Tiểu luận "Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam(1954-1975)"
Tiểu luận "Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam(1954-1975)"
Môn: Lịch sử Đảng (LSĐ)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
--------------
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG
Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam
(1954-1975)
. Sinh viên cần làm gì để đóng góp cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp:
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ 3
1.1 Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử 3
2. ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC 5
2.2 Quá trình hình thành đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa 8
2.2.1 Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam 8
2.2.2 Thành tựu và hạn chế của cách mạng 11
2.3 Ý nghĩa lịch sử của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam 12
3. TRÁCH NHIỆM VÀ NGHĨA VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG 13
CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY 13
LỜI NÓI ĐẦU
- Lý do nghiên cứu đề tài
“Ngay khi mới ra đời và xuyên suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến thời nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam” (1) – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định trong một bài viết sau ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV. Như vậy, chúng ta đã kế thừa những thành quả cách mạng vẻ vang của cha ông và luôn đặt mục tiêu, xây dựng những chính sách phát triển theo định hướng, theo nguyện vọng của dân tộc Việt Nam: tiến lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với điều kiện Việt Nam hiện nay, bên cạnh những cơ hội là không ít thách thức, khó khăn cần đối mặt, giải quyết. Cơ hội và thách thức đan xen, tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Việc nhận rõ cơ hội và thách thức trong quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Là một sinh viên, nhận thức được ý nghĩa của con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, em nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam (1954-1975); sinh viên cần làm gì để đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay” là thiết yếu cho việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đưa ra những quan điểm mang tính bổ sung, phát triển nhận thức và bên cạnh đó là nhiệm vụ của một sinh viên trong thời kỳ quá độ hiện nay.
- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích
Bài tiểu luận sẽ tập trung vào hai mục tiêu sau:
- Nắm được những kiến thức cơ bản và nghiên cứu sâu hơn về thời kỳ cáchmạng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong giai đoạn từ 1954-1975.
- Phân tích trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân, đặc biệt là sinh viên về xâydựng, phát triển và bảo vệ đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ
- Trình bày những nội dung, đặc điểm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miềnBắc trong giai đoạn 1954-1975.
- Làm rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của sinh viên trong sự nghiệp xấy dựng, pháttriển và bảo vệ đất nước trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa.
- Làm rõ ý nghĩa nghiên cứu của đề tài, cũng như nâng cao hiểu biết, nhận thứcvề cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về những yếu tố lịch sử và đường lối cách mạng của Đảng cộng sản trong thời kỳ cách mạng lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận nghiên cứu dựa trên lịch sử đất nước, đặc biệt là miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc Việt Nam.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Nghiên cứu con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miềnBắc (1954-1975) và phân tích đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó, hiểu rõ hơn về ý nghĩa của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc.
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần xây dựng và nâng cao kiến thức, hiểu biết củamọi người về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, củng cố quan điểm đúng đắn và nâng cao trách nhiệm của mọi người, đặc biệt là nghĩa vụ của sinh viên trong thời nay.
NỘI DUNG
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
(1954)
Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử
Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp sâu của Mĩ, Đảng và nhân dân Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng mốc chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954) và Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954). Cách mạng Việt Nam từ đó đã chuyển bước sang giai đoạn mới với nhiệm vụ to lớn là thực hiện thống nhất đất nước, hoàn thành độc lập và dân chủ.
Sau thời gian 300 ngày đấu tranh thực hiện các điều khoản ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực của Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Như vậy, sau hơn 80 năm nô lệ, cả miền Bắc đã là của nhân dân Việt Nam, dưới chế độ Dân chủ Cộng hoà do nhân dân Việt Nam làm chủ. Thắng lợi to lớn ấy là do từ Nam đến Bắc, đồng bào ta đoàn kết, bộ đội ta anh dũng, Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo đúng đắn. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng cũng có nghĩa là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành. Tuy nhiên, miền Nam vẫn nằm dưới ách thống trị của đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai. Điều đó cũng tạo nên khó khăn lớn nhất cho cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, chính là tiền lệ chưa từng có trong lịch sử: đất nước bị chia cắt hai miền Nam - Bắc với hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau: “miền Bắc được hoàn toàn giải phóng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, miền Nam do chính quyền đối phương quản lý, trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mĩ” (2).
