lOMoARcPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
Học phần:
LQT-05
Pháp luật quốc tế về bảo hộ công dân ở nước ngoài
Đề tài tiểu luận:
Đánh giá cơ sở pháp lý, thực tiễn bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài
công dân Việt Nam ở nước ngoài.
Hà Nội – 2022
Họ và tên:
Nguyễn Thu Hương
Mã sinh viên:
29
UD
08007
Lớp:
CH29BUD
lOMoARcPSD| 45734214
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO HỘ CÔNG DÂN:
1. Khái niệm về bảo hộ công dân:
Bảo hộ công n được hiểu một lĩnh vực độc lập trong quan hệ quốc tế chính
thức phát triển vào thế kỷ XVIII, đánh dấu bằng Hiệp ước Jay năm 1794 giữa Anh
Mỹ. Lúc này, quan hệ thương mại trở thành một bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế mỗi quốc gia, đặt ra yêu cầu bảo hộ công dân cùng tài sản của họ nước
ngoài. Ở nước ta, bảo hộ công dân là một vấn đề không mới nhưng hiện nay còn có
nhiều cách hiểu khác nhau. Các nhà nghiên cứu, nhà ngoại giao thường sử dụng hai
thuật ngữ “bảo hộ ngoại giao” “bảo hộ lãnh sự” khi đề cập đến vấn đề bảo hộ
công dân nói chung. Theo nghĩa hẹp: Bảo hộ công dân hoạt động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài,
khi các quyền và lợi ích này bxâm hại ở nước ngoài. Theo nghĩa rộng: Bảo hộ công
dân bao gồm cả các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà nhà nước dành cho công dân
của nước mình đang nước ngoài, kcả trong trường hợp không hành vi xâm hại
nào tới các công dân của nước này.
Như vậy, hoạt động bảo hộ công dân thể bao gồm các hoạt động có tính chất
công vụ như cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính hoặc các hoạt động có tính giúp
đỡ như trợ cấp tài chính cho công dân khi họ gặp khó khăn, phổ biến các thông tin
cần thiết cho công dân nước mình tìm hiểu về nước mà họ dự định tới… nguyện
vọng cá nhân cho đến các hoạt động có tính chất phức tạp hơn như hỏi thăm lãnh sự
khi công dân bị bắt, bị giam hoặc tiến hành các hoạt động bảo vệ đảm bảo cho
công dân nước mình được hưởng những quyền lợi và lợi ích tối thiểu theo quy định
của nước sở tại hoặc luật quốc tế.
2. Điều kiện về bảo hộ công dân:
Để được một quốc gia nào đó bảo hộ, đối tượng được bảo hphải thỏa mãn các
điều kiện sau: Đối tượng bảo hộ công dân của quốc gia tiến hành bảo hộ. Tuy
nhiên trên thực tế trường hợp một người quốc tịch của quốc gia đó nhưng
lOMoARcPSD| 45734214
không được bảo hộ, cũng có trường hợp một người không mang quốc tịch của quốc
gia này nhưng lại được quốc gia đó bảo hộ trong trường hợp bị xâm phạm; khi quyền
lợi hợp pháp của đối tượng bảo hộ bị xâm hại; đã áp dụng các biện pháp tự bảo vệ
trên thực tế theo pháp luật của nước sở tại như: yêu cầu đòi bồi thường để khắc phục
thiệt hại nhưng không mang lại kết quả…
3. Thẩm quyền bảo hộ công dân:
Về thẩm quyền bảo hộ công dân, dựa trên cơ sở cấu tổ chức năng và phạm
vi hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo hộ công dân, có thể chia
các quan này ra làm 2 loại: quan thẩm quyền trong nước quan thẩm
quyền nước ngoài. Cơ quan có thẩm quyền bảo hộ trong nước: hầu hết các quốc gia
đều thực hiện việc bảo hộ công dân thông qua Bộ ngoại giao. Bộ ngoại giao chịu
trách nhiệm trước chính phủ về các hoạt động bảo hcông trong nước cũng như
nước ngoài. quan có thẩm quyền bảo hộ nước ngoài: Theo nguyên tắc chung,
thẩm quyền bảo hộ công dân nước mình ở nước ngoài thuộc về các cơ quan đại diện
ngoại giao, quan lãnh sự của nước cử đại diện tại nước nhận đại diện. Việc bảo
hộ công dân do các đại diện thực hiện được ghi nhận trong công ước Viên năm
1961 về quan hệ ngoại giao công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự. Khi tiến
hành các hoạt động bảo hộ công dân, các quan chức năng thẩm quyền phải dựa
trên cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật quốc gia về bảo hộ công dân và các điều
ước quốc tế hữu quan về bảo hộ công dân.
