Tiểu luận cuối kỳ môn Lịch sử đảng | Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung Ương

Tiểu luận cuối kỳ môn Lịch sử đảng | Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung Ương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Đề tài
Hoàn cảnh đất nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và chủ
trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
Họ Tên SV: Nguyễn Bá Dũng
Mã Sv: 2052210110
Lớp tín chỉ: 03
Khoa/ Lớp: K15C Sư phạm âm nhạc
Thời gian học: Tối thứ 2
Số ĐT: 0968124597
A, MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã
đứng trước những thách thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc
ngoài và những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ...do chế độ
thực dân phong kiến để lại. Vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".
Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền, đứng
trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải rút vào hoạt động bí mật (dưới
hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-1945), nhưng vẫn duy trì
phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo".
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng nước ta đã vượt qua muôn vàn
khó khăn của thời kì nước ta mới ra đời. Để hiểu thêm về công cuộc xây
dựng đất nước ta trong thời kì này, em xin nghiên cứu đề tài: “Hoàn cảnh đất
nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chủ trương kháng chiến kiến
quốc của Đảng”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu tình hình nước ra sau cách mạng tháng 8/1945
- Làm rõ chủ trường “kháng chiến kiến quốc” của Đảng
- Rút ra bài học từ kết quả của quá trình kháng chiến
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
- Phương pháp lịch sử
B, NỘI DUNG
Chương 1: Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập
đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đấtớc bị
các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Posdam, gần
20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16
trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai phản
động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng) "Việt cách"
(Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch
còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính
quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng. Đằng sau quân
Tưởng đế quốc Mỹ đang nuôi tâm đặt Đông Dương dưới chế độ "uỷ trị",
một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
quân đội Nhật đã đồng loã tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương.
Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đấtớc ta lúc đó còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một
số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn
đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt
động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy
nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi theo
chúng chống lại chính quyền cách mạng đòi cải tổ Chính phủ lâm thời các
bộ trưởng đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động
Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta mặt nhiều thù
trong, giặc ngoài như lúc này. Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách
thức nghiêm trọng về kinh tế, hội. Nạn đói miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra
chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hóa
khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó
khăn, kho bạc chỉ 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa tiền rách. Ngân hàng
Đông Dương còn nằm trong tay bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ
quan kim gây rối loạn thị trường. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do
chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất
nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc
lâm nguy!
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo
sáng suốt phân tích tình thế với 2 khả năng:
+ Đành mất chính quyền quay về kiếp sống nô lệ.
+ Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ
Từ chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới sức mạnh
mới của dân tộc sở để vạch ra chủ trương giải pháp đấu tranh giữ vững
chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín địa vị của Liên Xô được nâng cao trên
trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển,
trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ hòa bình cũng đang
vươn lên mạnh mẽ. trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã được kiến lập hệ thống từ Trung ương đến sở. Nhân dân
lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng trang nhân dân đang
phát triển. Toàn dân tin tưởng ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao
của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân tộc thống
nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.
Chỉ thị nhận định tình hình thế giới trong nước, chỉ những thuận lợi bản
những thử thách lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác định:
Tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng". Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành nước ta chưa hoàn toàn
độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".
Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương nêu "kẻ
thù chính của ta lúc này phải tập trung ngọn lửa đấuthực dân Pháp xâm lược,
tranh vào chúng". vậy phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp xâm lược" M. rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân
dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do -
hạnh phúc cho dân tộc.
Chỉ thị nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cảKháng chiến kiến quốc
nước ta lúc nay "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân".
Chương 2: Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương
về “kháng chiến kiến quốc”
2.1 Về chỉ đạo chiến lược
Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là
dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là: “dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”,
nhưng không phải là giành độc lập mà giữ vững độc lập.
2.2 Về xác định kẻ thù
Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ
“kẻ thù chính của ta lúc này thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng”.