Trước sự thay đổi của tình hình đất nước, Đảng ta kịp thời xác định nhiệm vụ cách mạng cho phù hợp. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ chung của Đảng là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định để củng cố hoà bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc.
Như vậy, tuy chưa nêu cụ thể, nhưng Nghị quyết Bộ Chính trị đã xác định mỗi miền có một nhiệm vụ khác nhau. Miền Bắc phải được củng cố vững chắc để làm chỗ dựa cho cách mạng miền Nam. Muốn vậy, không thể để miền Bắc trong tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu và càng không thể đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Yêu cầu của cách mạng miền Bắc cũng như của cách mạng cả nước và nguyện vọng của toàn dân: miền Bắc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác, ở nước ta, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp công nhân và nông dân đóng vai trò quyết định; đội tiên phong của giai cấp công nhân nắm độc quyền lãnh đạo cách mạng. Trong điều kiện đó, thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không những là thắng lợi của nhân dân lao động đối với chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, mà còn là thắng lợi về chính trị của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản trong nước. Chính vì thế, "sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng có nghĩa là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa" (3)
Điều kiện của đất nước
Giai đoạn 1954-1964
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc nước ta được giải phóng hoàn toàn khỏi thực dân Pháp và làm hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục sự nghiệp kháng chiến giành độc lập dân tộc. Nhờ những điều kiện thuận lợi, Đảng ta thực hiện chính sách phát triển kinh tế, quân sự, biến miền Bắc thành căn cứ địa chung cho cả nước và bắt đầu thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) của dân tộc Việt Nam, các phong trào giải phóng dân tộc ngày một mạnh mẽ, bùng nổ. Cùng với đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày một lớn mạnh với nhiều thành tựu đáng kể về mọi mặt như kinh tế, quân sự, đặc biệt là về khoa học-kĩ thuật.
Bên cạnh những mặt thuận lợi ấy, lúc này, kẻ thù trực tiếp lớn nhất của dân tộc là đế quốc Mĩ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh và đang ấp ủ âm mưu bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội ngày một gay gắt, thế giới bắt đầu bước vào cuộc chạy đua vũ trang và thời kỳ chiến tranh lạnh nổ ra.
Giai đoạn 1965-1975
Đến giai đoạn 1965-1975, miền Bắc lúc này đã hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và đạt được một số mục tiêu nhất định về mặt kinh tế, văn hóa. Nhờ những thành tựu ấy, miền Bắc đã trở thành hậu phương vững chãi cho miền Nam cùng với sự chi viện về người và của cho cách mạng dân chủ đạt được nhiều chiến thắng trước kẻ thù xâm lược, đế quốc Mĩ.
Tuy nhiên, tương quan lực lượng giữa quân ta và địch có sự chênh lệch lớn, cộng với Mĩ liên tiếp đưa quân viễn chinh và các nước chư hầu vào tiếp viện càng làm cho quân ta gặp nhiều bất lợi, khó khăn. Cùng lúc ấy, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Liên Xô và Trung Quốc liên tục xảy ra bất đồng, gây ra những mâu thuẫn nội bộ, điều này đã tạo thuận lợi cho phe đối lập trong chiến tranh lạnh có thêm cơ hội để thực hiện mục tiêu lớn nhất: xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
VIỆT NAM (1954-1975)
Bối cảnh lịch sử
Thế giới
Từ sau Chiến tranh thế giới II, chủ nghĩa xã hôi trở thành một xu thế phát triểṇ trên thế giới mà trong đó Liên Xô đứng đầu, làm trụ cột của hệ thống. Miền Bắc nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa khi tình hình thế giới có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có không ít khó khăn cần đối mặt. Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ngày càng mạnh mẽ. Đặc biệt, sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) của dân tộc Việt Nam đã thúc đẩy, cổ vũ mạnh mẽ những phong trào cách mạng dân tộc, phong trào đấu tranh giai cấp trên toàn thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã “trở thành một khối thống nhất và hùng mạnh bao gồm 12 nước, với 1 tỷ dân số thế giới, tức là hơn một phần ba dân số, chiếm gần một phần tư đất đai toàn thế giới”. (4)