Trong quá trình thực hiện bảo hộ công dân, các nước thể thực hiện bảo hộ
thông qua các cách thức khác nhau, từ đơn giản như cấp hộ chiếu, visa xuất cảnh cho
tới các cách thức bảo hộ phức tạp ảnh hưởng tới quan hệ ngoại giao giữa các
nước hữu quan như đưa vụ việc ra toàn án quốc tế…Việc lựa chọn cách thức bảo hộ
mức độ nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quyền lợi nào bị vi phạm mức độ vi
phạm, thái độ của nước sở tại… Nhìn chung biện pháp ngoại giao là biện pháp
thường được sử dụng trong việc bảo hộ công dân cơ sở pháp lý của biện pháp này là
lOMoARcPSD| 45734214
nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Biện pháp ngoại giao được
thực hiện để bảo hộ công dân thể thông qua trung gian hòa giải, thương lượng
hoặc đàm phán trực tiếp. Ngoài ra trong thực tiễn quan hệ quốc tế các quốc gia còn
sử dụng các biện pháp như trừng phạt kinh tế hoặc trừng phạt về ngoại giao…
II. THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC BẢO HỘ CÔNG DÂN Ở NƯỚC
NGOÀI:
Theo số liệu thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài,
hiện có khoảng 4 triệu người Việt Nam định cư ở các nước và vùng lãnh thổ. Trong
xu thế mở cửa hội nhập, số lượng công dân Việt Nam ra nước ngoài ngày càng gia
tăng về số lượng và thành phần như: du học, thực tập sinh, lao động, tham quan, du
lịch, hội chợ, triển lãm, buôn bán, đầu tư, kết hôn với người nước ngoài, xuất cảnh
định cư, hội nghị, hội thảo quốc tế, khu vực… Trong đó, tại nhiều địa bàn, số lượng
v fNam kết hôn với công dân sở tại.
Người Việt Nam nước ngoài gia tăng đa dạng về thành phần đã đặt ra
những vấn đề khó khăn, phức tạp cho công tác bảo hộ công dân. Qua thực tiễn công
tác, việc bảo hộ đối với người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá
nhân hoặc những người tự ý bỏ hợp đồng, lại nước ngoài làm việc trái phép, những
người bị lừa đảo xuất khẩu lao động sống lang thang nước ngoài, phụ nữ bị lừa
bán ra nước ngoài làm gái mại dâm, đang là vấn đnan giải đối với công tác này. Do
họ không đăng công dân với quan đại diện, không ai quản lý, nên khi tai
nạn, rủi ro… xảy ra với những đối tượng này, chưa thể khẳng định ngay họ có phải
công dân Việt Nam hay không để tiến hành bảo hộ, giúp đỡ. Để thể giúp đỡ,
bảo hộ cho họ, quan đại diện cần một thời gian nhất định để tiến hành xác minh
kể từ khi nhận được thông tin. Ngoài ra, phải tìm nguồn tài chính để chi phí và mua
máy bay đưa họ về nước nguồn chi của Quỹ bảo hộ công dân chủ yếu trên
nguyên tắc tạm ứng hoặc có bảo lãnh, đặt cọc.
lOMoARcPSD| 45734214
Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác bảo hộ công dân
pháp nhân Việt Nam nước ngoài, Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia nhiều
điều ước quốc tế, thể chế hóa nhiều văn bản pháp luật. Đến nay, Chính phủ đã mở
67 Đại sứ quán, 23 Tổng Lãnh sự quán và 7 quan Lãnh sự danh dự khắp các
châu lục. Với bộ máy này, công tác bảo hộ, giúp đỡ công dân nước ngoài đã
chắc chắn sẽ đạt được nhiều kết quả tích cực. Tại các Đại sứ quán ở địa bàn có đông
lao động Việt Nam như: Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Qatar, UAE,
Séc…, đều đã thành lập Ban Quản lý lao động. Ngoài ra, một số bộ, ngành hoặc hội
nghề nghiệp, đoàn thể quần chúng hoặc một số chính khách của ta phát biểu hoặc ra
tuyên bố công khai phản đối, lên án việc xâm phạm lợi ích hoặc đối xử thô bạo với
công dân, pháp nhân của ta.
