Á - Thái Bình Dương.
Thứ ba, trình độ công nghệ thấp, không đồng bộ và chậm được đổi mới. Tỷ
lệ ứng dụng KHCN vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Mức độ sẵn sàng về
công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin được coi là nền tảng của phương
thức phát triển mới. Tuy nhiên, theo xếp hạng năm 2018 của Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF), Việt Nam chỉ đứng khiêm tốn ở vị trí thứ 77/140 thế giới, giảm 3 bậc
so với năm 2017 trong đó, giai đoạn 2018-2019, trong khi Malaysia và Singapore
giữ vị trí thứ 11 và 12 về mức độ sẵn sàng đầu tư vào công nghệ mới, thì Việt Nam
xếp vị trí 50, cùng nhóm với Campuchia (47) và Philippines (54). Mức độ sẵn sàng
chấp nhận những ý tưởng đột phá cũng ở tình trạng tương tự.
Thứ tư, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy chuyển
giao công nghệ nhưng hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp
FDI còn thấp. Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chủ yếu diễn ra giữa các doanh
nghiệp trong nước. Việc thiếu học hỏi giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong
nước cho thấy rằng cần có những nỗ lực chính sách bổ sung trong việc thu hút và
quản lý FDI để có được hiệu ứng lan tỏa. PHẦN 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
Mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH đến năm 2030 của nước ta là: Hoàn
thành các tiêu chí của nước công nghiệp, trở thành nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đời sống mọi mặt của nhân dân được
nâng cao. Xây dựng được nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, từng
bước làm chủ được công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền
tảng, công nghiệp ưu tiên; nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh
thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ tiên tiến; các ngành dịch vụ được cơ
cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ
mới, có giá trị gia tăng cao.
Để thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH đất nước theo nghị quyết của Đảng,
trong thời gian tới, cần tập trung nỗ lực thực hiện các giải pháp sau: 14
2.1. XÂY DỰNG, ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CƠ CHẾ,
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC NHANH, BỀN VỮNG.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển công nghiệp quốc
gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, thương mại, đầu tư, kinh
doanh, khởi nghiệp, sáng tạo, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin và truyền thông
và giao dịch điện tử. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, quá trình chuyển đổi
số, phát triển kinh tế số.
Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phát triển sản xuất thông minh, nhà máy
thông minh, xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất thông minh. Có chính
sách thí điểm, đặc thù về phát triển thị trường khoa học, công nghệ, ứng dụng các
công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới, nâng cao giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa.
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách về đất đai, tài khóa, tín dụng, khoa
học, công nghệ, chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với thông lệ quốc tê, phát triển
nguồn nhân lực để thúc đẩy, hỗ trợ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; có chính
sách đột phá để thu hút đầu tư của tư nhân, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về khoa học,
công nghệ; đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư, đầu tư công, mua sắm
công, ngân sách nhà nước, tài sản công, thuế của hoạt động khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo. Có cơ chế, chính sách riêng để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên với cơ chế hỗ
trợ tài chính của Nhà nước.
2.2. XÂY DỰNG NỀN CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA VỮNG MẠNH,
TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG.
Đẩy nhanh thực hiện chủ trương của Đảng về định hướng xây dựng chính
sách phát triển công nghiệp quốc gia. Tiếp tục cơ cấu lại ngành công nghiệp theo
hướng chú trọng xây dựng năng lực nội sinh dựa trên cơ sở tự chủ về nguyên liệu,
sản xuất và thị trường để hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới, phát triển các
ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, phát thải các-bon thấp. Điều chỉnh phân
bố không gian phát triển công nghiệp vùng, địa phương gắn với các hành lang kinh
tế trọng điểm, phù hợp quy hoạch tổng thể quốc gia, lợi thế của vùng, chuyên môn hóa cao.
Xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045. Quy hoạch
và có cơ chế khuyến khích phát triển khu công nghiệp hỗ trợ, khu, cụm công
nghiệp chuyên biệt cho một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên. 15
Hình thành hệ thống khu công nghiệp quốc gia quy mô lớn theo hướng sinh
thái. Tiếp tục triển khai thí điểm mô hình khu kinh tế đặc thù, khu kinh tế mới.
Tăng cường liên kết, chuyển giao, chuyển đổi công nghệ giữa công nghiệp dân
sinh và công nghiệp quốc phòng, hình thành một số nền tảng đổi mới sáng tạo dùng chung.
Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện
đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh và trở thành mũi
nhọn của công nghiệp quốc gia. Cơ cấu lại công nghiệp quốc phòng, hình thành
các cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiện
đại, lưỡng dụng. Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết, đầu tư nguồn lực hỗ trợ
các cơ sở dân sinh phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước và xuất
khẩu, ưu tiên phát triển các vật liệu xanh, vật liệu mới. Phát triển công nghiệp hỗ
trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn và tăng cường khả năng
đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA).