Chủ nghĩa xã hội liên tục phát triển và lớn mạnh về mọi mặt như kinh tế, quân sự, khoa học kĩ thuật với nhiều thành tựu nổi bật:
Từ năm 1950, Liên Xô đã đứng đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới về sản lượng điện; trong khoa học-kĩ thuật, Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới sản xuất điện nguyên tử và sau đó phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên vũ trụ... Thu nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Sự lớn mạnh của Liên Xô về kinh tế và quốc phòng đã làm tăng vị thế của các nước xã hôi chủ nghĩạ trên thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa được sự giúp đỡ của Liên Xô tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Năm 1955, công nghiệp Ba Lan tăng gấp 4 lần trước chiến tranh, trong đó, có nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Năm 1956, Cộng hoà Dân chủ Đức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, trở thành nước đứng đầu châu Âu về sản lượng điện, đứng thứ hai thế giới về sản lượng hóa chất theo đầu người. Đồng thời, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đều hoàn thành công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn. Ở châu Á, năm 1957, Trung Quốc đã hoàn thành kế hoạch 5 năm (1953-1957) với nhiều kết quả mới trong phát triển kinh tế-xã hội. Thành tựu đó chứng minh tính ưu viêt của mộ hình xã hội chủ nghĩa và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô cùng các nước phát triển xã hội chủ nghĩa đi trước thực hiện, là mẫu hình để các nước xã hội chủ nghĩa đi sau, trong đó có Việt Nam, tin tưởng, học tập.
Tháng 11-1957, Hội nghị đại biểu 64 đảng cộng sản và công nhân được tổ chức tại Matxcơva. Hội nghị đã tổng kết công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, thừa nhận sự đa dạng các hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, khả năng thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng con đường hòa bình và giành chính quyền không cần nội chiến. Tuy nhiên, Hội nghị nhấn mạnh cho dù hình thức cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước khác nhau nhưng đều tuân theo quy luật chung trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng Liên Xô, đó là: “Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà hạt nhân là Đảng mácxít đối với quần chúng lao động trong sự tiến hành cuộc cách mạng vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác và trong sự kiến lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác; sự liên minh của giai cấp công nhân với quần chúng cơ bản trong nông dân và các tầng lớp lao động khác; sự thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và kiến lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất cơ bản; sự cải tạo dần dần nền nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội; sự phát triển nền kinh tế quốc dân một cách có kế hoạch, hướng vào chỗ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nâng cao mức sống của những người lao động, thực hiện cách mạng xã hội trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa và đào tạo tầng lớp trí thức đông đảo trung thành với giai cấp công nhân; xóa bỏ sự áp bức dân tộc và xây dựng bình đẳng và tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc; bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội, chống sự phá hoại của kẻ thù bên ngoài và bên trong; sự đoàn kết của giai cấp công nhân nước này với giai cấp công nhân của tất cả các nước khác tức là chủ nghĩa quốc tế vô sản” (5).
Đối nghịch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa đế quốc đang dần có dấu hiệu suy yếu. Điều đó trước hết thể hiện ở sự tan rã của hệ thống thuộc địa khi các phong trào giải phóng dân tộc liên tiếp nổ ra mạnh mẽ và giành thắng lợi lớn. Bên cạnh đó, nền kinh tế của chủ nghĩa đế quốc cũng đang đà suy thoái cùng với những mâu thuẫn nội bộ đã có mầm mống từ lâu, làm cho chủ nghĩa tư bản bị đẩy dần về bờ vực khủng hoảng. Có thể nói, đây là cơ hội lớn cho chủ nghĩa xã hội vươn lên và cách mạng dân tộc ngày một phát triển mạnh mẽ, bùng nổ hơn, trong đó có cả Việt Nam, một nước nhỏ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đang phải đối mặt với những chính sách, chiến lược tàn bạo của đế quốc Mĩ.