Về hợp tác quốc tế, để bảo vệ người lao động Việt Nam nước ngoài, Bộ Ngoại
giao đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức di quốc tế (IOM) tháng 11/2007, tham gia tích cực các
hoạt động tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng như tham gia các diễn đàn trong nước
và quốc tế trong lĩnh vực này. Ở một số nước, do thay đổi thể chế chính trị, thay đổi
luật pháp, địa vị pháp về trú của công dân Việt Nam thường bấp bênh, không
rõ ràng, không hợp pháp, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện ta ở nước ngoài đã
phải đấu tranh bảo vệ quyền tcủa công dân thông qua trao đổi, đàm phán với
phía nước ngoài liên quan nhằm hợp thực hóa việc trú cho công dân. Hiện đây
vẫn một trong những chủ đưu tiên trong các cuộc họp vấn lãnh sự thường niên
của ta với các nước. PThủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã khai
trương Cổng thông tin điện tử về công tác lãnh sự của Bộ
Ngoại giao nhằm đáp ứng các yêu cầu cập nhật và chia sthông tin giữa các cơ quan
và các cá nhân nêu trên nhằm giúp các quan chức năng có biện pháp bảo hộ công
dân ta một cách chủ động, nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.
lOMoARcPSD| 45734214
Các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đã cấp hàng chục nghìn hộ chiếu cho
người Việt Nam định nước ngoài nhằm đáp ứng nguyện vọng giữ quốc tịch Việt
Nam và thuận lợi khi về nước thăm thân, mua nhà tại Việt Nam; cấp hàng nghìn h
chiếu cho người bị mất hộ chiếu nhằm tạo địa vị pháp để họ đủ điều kiện xin
trú hoặc gia hạn trú ở nước ngoài; cấp Thông hành cho lao động bị về nước trước
hạn hoặc người bị trục xuất về nước. Cơ quan đại diện của ta nước ngoài đã thực
hiện nhiều vụ việc bảo hộ quyền lợi của người lao động ghi trong hợp đồng như thiếu
tiền lương, mất việc, tai nạn bị thương, bị chết trong khi lao động… các quyền lợi
khác liên quan. Bộ Ngoại giao đã chủ động chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động-
Thương binh hội, Bộ Công an, các công ty phái cử nhanh chóng kịp thời tổ
chức Đoàn công tác liên ngành ra nước ngoài xử lý các vấn đề xung đột giữa người
lao động Việt Nam với chủ sử dụng lao động, với nước sở tại hoặc trong nội bộ lao
động Việt Nam, không để ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, cũng như
hình ảnh của người Việt Nam ở nước ngoài.
Mọi công dân Việt Nam nước ngoài, không phân biệt cán bộ Nhà nước hay
nhân dân, khi ở nước ngoài nếu gặp hoạn nạn, rủi ro cần được giúp đỡ, nếu trực tiếp
đến quan đại diện, đều được cơ quan đại diện hướng dẫn, giúp đỡ theo Quy chế
quản lý tài chính của Quỹ bảo hộ công dân. Người ở trong nước, nếu nhận được tin
tức thân nhân nước ngoài gặp hoạn nạn, rủi ro cần được giúp đỡ bản thân
người bị nạn không tự đi lại được, nếu có thông báo cho Cục Lãnh sự và có yêu cầu
được giúp đỡ, Cục Lãnh sự đều chỉ đạo cho cơ quan đại diện cử người đến tận nơi
tìm hiểu vviệc và cung cấp những giúp đỡ cần thiết nhằm giúp người bị nạn nhanh
chóng vượt qua khó khăn và hồi hương một cách nhanh nhất.
Bên cạnh các quyền được hưởng theo quy định, người lao động Việt Nam làm
việc ở nước ngoài được bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trong
thời gian làm việc nước ngoài theo hợp đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam,
pháp luật của nước tiếp nhận lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế.
lOMoARcPSD| 45734214
Hiện nay, Bộ Ngoại giao, trực tiếp Cục Bảo hộ công dân làm việc nước
ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động nhu cầu của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 khẳng định: “Công dân Việt Nam nước ngoài được Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”. Luật Quốc tịch Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt
Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt Nam
nước ngoài trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật
của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ đó”.
Lãnh sự Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam nước ngoài, nhiệm vụ
thực hiện chức năng bảo hộ quyền lợi công dân Việt Nam nước ngoài. Cục Lãnh
sự thực hiện các chức năng liên quan đến BHCD, như: Quản nhà nước về hoạt
động di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài; bảo hộ lãnh sự đối với công dân,
pháp nhân Việt Nam nước ngoài; hướng dẫn, chỉ đạo các quan đại diện Việt
Nam nước ngoài phối hợp với các quan thẩm quyền trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam xuất cảnh và cư trú ở nước ngoài.
thể thấy, công tác bảo hộ công dân thời gian qua đạt được những kết quả
tích cực, bên cạnh sự nỗ lực của các cơ quan chức năng Việt Nam ở ngoài nước, còn
có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng ở nước sở tại. Hầu hết các nước
có người lao động Việt Nam sinh sống và làm việc đều tạo điều kiện tối đa cho công
tác bảo hộ công dân. Khi tình huống cần phải bảo hộ công dân thì nhiều biện pháp
nghiệp vụ đã được các cơ quan đại diện chủ động triển khai, góp phần tích cực, hiệu
quả cho công tác bảo hộ công dân.