2.3 Về phương hướng nhiệm vụ
Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu cấp bách cần khẩn trương thực hiện
là: “củng cố chính quyền, chống thực dân pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương kiên nguyên tắc thêm bạn bớt
thù, thực hiện khẩu hiệu Hoa -Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới
Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Chương 3 Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương
về “kháng chiến kiến quốc”
3.1 Nội chính
Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang trọng
nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi
lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội
in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi
trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng đáng vào hội
đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón
chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc
phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng
tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống hội, đem lại
quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được tự do thảo luận,
bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành
vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng
phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên
đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại
biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập,
toàn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống
trị tàn bạo của đế quốc phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi
quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của
đời sống hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi
người được tự do thảo luận, bàn bạc chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào
Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
+ Ra hiến pháp 9/11/1946: ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng
và xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
3.2 Kinh tế tài chính
“Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi
đua, thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”
+ Diệt giặc đói:
“Tôi xin các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc, các cháu
nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp,
đồng bào công nông thi đua sản xuất, đồng bào trí thức chuyên môn thi đua sáng tác, phát minh,
nhân viên chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân, bộ đội thi đua giết giặc”. “Tôi đề
nghị với Chính phủ phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất… Tôi đề nghị mở một cuộc lạc
quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại
và phát cho người nghèo”.
Hồ Chí Minh
Người đã khởi xướng, đề xuất gương mẫu thực hiện phong trào gạo
cứu đói, với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào
''Tuần lễ vàng''. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, khắp các địa phương
trên cả nước, Mặt trận Việt Minh các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân
hưởng ứng lời kêu gọi. Một phong trào quyên góp, tổ chứcngày đồng tâm”, “hũ
gạo cứu đói” ... được phát động mạnh mẽ. Trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”,
hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu được khá
nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân.
Song song với công tác lạc quyên cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát
động phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Đối với Bác,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, Bác đều đặt vấn đề đẩy mạnh phong trào tăng gia sản
xuất như là một nhu cầu nội tại của quốc gia, của cách mạng. Trong bài viết “Gửi
nông gia Việt Nam” in trên báo “Tấc đất” (12/1945), Bác nói: “Thực túc thì binh
cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta
quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay!
Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, nhân
dân ta đã phát huy tinh thần hăng hái lao động, đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Nhiều
quãng đê bị vỡ đã được gia cố lại, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu năm
1946, tức chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành. Đồng
thời với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, chính quyền nhân dân
tất cả các địa phương ra sức cải tạo đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè,
bờ đê để trồng trọt, nhất hoa màu ngắn ngày. Nhờ đó, chỉ sau một thời gian
ngắn, nạn đói đã bị đánh lui. Những thành quả của cách mạng những năm đầu sau
cách mạng, nhất trên lĩnh vực tiêu diệt giặc đói, đẩy mạnh tăng gia sản xuất
thực s một kỳ công của chế độ dân chủ đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Giữa bao bộn bề, lo toan, phải đối phó với thù trong giặc ngoài đoàn kết
xây dựng chính quyền đang trong thời kỳ trứng nước, Bác Hồ đã đặc biệt quan
tâm tới nông dân và mặt trận nông nghiệp.
Đất nước ta đang trên con đường hội nhậpphát triển, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không thế chúng ta coi nhẹ mặt
trận nông nghiệp. Thấm nhuần tưởng của Người, trong hoàn cảnh thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Những lời dạy của Bác về sản xuất
nông nghiệp đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
+ Phát động “tuần lễ vàng”, “tuần lễ đồng” ủng hộ quỹ độc lập.
Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân
dân xây dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” đến tháng 1-1946,
phát hành tiền Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Tống Minh Phương,
người đã đem 200 cây vàng của gia đình ủng hộ cho đất nước trong Tuần lễ vàng.
Từ năm 1947 đến năm 1950, bà Tống Minh Phương được tin tưởng giao trông coi
kho vàng. Số vàng quyên góp được trong Tuần lễ vàng, đồng chí Nguyễn Lương
Bằng giao cho bà quản lý.
Phong trào xây dựng "Quỹ độc lập" được phát động đầu tiên tại Nội.