Việt Nam
Đất nước lâm vào cảnh chia cắt hai miền Nam – Bắc, tuy nhiên dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sau chiến thắng Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, niềm tin của nhân dân Việt Nam vào Đảng ngày một được củng cố vững chắc. Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bắt đầu thực hiện cải cách kinh tế, hăng say lao động, xây dựng chế độ mới, tạo tiền đề cơ bản để miền Bắc tiến vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy rằng đã trải qua nhiều thập kỷ đấu tranh trường kỳ để bảo vệ độc lập dân tộc, nền kinh tế của đất nước vô cùng lạc hậu, đặc biệt kém phát triển về lĩnh vực khoa học-kĩ thuật, nhưng miền Bắc lúc này có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Quá trình hình thành đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa
Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đầu năm 1950, sau khi được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành thành viên của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Việt Nam là nước đứng vào hệ thống xã hội chủ nghĩa muộn hơn, đặc biệt, bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ trên một nửa đất nước. Từ xuất phát điểm đó, Đảng Lao động Vỉệt Nam đã khẳng định: “Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa là một sự cần thiết không thể thiếu được, là một nhân tố rất quan trọng” (6). Đồng thời, Đảng Lao động Việt Nam cũng nhận thức rõ: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để nhất... Để giành thắng lợi cho sự nghiệp lớn lao đó, chúng ta phải nắm vững những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải học tập những kinh nghiệp quý báu của các nước anh em, đồng thời phải khéo vận dụng những nguyên lý và kinh nghiệm ấy vào điều kiện cụ thể nước ta, tìm ra những hình thức, phương pháp, bước đi, tốc độ thích hợp với đặc điểm nước ta” (7).
Về việc thực hiện những nguyên tắc chung xây dựng chủ nghĩa xã hội theo Tuyên bố năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sự phát triển của tình hình thế giới ngày càng chứng tỏ những luận điểm nêu trong Tuyên bố và Bản Tuyên ngôn hòa bình Matxcơva năm 1957 là hoàn toàn đúng đắn”(8).
Cùng với đó, vào tháng 9-1960, tại Đại hội III, Đảng đề ra đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam. Dựa trên những nguyên tắc chung về hình thức, phương pháp, bước đi theo kinh nghiệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đi trước, Đảng chính thức hoạch định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo miền Bắc bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó, xác định rõ tính chất và mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Là một cuộc cách mạng triệt để nhất và sâu sắc nhất trong lịch sử loài người. Nó xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ bóc lột và giai cấp bóc lột, thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho sức sản xuất từ trình độ lạc hậu tiến lên trình độ hiện đại... Nó không những là một cuộc cách mạng triệt để về kinh tế, chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng triệt để về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật” (9).
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đảng nhận thức rõ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải trải qua thời kỳ quá độ.
Lúc này, nhiệm vụ hàng đầu được đặt ra cho thời kỳ quá độ là: phá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, biến các tư liệu sản xuất trong tay tư bản thành của cải của xã hội. Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, biến kinh tế cá thể thành kinh tế tập thể, kinh tế sản xuất nhỏ thành kinh tế sản xuất lớn. Xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân. Sau khi hoàn thành cải cách dân chủ, cải tạo xã hội chủ nghĩa, sẽ tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, trong đó, ngành công nghiệp nặng được ưu tiên hàng đầu. Quan hệ sản xuất được xác lập dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, với hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể. Cùng với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế, cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành đồng thời trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa.
Để thực hiện được nhiệm vụ được đặt ra, Đảng đã sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp để phát triển nền kinh tế quốc dân. Đồng thời thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, bên cạnh đó, ra sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa, xã hội trên toàn miền Bắc.
Bước đi của nước ta trên con đường quá độ luôn được Đảng xác định tiến nhanh, tiến mạnh và tiến chắc lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, có thể đặt ra yêu cầu lâu dài cho sự nghiệp cách mạng sẽ biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế vững mạnh, đất nước công nghiệp, hiện đại hóa cùng với văn hóa, khoa học phát triển bền vững.
Cùng với những mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước là vô cùng cấp thiết. Cùng với đó, củng cố sự nhất trí về chính trị tinh thần của nhân dân và tăng cường sự đoàn kết, hợp tác của các nước trong cùng phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời, mở rộng mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Có thể khẳng định, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tác động lớn đến quá trình nhận thức và hình thành đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, Đảng đã trung thành theo những nguyên tắc chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội của hệ thống xã hội chủ nghĩa, vận dụng vào quá trình chỉ đạo các nhiệm vụ cụ thể trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã tạo được những thành tựu cơ bản trong bước đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện cho miền Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.