III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC BẢO HỘ
CÔNG DÂN Ở NƯỚC NGOÀI:
Hiện nay, số lượng người Việt Nam đi làm việc nước ngoài ngày càng gia
tăng ở nhiều địa bàn và quốc gia khác nhau. Để tăng cường, hoàn thiện thiết chế,
lOMoARcPSD| 45734214
chế bảo hộ công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế
về hợp tác lao động trong đòi hỏi cần tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của
cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài trong việc tiếp
cận và hỗ trợ người lao động Việt Nam ở nước ngoài, giải quyết những vướng mắc,
tranh chấp với người sử dụng lao động và môi giới nước ngoài về việc làm điều
kiện làm việc, tiền lương, thu nhập, đóng thuế thu nhập, chi phí theo quy định. Công
tác bảo hộ công dân tại các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài cần bảo đảm về bình
đẳng giới, hỗ trợ người lao động nam và nữ trong các trường hợp bị xâm hại, lạm
dụng, sao cho bảo vệ được quyền của công dân người lao động bảo vệ được
danh tính, tôn trọng quyền riêng tư, bí mật cá nhân của họ…
Các quy định liên quan đến các loại hình di cư của công dân Việt Nam ra nước
ngoài còn thiếu và phần lớn chưa được luật hóa, nằm rải rác trong các văn bản dưới
luật, do đó còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, kém hiệu lực, hiệu quả, thậm cgây k
khăn cho công tác quản của quan chức năng. Hầu hết các quy định khác liên
quan đến di cư đều nằm dưới dạng nghị định, quyết định, thông tư… liên quan đến
nhiều Bộ, ngành, do đó gây nhiều khó khăn trong công tác thực thi pháp luật
chính sách về vấn đnày. Việt Nam vẫn còn thiếu một hệ thống chính sách pháp luật
hiệu quả trong lĩnh vực này, vẫn còn nhiều khoảng trống trong hệ thống pháp luật
chính sách, trong hợp tác song phương, khu vực quốc tế. Để thể bảo đảm
di an toàn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam di ra nước
ngoài, thì việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả của công tác thực thi pháp luật, của bộ máy quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực di cư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về di cư là những vấn đề hết sức cấp thiết.
Nhà nước cần tăng cường vai trò hiệu quả hoạt động của quan đại din
ngoại giao, quan lãnh sự Việt Nam nước ngoài trong việc tiếp cận và hỗ trợ
người lao động Việt Nam nước ngoài, giải quyết những vướng mắc, tranh chấp với
người sử dụng lao động môi giới nước ngoài vviệc làm điều kiện làm việc,
lOMoARcPSD| 45734214
tiền lương, thu nhập, đóng thuế thu nhập, chi phí theo quy định. Công tác bảo hộ
công dân tại các đại sứ quán Việt Nam nước ngoài phải bảo đảm về bình đẳng giới,
hỗ trợ người lao động nam nữ trong các trường hợp bị xâm hại, lạm dụng, sao cho
bảo vệ được quyền của công dân người lao động bảo vệ được danh tính, tôn
trọng quyền riêng tư, mật nhân của họ. Đối với những thị trường tiếp nhận
nhiều lao động nữ Việt Nam cần ít nhất 1 cán bộ nữ thực hiện công tác quản
lao động.
Thực tế cho thấy, cơ sở dữ liệu về lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
chưa được cập nhật thường xuyên và chưa có cơ sở dữ liệu thống nhất, do có trường
hợp cơ quan, doanh nghiệp không gửi báo cáo về Cục Quản lý lao động ngoài nước
cũng như Cục Lãnh sự. Do đó, nếu sở dữ liệu chính xác vlao động di hoặc
sở dữ liệu về đăng công dân ở nước ngoài thì các quan đại diện Việt Nam
nước ngoài thể nắm chắc được số lượng người lao động Việt Nam trú trên
địa bàn mình quản lý, các thông tin chi tiết về nhân thân của những người này để có
thể tiến hành các biện pháp bảo hộ kịp thời khi cần thiết. Để triển khai thực hiện
công việc này, trước mắt, cần tiến hành tổng kết, đánh giá công tác đăng công dân
trong thời gian qua để có thể làm rõ những hạn chế, bất cập trong ng tác này và có
phương hướng khắc phục; tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về tầm quan trọng, tác
dụng của hoạt động đăng ký công dân; thủ tục đăng ký công dân cho công dân Việt
Nam ở nước ngoài; nâng cao nghiệp vụ, nhận thức của cán bộ làm công tác lãnh sự
đối với hoạt động đăng ký công dân ở nước ngoài.