Đông đảo nhân dân Thủ đô đã hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ trong mấy tuần đầu tháng
9 năm 1945, nhân dân Thủ đô đã đóng góp được trên 50 vạn đồng. Vẫn trong
khuôn khổ chủ trương xây dựng "Quỹ độc lập", Chính phủ mở tiếp "Tuần lễ
vàng", bắt đầu từ ngày 16-9-1945 với mục đích "thu góp số vàng trong nhân dân
nhất của các nhà giàu để dùng vào những việc khẩn cấp việc quan trọng
nhất của chúng ta lúc này, nhất việc quốc phòng". "Tuần lễ vàng" Nội
khai mạc ngày 16-9-1945. Ban tổ chức "Tuần lễ vàng" Nội có mời Chủ tịch
Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc, song vì bận nên Người không đến được, nhưng
Người bức t ngỏ cùng đồng bào cả nước. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đăng trên báo ngày 17-9-1945, đoạn: "Cứu quốc Tôi tin rằng, toàn quốc đồng
bào, nhất các nhà giàu có, trong sự quyên giúp này sẽ xứng đáng với sức hy
sinh phấn đấu của các chiến ái quốc trên các mặt trận". Tinh thần yêu nước
của nhân dân đã thể hiện bằng hành động cụ thể trong Tuần lễ vàng. Tại Nội,
người đóng góp nhiều vàng nhất Vương Thị Lài, với 109,872 lạng, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy chương vàng. Ở khu Đồng Xuân, trong một đám
cưới "đời sống mới", cô dâu và chú rể tuyên bố dành chiếc nhẫn cưới cho Tuần lễ
vàng.
Tại thành phố Huế, chính quyền Cách Mạng và mặt trận Việt minh đã mời
Nam Phương (vợ vua Bảo Ðại) làm cố vấn cho ban tổ chức “Tuần Lễ vàng”,
“Tuần lễ đồng”. Nam Phương đã cùng với Hội phụ nữ cứu quốc thành phố
các tổ chức hội khác vận động nhiều gia đình giàu thành phố trong
hòang tộc đóng góp ng bạc của cải cho quỹ độc lập. Chỉ trên dưới một tuần
lễ,với sự nhiệt tình của quần chúng, thành phố Huế đã thu được 945 lượng vàng,
ba huyện phía Bắc đóng góp 10kg vàng, riêng huyện Phú Vang thu được 25
lượng, ngay cả một thôn Cự Lại (Phú Vang) đóng góp trên 5 tạ đồng.
3.3 Văn hoá
Bình dân học vụ phong trào xóa nạn chữ trong toàn dân, được Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm
1945 (sắc lệnh 19/SL 20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập.
Phong trào này nằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất
của Việt Nam lúc bấy giờ (chỉ sau "giặc đói"). Trong suốt thời Pháp thuộc, hơn
90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Tại phiên họp đầu tiên
của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
nghị mở chiến dịch "Chống nạn chữ", "Một dân tộc dốt một dân tộc
yếu". Để phục vụ chiến dịch xóa nạn mù chữ, Nha bình dân học vụ được thành lập
ngày 18 tháng 9, khoá huấn luyện giáo viên Bình dân học vụ đầu tiên mang tên
Hồ Chí Minh mở tại Nội. nhà nước non trẻ ngân sách thiếu thốn, phong
trào dựa vào sức dân chính. Ngân quỹ được chỉ dụng cho chương trình chỉ trả
lương được tối đa 1.000 giáo viên, trong khi số giáo viên cần thiết tối thiểu
100.000. Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh phải
tự túc giáo viên. Khi ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng phấn
hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy. Phong trào nhanh chóng lan rộng
khắp cả nước. Các lớp học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân, đình chùa,
miếu mạo, chỉ cần mấy chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh chiếc phản,
cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng đã thành lớp học. Các đội Nhi đồng cứu vong
khua trống ếch cổ động người dân đi học. Tại các nơi nhiều người qua lại, như các
ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia, mẹt, phên cốt,
trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng dịp nhẩm, ôn các chữ đã học.
Các câu văn vần miêu cả các chữ cái được sử dụng để người học dễ thuộc. Xuất
hiện nhiều ca dao, hò vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ.
Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" đầu chợ.
Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai
chưa đọc được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ. Tính đến cuối năm 1945, sau
hơn ba tháng phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ
Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên
và đã dạy biết chữ cho hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách
trung ương là 815,68 đồng, còn lại đều do các địa phương và nhân chi trả. Đến
cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo viên,
riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết.