Thành tựu và hạn chế của cách mạng
Công cuộc khôi phục kinh tế thắng lợi đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vững bước tiến lên. Thực hiện theo chính sách, chủ trương của Đảng, phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng trở thành cao trào trên toàn miền Bắc. Cuộc vận động hợp tác hóa trong nông nghiệp thu nhiều thành tựu to lớn: tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có hơn 85% hộ nông dân, với 68% diện tích ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp. Đối với cải tạo công thương nghiệp, tính đến năm 1960, miền Bắc có 783 hộ tiểu công nghiệp (100%), 826 thương nghiệp (97,1%) và 319 hộ có vận tải cơ giới (99%) đã được cải tạo. Ngành thủ công nghiệp cũng từng bước được phục hồi và bắt đầu tổ chức hợp tác xã.
Hơn hết, chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến vĩnh viễn bị thủ tiêu. Chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân được xác lập. Nông dân thực sự trở thành người chủ ở nông thôn không chỉ về chính trị, mà cả về kinh tế. Khối liên minh công nông-nền tảng của chuyên chính vô sản-được củng cố một bước.
Song, nền kinh tế miền Bắc cũng bộc lộ những khó khăn, yếu kém. Sau hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã hội vẫn là lao động thủ công. Năng suất lao động rất thấp. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguyên nhân khó khăn: xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên chủ nghĩa xã hội, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt, quy mô lớn kéo dài.
Đảng ta vẫn còn những thiếu sót, khuyết điểm bắt nguồn từ nhận thức còn giản đơn, nóng vội, duy ý chí, chịu ảnh hưởng của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước khác, không tính toán đầy đủ đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế khác trong khi sản xuất còn thấp kém, ngăn chặn sự phát triển kinh tế hàng hoá. Những thiếu sót, khuyết điểm trên còn bắt nguồn sâu xa từ những thiếu sót chung của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới thời chiến tranh lạnh với mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, phi thị trường.
Ý nghĩa lịch sử của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam
Con đường cách mạng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam, trước hết là miền Bắc, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp (bỏ qua chủ nghĩa tư bản). Đó là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất, do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người, nó không vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; chủ nghĩa xã hội mà con người đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại, là đi theo quy luật tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai, do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành công thì chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng xích, đã thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được giữ vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành công.
Nhưng điều đó không ngăn cản việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con đường xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.” (10) Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động. Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Khẳng định chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng là phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng miền Bắc và yêu cầu phát triển chung của cách mạng cả nước. Điều đó đã chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta trong việc đề ra và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung đánh thắng đế quốc Mĩ xâm lược giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với tiềm lực của mình, miền Bắc đã là căn cứ địa của cách mạng của cả nước, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng đế quốc Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam.
TRÁCH NHIỆM VÀ NGHĨA VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG
CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Ngày nay, Việt Nam đang bước từng bước vững chắc trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thừa kế những thành quả cách mạng và gìn giữ độc lập của ông cha ta, mỗi sinh viên trước hết đều phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về trách nhiệm của công dân đối với công cuộc bảo vệ an ninh-trật tự Tổ quốc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân và làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước.
Mỗi sinh viên tự giác chấp hành các quy định về đảm bảo an ninh trật tự của nhà trường và của địa phương nơi cư trú. Đồng thời, tích cực tham gia vào các phong trào bảo vệ an ninh trật tự của địa phương. Luôn luôn nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực tham gia hoạt động phòng chống tội phạm ở địa phương, phát hiện những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường và nơi cư trú kịp thời, cung cấp cho cơ quan công an để có biện pháp ngăn chặn và giải quyết. Bên cạnh đó, cần tích cực, nghiêm túc tham gia hoạt động giáo dục quốc phòng do nhà trường hay địa phương tổ chức để luôn nắm rõ tình hình chung của đất nước, thực hiện tốt nghĩa vụ của một công dân.