Về lâu dài, Bộ Ngoại giao cần tích cực phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật quy định
về hoạt động đăng ký công dân Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác xác minh quốc tịch của người Việt Nam đi làm việc nước ngoài khi xảy
ra các tình huống cần bảo hộ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
Học phần: LQT-05
Pháp luật quốc tế về bảo hộ công dân ở nước ngoài
Đề tài tiểu luận:
Đánh giá cơ sở pháp lý, thực tiễn bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài
và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, tăng cường hiệu quả công tác hộ
công dân Việt Nam ở nước ngoài. Họ và tên: Nguyễn Thu Hương Mã sinh viên: 29 UD 08007 Lớp: CH29BUD Hà Nội – 2022 lOMoAR cPSD| 45734214
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO HỘ CÔNG DÂN:
1. Khái niệm về bảo hộ công dân:
Bảo hộ công dân được hiểu là một lĩnh vực độc lập trong quan hệ quốc tế chính
thức phát triển vào thế kỷ XVIII, đánh dấu bằng Hiệp ước Jay năm 1794 giữa Anh
và Mỹ. Lúc này, quan hệ thương mại trở thành một bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế mỗi quốc gia, đặt ra yêu cầu bảo hộ công dân cùng tài sản của họ ở nước
ngoài. Ở nước ta, bảo hộ công dân là một vấn đề không mới nhưng hiện nay còn có
nhiều cách hiểu khác nhau. Các nhà nghiên cứu, nhà ngoại giao thường sử dụng hai
thuật ngữ “bảo hộ ngoại giao” và “bảo hộ lãnh sự” khi đề cập đến vấn đề bảo hộ
công dân nói chung. Theo nghĩa hẹp: Bảo hộ công dân là hoạt động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài,
khi các quyền và lợi ích này bị xâm hại ở nước ngoài. Theo nghĩa rộng: Bảo hộ công
dân bao gồm cả các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà nhà nước dành cho công dân
của nước mình đang ở nước ngoài, kể cả trong trường hợp không có hành vi xâm hại
nào tới các công dân của nước này.
Như vậy, hoạt động bảo hộ công dân có thể bao gồm các hoạt động có tính chất
công vụ như cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính hoặc các hoạt động có tính giúp
đỡ như trợ cấp tài chính cho công dân khi họ gặp khó khăn, phổ biến các thông tin
cần thiết cho công dân nước mình tìm hiểu về nước mà họ dự định tới… vì nguyện
vọng cá nhân cho đến các hoạt động có tính chất phức tạp hơn như hỏi thăm lãnh sự
khi công dân bị bắt, bị giam hoặc tiến hành các hoạt động bảo vệ và đảm bảo cho
công dân nước mình được hưởng những quyền lợi và lợi ích tối thiểu theo quy định
của nước sở tại hoặc luật quốc tế.
2. Điều kiện về bảo hộ công dân:
Để được một quốc gia nào đó bảo hộ, đối tượng được bảo hộ phải thỏa mãn các
điều kiện sau: Đối tượng bảo hộ là công dân của quốc gia tiến hành bảo hộ. Tuy
nhiên trên thực tế có trường hợp một người có quốc tịch của quốc gia đó nhưng lOMoAR cPSD| 45734214
không được bảo hộ, cũng có trường hợp một người không mang quốc tịch của quốc
gia này nhưng lại được quốc gia đó bảo hộ trong trường hợp bị xâm phạm; khi quyền
lợi hợp pháp của đối tượng bảo hộ bị xâm hại; đã áp dụng các biện pháp tự bảo vệ
trên thực tế theo pháp luật của nước sở tại như: yêu cầu đòi bồi thường để khắc phục
thiệt hại nhưng không mang lại kết quả…
3. Thẩm quyền bảo hộ công dân:
Về thẩm quyền bảo hộ công dân, dựa trên cơ sở cơ cấu tổ chức năng và phạm
vi hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo hộ công dân, có thể chia
các cơ quan này ra làm 2 loại: cơ quan có thẩm quyền trong nước và cơ quan có thẩm
quyền nước ngoài. Cơ quan có thẩm quyền bảo hộ trong nước: hầu hết các quốc gia
đều thực hiện việc bảo hộ công dân thông qua Bộ ngoại giao. Bộ ngoại giao chịu
trách nhiệm trước chính phủ về các hoạt động bảo hộ công ở trong nước cũng như
nước ngoài. Cơ quan có thẩm quyền bảo hộ ở nước ngoài: Theo nguyên tắc chung,
thẩm quyền bảo hộ công dân nước mình ở nước ngoài thuộc về các cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước cử đại diện tại nước nhận đại diện. Việc bảo
hộ công dân do các cơ đại diện thực hiện được ghi nhận trong công ước Viên năm
1961 về quan hệ ngoại giao và công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự. Khi tiến
hành các hoạt động bảo hộ công dân, các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải dựa
trên cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật quốc gia về bảo hộ công dân và các điều
ước quốc tế hữu quan về bảo hộ công dân.