2.3. ĐẨY NHANH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN, TIẾP TỤC CƠ CẤU LẠI NGÀNH DỊCH VỤ DỰA
TRÊN NỀN TẢNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết của Trung ương về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến, thị trường; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị. Phát triển công nghiệp hỗ
trợ và dịch vụ logistics phục vụ nông nghiệp.
Khuyến khích phát triển công nghiệp cơ khí, hóa chất và công nghệ sinh
học phục vụ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông, lâm thủy sản. Phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, kết nối nông thôn với đô thị. Thúc
đẩy chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả nông nghiệp, nông thôn.
Thúc đẩy dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tiếp tục cơ
cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát
triển dịch vụ công nghệ cao, các loại dịch vụ mới của kinh tế số. Xây dựng hệ sinh
thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo
dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin, logistics, vận tải...
2.4. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
VÀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CNH,
HĐH TRONG TÌNH HÌNH MỚI.
Đẩy nhanh thể chế hóa và cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng về
phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; phát triển thị trường khoa học,
công nghệ. Có lộ trình tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển. 16
Xây dựng và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh
thái đổi mới sáng tạo mở, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, liên kết hội nhập khu
vực và thế giới. Thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách mới, đặc thù về khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo tại một số địa phương, trường đại học, viện nghiên
cứu làm cơ sở để phổ biến và nhân rộng. Chú trọng đầu tư và chuẩn bị trước một
bước nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tương lai.
Khuyến khích phát triển các nền tảng học trực tuyến mở, thí điểm các mô hình đại
học mới thích ứng với quá trình chuyển đổi số.
Rà soát, xây dựng và hoàn thiện các chiến lược về phát triển nguồn nhân
lực quốc gia, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi
nhân lực sang nhân lực chất lượng cao, nhân lực số đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao
trong lĩnh vực công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên. Quan tâm đào tạo nâng
cao trình độ lao động nông thôn; phát triển nhân lực nghiên cứu, chuyên gia trong nông nghiệp.
2.5. PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐỒNG BỘ, HIỆN ĐẠI;
THÚC ĐẨY ĐÔ THỊ HÓA NHANH VÀ BỀN VỮNG GẮN KẾT CHẶT CHẼ
VÀ TẠO ĐỘNG LỰC CHO ĐẨY MẠNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã
hội; ưu tiên phát triển một số công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia và vùng về
giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu, năng lượng, hạ tầng số. Phát triển hệ
thống đường cao tốc; nghiên cứu, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao
Bắc - Nam, các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; kết
nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển.
Có đề án tổng thể, thống nhất về cơ chế quản lý, khai thác các tài sản kết
cấu hạ tầng giao thông hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội
địa theo hướng tăng cường xã hội hóa, tách biệt rõ vai trò quản lý nhà nước với vai
trò quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; nghiên cứu áp dụng thí
điểm mô hình đầu tư công - quản trị tư.
Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển hạ tầng số; quy hoạch hạ tầng
thông tin và truyền thông cho giai đoạn tới theo định hướng hạ tầng số là thiết yếu,
bảo đảm an toàn thông tin mạng là then chốt, ưu tiên đầu tư, phát triển nhanh, đi trước một bước.
Khuyến khích phát triển các mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ,
nhất là tại các đô thị, vùng đô thị có mật độ dân số cao. Phát triển hệ thống đô thị
theo mạng lưới, đồng bộ, hiện đại dựa trên lợi thế của từng vùng, miền với mật độ
kinh tế và tập trung lao động ở mức cao, gắn kết chặt chẽ với CNH, HĐH. Tập
trung xây dựng và nhân rộng mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven
biển gắn với hình thành, phát triển đô thị và các trung tâm kinh tế biển mạnh. 17 18 KẾT LUẬN
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển với các đặc điểm khác nhau. Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã
thu được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ
tăng trưởng khá, thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành công đã đạt được, quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thời gian qua cũng đang bộc lộ những hạn chế, đó là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
vẫn thấp so với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và chậm được cải thiện,
chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều
kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ,
trong đó phải thực hiện quyết liệt quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế; nâng cao
hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực, đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế về tài
chính, thu hút nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển, chú trọng quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh trên các cấp độ quốc gia,
địa phương, ngành và sản phẩm; tăng cường hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực,
trong đó, nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, tạo cơ chế
tài chính để các địa phương thu hút các nguồn lực cho phát triển; hình thành các
chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố tiền đề công nghiệp hoá – hiện đại hoá. 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin , Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 140.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương: Thông báo nhanh kết quả Hội nghị Trung
ương lần thứ sáu khoá XIII của Đảng, 2022
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 9
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 8
5. Dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2011 – 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021 – 2030, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 5
6. Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công thương: Công nghiệp
Việt Nam năm 2020 và 5 năm 2016 – 2020, Hà Nội, 2020, tr. 5
7. Tổng cục thống kê ( nhiều năm ), Niên giám thống kê (2021) 20