3.4 Quân sự - ngoại giao
+ Đội Việt Nam giải phóng quân thành lập (5 - 1945) được chuyển thành Vệ quốc
đoàn (9 - 1945) và thành Quân đội quốc gia (22 - 5 - 1946).
+ Cuối 1945, lực lượng tự vệ ở xã, huyện phát triển với số lượng hàng vạn người.
+ Thúc đẩy, động viên toàn dân cùng nhau tham gia kháng chiến.
C. KẾT QUẢ, Ý NGHĨA, BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I. Kết quả
Về chính trị xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới -
chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp
dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua ban hành. Bộ máy chính quyền từ
trung ương đến các làng, các quan pháp, tòa án, các công cụ chuyên
chính như Vệ quốc đoàn, Công an nhân dân được thiết lập tăng cường. Các
đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam,
Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở
rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập.
Về kinh tế văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa
bỏ các thứ thuếcủa chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ
quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Cuối năm 1945, nạn đói bản
được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định cải thiện. Tháng
11-1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lại các trường lớp tổ chức
khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã
bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt,
bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước có thêm 2.5 triệu
người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng chiếm
Sài gòn mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời
lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến phát động phong trào Nam
tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quan Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở miền Bắc,
bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính Phủ ta đã
thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ
vững chính quyền, tập trung lực lương chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp-Tưởng
hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua bán quyền lợi với nhau,
cho Pháp kéo quan ra miền Bắc, Đảng mau lẹ chỉ đạo chon giải pháp hòa hoãn,
dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định bộ 6-3-
1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtenơbờlô, Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều
kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
II. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi
Những thành quả nói trên đã bảo vệ được nền độc lập của đất
nước, giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng được nền móng
đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam dân chủ
Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết trực tiếp cho
cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng
đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách màng
Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đúng
đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc, lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch.
III. Bài học kinh nghiệm
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội
bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng
nguyên tắc với kẻ địch cũng một biện pháp đấu tranh cách mạng cần
thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng
lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước khi kẻ
địch bội ước.
D. KẾT LUẬN
Chủ trương Kháng chiến-kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu tranh,
củng cố bảo vệ chính quyền của nhân dân ta. thể hiện một quy luật cách
mạng - xây dựng chế độ mới phải luôn đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Từ đó tạo
điều kiện để nước ta phát triển về mọi lĩnh vực từ văn hóa đến kinh tế, từ chình trị
đến quân sự. Nước ta đã thoát được khỏi nạn đói, bắt đầu phát triển một nền nông
nghiệp ổn định. tương của Đảng được thấm nhuần vào suy nghĩ của từng
người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết tinh thần yêu nước của dân tộc Việt
Nam. thể nói chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” một bước đi cùng
quan trọng của Đảng, tạo tiền đề để đất nước ta tiền hành quá độ lên chủ nghĩa xã
hội sau năm 1954, xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, xây dựng
một xã hội tưởng theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như toàn thế
nhân dân Việt Nam!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
2. Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam nhà xuất bản
chính trị quốc gia, tr.82-84.
http://www.lichsuvietnam.vn/
4. http://vi.wikipedia.org/wiki/
| 1/18

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TW
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG Đề tài
Hoàn cảnh đất nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và chủ
trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
Họ Tên SV: Nguyễn Bá Dũng Mã Sv: 2052210110 Lớp tín chỉ: 03
Khoa/ Lớp: K15C Sư phạm âm nhạc
Thời gian học: Tối thứ 2 Số ĐT: 0968124597 A, MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã
đứng trước những thách thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc
ngoài và những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ...do chế độ
thực dân phong kiến để lại. Vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".
Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền, đứng
trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải rút vào hoạt động bí mật (dưới
hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-1945), nhưng vẫn duy trì
phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo".
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng nước ta đã vượt qua muôn vàn
khó khăn của thời kì nước ta mới ra đời. Để hiểu thêm về công cuộc xây
dựng đất nước ta trong thời kì này, em xin nghiên cứu đề tài: “Hoàn cảnh đất
nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu tình hình nước ra sau cách mạng tháng 8/1945
- Làm rõ chủ trường “kháng chiến kiến quốc” của Đảng
- Rút ra bài học từ kết quả của quá trình kháng chiến
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết - Phương pháp lịch sử B, NỘI DUNG
Chương 1: Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập
đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị
các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Posdam, gần
20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16
trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai phản
động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng) và "Việt cách"
(Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch
còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính
quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng. Đằng sau quân
Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dương dưới chế độ "uỷ trị",
một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương.
Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một
số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn
đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt
động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy
nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi theo
chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và các
bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động
ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt nhiều thù
trong, giặc ngoài như lúc này. Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách
thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra
chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hóa
khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó
khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân hàng
Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và
quan kim gây rối loạn thị trường. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do
chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất
nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc lâm nguy!
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và
sáng suốt phân tích tình thế với 2 khả năng:
+ Đành mất chính quyền quay về kiếp sống nô lệ.
+ Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ
Từ chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh
mới của dân tộc là cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh giữ vững
chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao trên
trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển,
trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang
vươn lên mạnh mẽ. ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã được kiến lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân
lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân đang
phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao
của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân tộc thống
nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.
Chỉ thị nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi cơ bản
và những thử thách lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác định:
Tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng". Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn
độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".
Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương nêu rõ "kẻ
thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng". Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược" M
. ở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân
dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả
nước ta lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân".
Chương 2: Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương
về “kháng chiến kiến quốc”

2.1 Về chỉ đạo chiến lược
Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là
dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là: “dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”,
nhưng không phải là giành độc lập mà giữ vững độc lập.
2.2 Về xác định kẻ thù
Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ
“kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng”.
2.3 Về phương hướng nhiệm vụ
Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện
là: “củng cố chính quyền, chống thực dân pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương kiên kì nguyên tắc thêm bạn bớt
thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa -Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới
Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Chương 3 Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương
về “kháng chiến kiến quốc”
3.1 Nội chính
Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang trọng
nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi
lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội
in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi
trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng đáng vào hội
đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón
chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc
và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng
tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống xã hội, đem lại
quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được tự do thảo luận,
bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành
vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng
phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên
đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại
biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập,
toàn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống
trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi
quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của
đời sống xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi
người được tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào
Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
+ Ra hiến pháp 9/11/1946: ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng
và xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
3.2 Kinh tế tài chính
“Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi
đua, thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”
+ Diệt giặc đói:
“Tôi xin các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc, các cháu
nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp,
đồng bào công nông thi đua sản xuất, đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác, phát minh,
nhân viên chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân, bộ đội thi đua giết giặc”. “Tôi đề
nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất… Tôi đề nghị mở một cuộc lạc
quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại
và phát cho người nghèo”. Hồ Chí Minh
Người đã khởi xướng, đề xuất và gương mẫu thực hiện phong trào hũ gạo
cứu đói, với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào
''Tuần lễ vàng''. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ở khắp các địa phương
trên cả nước, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân
hưởng ứng lời kêu gọi. Một phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng tâm”, “hũ
gạo cứu đói” ... được phát động mạnh mẽ. Trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”,
hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu được khá
nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân.
Song song với công tác lạc quyên cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát
động phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Đối với Bác, dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào, Bác đều đặt vấn đề đẩy mạnh phong trào tăng gia sản
xuất như là một nhu cầu nội tại của quốc gia, của cách mạng. Trong bài viết “Gửi
nông gia Việt Nam” in trên báo “Tấc đất” (12/1945), Bác nói: “Thực túc thì binh
cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta
quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay!
Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, nhân
dân ta đã phát huy tinh thần hăng hái lao động, đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Nhiều
quãng đê bị vỡ đã được gia cố lại, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu năm
1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành. Đồng
thời với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, chính quyền và nhân dân
tất cả các địa phương ra sức cải tạo đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè,
bờ đê để trồng trọt, nhất là hoa màu ngắn ngày. Nhờ đó, chỉ sau một thời gian
ngắn, nạn đói đã bị đánh lui. Những thành quả của cách mạng những năm đầu sau
cách mạng, nhất là trên lĩnh vực tiêu diệt giặc đói, đẩy mạnh tăng gia sản xuất
thực sự là một kỳ công của chế độ dân chủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Giữa bao bộn bề, lo toan, phải đối phó với thù trong giặc ngoài đoàn kết
xây dựng chính quyền đang trong thời kỳ trứng nước, Bác Hồ đã đặc biệt quan
tâm tới nông dân và mặt trận nông nghiệp.