Trong quá trình thực hiện bảo hộ công dân, các nước có thể thực hiện bảo hộ
thông qua các cách thức khác nhau, từ đơn giản như cấp hộ chiếu, visa xuất cảnh cho
tới các cách thức bảo hộ phức tạp và có ảnh hưởng tới quan hệ ngoại giao giữa các
nước hữu quan như đưa vụ việc ra toàn án quốc tế…Việc lựa chọn cách thức bảo hộ
ở mức độ nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quyền lợi nào bị vi phạm mức độ vi
phạm, thái độ của nước sở tại… Nhìn chung biện pháp ngoại giao là biện pháp
thường được sử dụng trong việc bảo hộ công dân cơ sở pháp lý của biện pháp này là lOMoAR cPSD| 45734214
nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Biện pháp ngoại giao được
thực hiện để bảo hộ công dân có thể thông qua trung gian hòa giải, thương lượng
hoặc đàm phán trực tiếp. Ngoài ra trong thực tiễn quan hệ quốc tế các quốc gia còn
sử dụng các biện pháp như trừng phạt kinh tế hoặc trừng phạt về ngoại giao…
II. THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC BẢO HỘ CÔNG DÂN Ở NƯỚC NGOÀI:
Theo số liệu thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài,
hiện có khoảng 4 triệu người Việt Nam định cư ở các nước và vùng lãnh thổ. Trong
xu thế mở cửa hội nhập, số lượng công dân Việt Nam ra nước ngoài ngày càng gia
tăng về số lượng và thành phần như: du học, thực tập sinh, lao động, tham quan, du
lịch, hội chợ, triển lãm, buôn bán, đầu tư, kết hôn với người nước ngoài, xuất cảnh
định cư, hội nghị, hội thảo quốc tế, khu vực… Trong đó, tại nhiều địa bàn, số lượng
v fNam kết hôn với công dân sở tại.
Người Việt Nam ở nước ngoài gia tăng và đa dạng về thành phần đã đặt ra
những vấn đề khó khăn, phức tạp cho công tác bảo hộ công dân. Qua thực tiễn công
tác, việc bảo hộ đối với người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá
nhân hoặc những người tự ý bỏ hợp đồng, ở lại nước ngoài làm việc trái phép, những
người bị lừa đảo xuất khẩu lao động sống lang thang ở nước ngoài, phụ nữ bị lừa
bán ra nước ngoài làm gái mại dâm, đang là vấn đề nan giải đối với công tác này. Do
họ không đăng ký công dân với Cơ quan đại diện, không ai quản lý, nên khi có tai
nạn, rủi ro… xảy ra với những đối tượng này, chưa thể khẳng định ngay họ có phải
là công dân Việt Nam hay không để tiến hành bảo hộ, giúp đỡ. Để có thể giúp đỡ,
bảo hộ cho họ, cơ quan đại diện cần có một thời gian nhất định để tiến hành xác minh
kể từ khi nhận được thông tin. Ngoài ra, phải tìm nguồn tài chính để chi phí và mua
vé máy bay đưa họ về nước vì nguồn chi của Quỹ bảo hộ công dân chủ yếu là trên
nguyên tắc tạm ứng hoặc có bảo lãnh, đặt cọc. lOMoAR cPSD| 45734214
Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác bảo hộ công dân
và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài, Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia nhiều
điều ước quốc tế, thể chế hóa nhiều văn bản pháp luật. Đến nay, Chính phủ đã mở
67 Đại sứ quán, 23 Tổng Lãnh sự quán và 7 Cơ quan Lãnh sự danh dự ở khắp các
châu lục. Với bộ máy này, công tác bảo hộ, giúp đỡ công dân ở nước ngoài đã và
chắc chắn sẽ đạt được nhiều kết quả tích cực. Tại các Đại sứ quán ở địa bàn có đông
lao động Việt Nam như: Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Qatar, UAE,
Séc…, đều đã thành lập Ban Quản lý lao động. Ngoài ra, một số bộ, ngành hoặc hội
nghề nghiệp, đoàn thể quần chúng hoặc một số chính khách của ta phát biểu hoặc ra
tuyên bố công khai phản đối, lên án việc xâm phạm lợi ích hoặc đối xử thô bạo với
công dân, pháp nhân của ta.