Quán triệt đầy đủ, tin tưởng tuyệt đối và nghiêm chỉnh tự giác và chấp hành tốt mọi chủ chương, đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương và nhà trường. Phát huy ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường; tích cực tham gia xây dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham gia vào các hoạt động quốc phòng an ninh do nhà trường và địa phương phát động. Học tập và tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân và những người thân thực hiện toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Sinh viên phải biết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống tốt đẹp, nâng cao phẩm chất chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và phát huy triệt để những thế mạnh, giá trị của bản thân để giúp cho việc phát triển Đảng trong sinh viên ngày càng mạnh và đạt được hiệu quả cao nhất, góp phần xây dựng đất nước hiện đại, tiến bộ hơn.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước, được kế thừa thành quả cách mạng hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc, sinh viên cần phải có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đồng thời phải biết học hỏi và tiếp thu những tinh hoa kiến thức của nhân loại, giúp ích cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ.
Trau dồi kiến thức và nâng cao trình độ văn hóa cũng là một trong những nhiệm vụ thiết yếu của sinh viên. Biết trau dồi các kỹ năng hội nhậptrong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công nghệ, phát triển bản thân phù hợpvới hoàn cảnh gia đình và xã hội. Biết tiếp thu những giá trị tinh túy, tiến bộ, mớimẻ của thời đại, thế giới, bên cạnh đó vẫn luôn phải có ý thức giữ gìn và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập, giao lưu với môi trường, bạn bè quốc tế để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Và quan trọng nhất, mỗi sinh viên đều cần phải thực hiện nghiêm túc và tích cực nhiệm vụ học tập và làm việc theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Như vậy, mỗi sinh viên đều nắm trong tay chìa khóa tương lai của Tổ quốc, điều đó càng chứng minh rõ ràng tầm quan trọng của việc thực hiện nghĩa vụ của một sinh viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay.
KẾT LUẬN
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã đánh giá: “Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội” (11). Qua những cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu ở trên, một lần nữa có thể khẳng định rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Đó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tiến trình thực hiện quá độ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đóng một vai trò quan trọng hàng đầu, Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ của thời kì quá độ thì Đảng và Nhà nước phải xác định, vận dụng đúng đắn, phù hợp những đặc điểm của thời kỳ quá độ trên thế toàn thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời, đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có như thế chúng ta mới xây dựng được cơ sở vật chất cho nền kinh tế quá độ mới giảm bớt khoảng cách lạc hậu về khoa học công nghệ và kĩ thuật so với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kì quá độ, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Nhưng bên cạnh đó cũng chưa tránh khỏi những hạn chế, lúng túng trong quản lý, trong thực hiện cơ chế, chính sách và những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, em hy vọng với những giải pháp thích hợp thì những hạn chế đó sẽ sớm được khắc phục để nước ta có những bước tiến nhanh hơn trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PGS, TS. Lưu Ngọc Khải, Bàn luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - Khoa học và niềm tin, Tạp chí Cộng sản, 2021.
- Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, trang 117.
- TS. Nguyễn Xuân Minh, Giáo trình lịch sử Việt Nam 1945-2000, Nxb Giáo dục, 2006, trang 255.
- Đảng Công sản Việ t Nam,̣ Văn kiên Đảng Toàn tậ p̣ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2002, Tậ p 21, trang 612.̣
- Bùi Công Trừng, Miền Bắc Viêt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xạ̃ hôị, Nxb Sự thât, Hà Nộ i, 1960, trang 191.̣
- Đảng Công sản Việ t Nam,̣ Văn kiên Đảng Toàn tậ p̣ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2002, Tậ p 21, trang 613̣ .
- Đảng Công sản Việ t Nam,̣ Văn kiên Đảng Toàn tậ p̣ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2002, Tậ p 21, trang 528.̣
- Đảng Công sản Việ t Nam,̣ Văn kiên Đảng Toàn tậ p̣ , Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nôi, 2002, Tậ p 21, trang 535.̣
- Đảng Công sản Việ t Nam,̣ Văn kiên Đảng Toàn tậ p̣ , Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nôi, 2002, Tậ p 21, trang 938.̣
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị cán bộ văn hoá, 1958.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản ViệtNam, 1976.