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không vì thế mà chúng ta coi nhẹ mặt
trận nông nghiệp. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong hoàn cảnh thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Những lời dạy của Bác về sản xuất
nông nghiệp đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
+ Phát động “tuần lễ vàng”, “tuần lễ đồng” ủng hộ quỹ độc lập.
Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân
dân xây dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và đến tháng 1-1946,
phát hành tiền Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Bà Tống Minh Phương,
người đã đem 200 cây vàng của gia đình ủng hộ cho đất nước trong Tuần lễ vàng.
Từ năm 1947 đến năm 1950, bà Tống Minh Phương được tin tưởng giao trông coi
kho vàng. Số vàng quyên góp được trong Tuần lễ vàng, đồng chí Nguyễn Lương
Bằng giao cho bà quản lý.
Phong trào xây dựng "Quỹ độc lập" được phát động đầu tiên tại Hà Nội.
Đông đảo nhân dân Thủ đô đã hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ trong mấy tuần đầu tháng
9 năm 1945, nhân dân Thủ đô đã đóng góp được trên 50 vạn đồng. Vẫn trong
khuôn khổ chủ trương xây dựng "Quỹ độc lập", Chính phủ mở tiếp "Tuần lễ
vàng", bắt đầu từ ngày 16-9-1945 với mục đích "thu góp số vàng trong nhân dân
và nhất là của các nhà giàu để dùng vào những việc khẩn cấp và việc quan trọng
nhất của chúng ta lúc này, nhất là việc quốc phòng". "Tuần lễ vàng" ở Hà Nội
khai mạc ngày 16-9-1945. Ban tổ chức "Tuần lễ vàng" ở Hà Nội có mời Chủ tịch
Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc, song vì bận nên Người không đến được, nhưng
Người có bức thư ngỏ cùng đồng bào cả nước. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đăng trên báo Cứu quốc ngày 17-9-1945, có đoạn: "Tôi tin rằng, toàn quốc đồng
bào, nhất là các nhà giàu có, trong sự quyên giúp này sẽ xứng đáng với sức hy
sinh phấn đấu của các chiến sĩ ái quốc trên các mặt trận". Tinh thần yêu nước
của nhân dân đã thể hiện bằng hành động cụ thể trong Tuần lễ vàng. Tại Hà Nội,
người đóng góp nhiều vàng nhất là bà Vương Thị Lài, với 109,872 lạng, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy chương vàng. Ở khu Đồng Xuân, trong một đám
cưới "đời sống mới", cô dâu và chú rể tuyên bố dành chiếc nhẫn cưới cho Tuần lễ vàng.
Tại thành phố Huế, chính quyền Cách Mạng và mặt trận Việt minh đã mời bà
Nam Phương (vợ vua Bảo Ðại) làm cố vấn cho ban tổ chức “Tuần Lễ vàng”,
“Tuần lễ đồng”. Bà Nam Phương đã cùng với Hội phụ nữ cứu quốc thành phố và
các tổ chức xã hội khác vận động nhiều gia đình giàu có ở thành phố và trong
hòang tộc đóng góp vàng bạc của cải cho quỹ độc lập. Chỉ trên dưới một tuần
lễ,với sự nhiệt tình của quần chúng, thành phố Huế đã thu được 945 lượng vàng,
ba huyện phía Bắc đóng góp 10kg vàng, riêng huyện Phú Vang thu được 25
lượng, ngay cả một thôn Cự Lại (Phú Vang) đóng góp trên 5 tạ đồng. 3.3 Văn hoá
Bình dân học vụ là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm
1945 (sắc lệnh 19/SL và 20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập.