Về hợp tác quốc tế, để bảo vệ người lao động Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại
giao đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức di cư quốc tế (IOM) tháng 11/2007, tham gia tích cực các
hoạt động tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng như tham gia các diễn đàn trong nước
và quốc tế trong lĩnh vực này. Ở một số nước, do thay đổi thể chế chính trị, thay đổi
luật pháp, địa vị pháp lý về cư trú của công dân Việt Nam thường bấp bênh, không
rõ ràng, không hợp pháp, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện ta ở nước ngoài đã
phải đấu tranh bảo vệ quyền cư trú của công dân thông qua trao đổi, đàm phán với
phía nước ngoài liên quan nhằm hợp thực hóa việc cư trú cho công dân. Hiện đây
vẫn là một trong những chủ đề ưu tiên trong các cuộc họp tư vấn lãnh sự thường niên
của ta với các nước. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã khai
trương Cổng thông tin điện tử về công tác lãnh sự của Bộ
Ngoại giao nhằm đáp ứng các yêu cầu cập nhật và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan
và các cá nhân nêu trên nhằm giúp các cơ quan chức năng có biện pháp bảo hộ công
dân ta một cách chủ động, nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả. lOMoAR cPSD| 45734214
Các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đã cấp hàng chục nghìn hộ chiếu cho
người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhằm đáp ứng nguyện vọng giữ quốc tịch Việt
Nam và thuận lợi khi về nước thăm thân, mua nhà tại Việt Nam; cấp hàng nghìn hộ
chiếu cho người bị mất hộ chiếu nhằm tạo địa vị pháp lý để họ đủ điều kiện xin cư
trú hoặc gia hạn cư trú ở nước ngoài; cấp Thông hành cho lao động bị về nước trước
hạn hoặc người bị trục xuất về nước. Cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đã thực
hiện nhiều vụ việc bảo hộ quyền lợi của người lao động ghi trong hợp đồng như thiếu
tiền lương, mất việc, tai nạn bị thương, bị chết trong khi lao động… và các quyền lợi
khác liên quan. Bộ Ngoại giao đã chủ động chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, các công ty phái cử nhanh chóng kịp thời tổ
chức Đoàn công tác liên ngành ra nước ngoài xử lý các vấn đề xung đột giữa người
lao động Việt Nam với chủ sử dụng lao động, với nước sở tại hoặc trong nội bộ lao
động Việt Nam, không để ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, cũng như
hình ảnh của người Việt Nam ở nước ngoài.
Mọi công dân Việt Nam ở nước ngoài, không phân biệt cán bộ Nhà nước hay
nhân dân, khi ở nước ngoài nếu gặp hoạn nạn, rủi ro cần được giúp đỡ, nếu trực tiếp
đến cơ quan đại diện, đều được cơ quan đại diện hướng dẫn, giúp đỡ theo Quy chế
quản lý tài chính của Quỹ bảo hộ công dân. Người ở trong nước, nếu nhận được tin
tức có thân nhân ở nước ngoài gặp hoạn nạn, rủi ro cần được giúp đỡ và bản thân
người bị nạn không tự đi lại được, nếu có thông báo cho Cục Lãnh sự và có yêu cầu
được giúp đỡ, Cục Lãnh sự đều chỉ đạo cho cơ quan đại diện cử người đến tận nơi
tìm hiểu vụ việc và cung cấp những giúp đỡ cần thiết nhằm giúp người bị nạn nhanh
chóng vượt qua khó khăn và hồi hương một cách nhanh nhất.
Bên cạnh các quyền được hưởng theo quy định, người lao động Việt Nam làm
việc ở nước ngoài được bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trong
thời gian làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam,
pháp luật của nước tiếp nhận lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế. lOMoAR cPSD| 45734214
Hiện nay, Bộ Ngoại giao, trực tiếp là Cục Bảo hộ công dân làm việc ở nước
ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động là nhu cầu của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 khẳng định: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”. Luật Quốc tịch Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt
Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài có trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật
của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ đó”.
Lãnh sự và Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, có nhiệm vụ
thực hiện chức năng bảo hộ quyền lợi công dân Việt Nam ở nước ngoài. Cục Lãnh
sự thực hiện các chức năng liên quan đến BHCD, như: Quản lý nhà nước về hoạt
động di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài; bảo hộ lãnh sự đối với công dân,
pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài; hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam xuất cảnh và cư trú ở nước ngoài.
Có thể thấy, công tác bảo hộ công dân thời gian qua đạt được những kết quả
tích cực, bên cạnh sự nỗ lực của các cơ quan chức năng Việt Nam ở ngoài nước, còn
có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng ở nước sở tại. Hầu hết các nước
có người lao động Việt Nam sinh sống và làm việc đều tạo điều kiện tối đa cho công
tác bảo hộ công dân. Khi có tình huống cần phải bảo hộ công dân thì nhiều biện pháp
nghiệp vụ đã được các cơ quan đại diện chủ động triển khai, góp phần tích cực, hiệu
quả cho công tác bảo hộ công dân.
III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC BẢO HỘ
CÔNG DÂN Ở NƯỚC NGOÀI:
Hiện nay, số lượng người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ngày càng gia
tăng ở nhiều địa bàn và quốc gia khác nhau. Để tăng cường, hoàn thiện thiết chế, cơ lOMoAR cPSD| 45734214
chế bảo hộ công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế
về hợp tác lao động trong đòi hỏi cần tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của
cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài trong việc tiếp
cận và hỗ trợ người lao động Việt Nam ở nước ngoài, giải quyết những vướng mắc,
tranh chấp với người sử dụng lao động và môi giới nước ngoài về việc làm và điều
kiện làm việc, tiền lương, thu nhập, đóng thuế thu nhập, chi phí theo quy định. Công
tác bảo hộ công dân tại các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài cần bảo đảm về bình
đẳng giới, hỗ trợ người lao động nam và nữ trong các trường hợp bị xâm hại, lạm
dụng, sao cho bảo vệ được quyền của công dân và người lao động và bảo vệ được
danh tính, tôn trọng quyền riêng tư, bí mật cá nhân của họ…
Các quy định liên quan đến các loại hình di cư của công dân Việt Nam ra nước
ngoài còn thiếu và phần lớn chưa được luật hóa, nằm rải rác trong các văn bản dưới
luật, do đó còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, kém hiệu lực, hiệu quả, thậm chí gây khó
khăn cho công tác quản lý của cơ quan chức năng. Hầu hết các quy định khác liên
quan đến di cư đều nằm dưới dạng nghị định, quyết định, thông tư… liên quan đến
nhiều Bộ, ngành, do đó gây nhiều khó khăn trong công tác thực thi pháp luật và
chính sách về vấn đề này. Việt Nam vẫn còn thiếu một hệ thống chính sách pháp luật
hiệu quả trong lĩnh vực này, vẫn còn nhiều khoảng trống trong hệ thống pháp luật
và chính sách, trong hợp tác song phương, khu vực và quốc tế. Để có thể bảo đảm
di cư an toàn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam di cư ra nước
ngoài, thì việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả của công tác thực thi pháp luật, của bộ máy quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực di cư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về di cư là những vấn đề hết sức cấp thiết.
Nhà nước cần tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài trong việc tiếp cận và hỗ trợ
người lao động Việt Nam ở nước ngoài, giải quyết những vướng mắc, tranh chấp với
người sử dụng lao động và môi giới nước ngoài về việc làm và điều kiện làm việc, lOMoAR cPSD| 45734214
tiền lương, thu nhập, đóng thuế thu nhập, chi phí theo quy định. Công tác bảo hộ
công dân tại các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài phải bảo đảm về bình đẳng giới,
hỗ trợ người lao động nam và nữ trong các trường hợp bị xâm hại, lạm dụng, sao cho
bảo vệ được quyền của công dân và người lao động và bảo vệ được danh tính, tôn
trọng quyền riêng tư, bí mật cá nhân của họ. Đối với những thị trường tiếp nhận
nhiều lao động nữ Việt Nam cần có ít nhất 1 cán bộ nữ thực hiện công tác quản lý lao động.
Thực tế cho thấy, cơ sở dữ liệu về lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
chưa được cập nhật thường xuyên và chưa có cơ sở dữ liệu thống nhất, do có trường
hợp cơ quan, doanh nghiệp không gửi báo cáo về Cục Quản lý lao động ngoài nước
cũng như Cục Lãnh sự. Do đó, nếu có cơ sở dữ liệu chính xác về lao động di cư hoặc
cơ sở dữ liệu về đăng ký công dân ở nước ngoài thì các cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài có thể nắm chắc được số lượng người lao động Việt Nam cư trú trên
địa bàn mình quản lý, các thông tin chi tiết về nhân thân của những người này để có
thể tiến hành các biện pháp bảo hộ kịp thời khi cần thiết. Để triển khai thực hiện
công việc này, trước mắt, cần tiến hành tổng kết, đánh giá công tác đăng ký công dân
trong thời gian qua để có thể làm rõ những hạn chế, bất cập trong công tác này và có
phương hướng khắc phục; tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về tầm quan trọng, tác
dụng của hoạt động đăng ký công dân; thủ tục đăng ký công dân cho công dân Việt
Nam ở nước ngoài; nâng cao nghiệp vụ, nhận thức của cán bộ làm công tác lãnh sự
đối với hoạt động đăng ký công dân ở nước ngoài.
Về lâu dài, Bộ Ngoại giao cần tích cực phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật quy định
về hoạt động đăng ký công dân Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác xác minh quốc tịch của người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài khi xảy
ra các tình huống cần bảo hộ.