Phong trào này nằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất
của Việt Nam lúc bấy giờ (chỉ sau "giặc đói"). Trong suốt thời Pháp thuộc, hơn
90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Tại phiên họp đầu tiên
của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
nghị mở chiến dịch "Chống nạn mù chữ", vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu". Để phục vụ chiến dịch xóa nạn mù chữ, Nha bình dân học vụ được thành lập
ngày 18 tháng 9, khoá huấn luyện giáo viên Bình dân học vụ đầu tiên mang tên
Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Vì nhà nước non trẻ ngân sách thiếu thốn, phong
trào dựa vào sức dân là chính. Ngân quỹ được chỉ dụng cho chương trình chỉ trả
lương được tối đa 1.000 giáo viên, trong khi số giáo viên cần thiết tối thiểu là
100.000. Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh phải
tự túc giáo viên. Khi ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng phấn
hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy. Phong trào nhanh chóng lan rộng
khắp cả nước. Các lớp học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân, đình chùa,
miếu mạo, chỉ cần mấy chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh chiếc phản,
cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng đã thành lớp học. Các đội Nhi đồng cứu vong
khua trống ếch cổ động người dân đi học. Tại các nơi nhiều người qua lại, như các
ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia, mẹt, phên cốt,
trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng có dịp nhẩm, ôn các chữ đã học.
Các câu văn vần miêu cả các chữ cái được sử dụng để người học dễ thuộc. Xuất
hiện nhiều ca dao, hò vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ.
Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" ở đầu chợ.
Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai
chưa đọc được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ. Tính đến cuối năm 1945, sau
hơn ba tháng phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ
Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên
và đã dạy biết chữ cho hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách
trung ương là 815,68 đồng, còn lại đều do các địa phương và tư nhân chi trả. Đến
cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo viên,
riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết.
3.4 Quân sự - ngoại giao
+ Đội Việt Nam giải phóng quân thành lập (5 - 1945) được chuyển thành Vệ quốc
đoàn (9 - 1945) và thành Quân đội quốc gia (22 - 5 - 1946).
+ Cuối 1945, lực lượng tự vệ ở xã, huyện phát triển với số lượng hàng vạn người.
+ Thúc đẩy, động viên toàn dân cùng nhau tham gia kháng chiến.
C. KẾT QUẢ, Ý NGHĨA, BÀI HỌC KINH NGHIỆM I. Kết quả
Về chính trị xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới -
chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp
dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính quyền từ
trung ương đến các làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ chuyên
chính như Vệ quốc đoàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng cường. Các
đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam,
Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở
rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập.
Về kinh tế văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa
bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ
quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản
được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng
11-1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức
khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã
bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt,
bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước có thêm 2.5 triệu
người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng chiếm
Sài gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời
lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam
tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quan Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở miền Bắc,
bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính Phủ ta đã
thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ
vững chính quyền, tập trung lực lương chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp-Tưởng
ký hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua bán quyền lợi với nhau,
cho Pháp kéo quan ra miền Bắc, Đảng mau lẹ chỉ đạo chon giải pháp hòa hoãn,
dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 6-3-
1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtenơbờlô, Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều
kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
II. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi
Những thành quả nói trên đã bảo vệ được nền độc lập của đất
nước, giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng được nền móng
đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam dân chủ
Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết trực tiếp cho
cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng
đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách màng
Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đúng
đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc, lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch.
III. Bài học kinh nghiệm
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội
bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có
nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần
thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng
lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước khi kẻ địch bội ước. D. KẾT LUẬN
Chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu tranh,
củng cố và bảo vệ chính quyền của nhân dân ta. Nó thể hiện một quy luật cách
mạng - xây dựng chế độ mới phải luôn đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Từ đó tạo
điều kiện để nước ta phát triển về mọi lĩnh vực từ văn hóa đến kinh tế, từ chình trị
đến quân sự. Nước ta đã thoát được khỏi nạn đói, bắt đầu phát triển một nền nông
nghiệp ổn định. Tư tương của Đảng được thấm nhuần vào suy nghĩ của từng
người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc Việt
Nam. Có thể nói chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” là một bước đi vô cùng
quan trọng của Đảng, tạo tiền đề để đất nước ta tiền hành quá độ lên chủ nghĩa xã
hội sau năm 1954, xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, xây dựng
một xã hội lý tưởng theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như toàn thế nhân dân Việt Nam! TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
2. Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam nhà xuất bản
chính trị quốc gia, tr.82-84. http://www .lichsuvietnam.vn/
4. http://vi.wikipedia.org/wiki/