



















Preview text:
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM I (1945-1975) Đề tài:
“DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐẤU TRANH NGOẠI
GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ 1945 - 1975
Giáo viên hướng dẫn: GS.TS Vũ Dương Huân Lớp: CSĐNVN.1
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Anh -
Vũ Hải Hoàng - QHQT48C1 - 0927
Đỗ Quỳnh Hương - QHQT48C1 - 0933
Phùng Minh Ngọc - QHQT48C1 - 1061
Lưu Hà Phương - QHQT48C1 - 1082
Nguyễn Minh Phương - QHQT48C1 - 1091
Phạm Lê Thạch Thảo - QHQT48C1 – 1127
Trần Thạch Thảo - QHQT48C1 - 1129 HÀ NỘI - 2023 MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 1
NỘI DUNG “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐẤU TRANH NGOẠI
GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ 1945-1975 ................................................................... 2
I. LÝ THUYẾT TƯ TƯỞNG “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” ........................... 2
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐẤU
TRANH NGOẠI GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ 1945-1975 ...................................... 3
1. Giai đoạn 1945-1946: Bước đầu xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 3
1.1. Chính sách Hòa với Tưởng .......................................................................... 3
1.2. Chính sách Hòa với Pháp, ký kết Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 ...................... 4
1.3. Hội nghị trù bị tại Đà Lạt (19/4 - 11/5/1946) ............................................... 5
1.4. Hội nghị Fontainebleau và Tạm ước 14/9/1946 .......................................... 5
2. Giai đoạn 1947-1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp ................................. 7
2.1. Ngoại giao trong vòng vây kẻ thù: 1947-1949 ............................................. 7
2.2. Ngoại giao ngoài vòng vây kẻ thù: 1950-1953 ............................................. 8
2.3. Hội nghị Genève 1954 ................................................................................... 9
3. Giai đoạn 1954-1975: Kháng chiến chống đế quốc Mỹ .................................... 10
3.1. Giai đoạn 1954-1968 ................................................................................... 11
3.2. Giai đoạn 1968-1975 ................................................................................... 12
III. LIÊN HỆ TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY ......................................................... 14
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 19 ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam ta từ xa xưa đã trải qua vô vàn những cuộc chiến đầy cam go và ác nhiệt từ
các kẻ thù hùng mạnh trên thế giới. Trong hoàn cảnh đó, ông cha ta đã có chủ trương
“lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều”, “lấy nhu thắng cương” và sử dụng nó là một
phương châm trong hoạt động ngoại giao giữa các nước.
Thấm nhuần, học hỏi được tư tưởng đi trước của cha ông và muốn phát huy điều tốt đẹp
đó cho ngành ngoại giao Việt Nam sau này. Nhóm đã tìm hiểu và đi sâu vào phân tích,
nghiên cứu đề tài: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến trong đấu tranh ngoại giao Việt Nam thời
kỳ 1945-1975”. Vượt lên hẳn những người đương thời ở tầm tư duy và cái nhìn biện
chứng; thấm nhuần những tinh hoa của văn hóa nhân loại kết tinh ở đỉnh cao văn minh,
kết hợp với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú và bản lĩnh, tri thức cách mạng,
ngay từ rất sớm, đã hình thành nên ở Hồ Chí Minh hệ thống quan điểm, tư tưởng về
ngoại giao. Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là sự tổng hòa các phương pháp luận,
trở thành chân giá trị, thước đo khả năng quyền biến, nhằm đảm bảo sự tồn vong cho
dân tộc. Trong thời kỳ này Đảng ta đã thể hiện rõ vai trò và làm sâu sắc quan điểm “ứng
vạn biến” để “dĩ bất biến”.
NỘI DUNG “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐẤU TRANH NGOẠI
GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ 1945-1975
I. LÝ THUYẾT TƯ TƯỞNG “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN”
Trong đời sống chính trị thường có những thay đổi hết sức nhanh chóng, thậm chí
trong khoảnh khắc. Chính vì vậy mà càng cần phải có những ứng biến mau lẹ, chuẩn
xác. Ngày 31-5-2946, trước khi lên đường sang thăm Pháp, Hồ Chí Minh đã nói với
Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi
xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong cụ dĩ
bất biến, ứng vạn biến” 1. Hồ Chí Minh đã kế thừa những tinh hoa của quan niệm chính
trị cổ phương Đông và vận dụng tư duy biện chứng duy vật để từ đó nêu ra một phương
cách xử thế trong hoạt động cách mạng nói chung và trong hoạt động đối ngoại nói riêng
trước một hiện thực khách quan với những tương quan lực lượng luôn biến đổi khôn lường.
“Dĩ bất biến” có nghĩa là luôn luôn kiên định mục tiêu chiến lược, bảo vệ lợi ích
lớn của dân tộc, trung thành với lý tưởng cách mạng. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam, đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt, phù hợp với yêu
cầu của tình hình qua từng giai đoạn.
“Ứng vạn biến” có nghĩa là tùy thời thế, đối tượng mà có cách ứng phó, giải quyết
vấn đề tinh tế, linh hoạt và có hiệu quả. Đây là một nguyên tắc phổ biến và có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong đấu tranh ngoại giao, đặc biệt là đối với Việt Nam, một nước
nhỏ mà thường luôn phải đối phó với bối cảnh quốc tế phức tạp.
Trong đường lối ngoại giao của Đảng đã và đang noi gương theo tư tưởng ngoại
giao của Hồ Chí Minh về các hệ thống chiến lược, sách lược đối với vấn đề ngoại giao
quốc tế phù hợp và linh hoạt với từng điều kiện lịch sử dân tộc. Một trong những yếu tố
ta có thể nhận thấy rằng: mặc dù trong đường lối ngoại giao của nước ta luôn có sự uyển
chuyển nhưng sự chuyển đổi luôn hướng về một mục tiêu chung của cách mạng Việt
Nam. Và đó cũng là mong muốn lớn nhất của Bác về vấn đề dân tộc: “Giải phóng dân
tộc, giải phóng con người” xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất. Độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Hoạt động ngoại giao của Đảng ta có rất nhiều sự hiện diện của nhân dân và bạn
bè thế giới. Đó là bởi tinh thần yêu chuộng hòa bình, yêu độc lập tự do dân chủ vì vậy
chúng ta đã giành lại được độc lập. Ngay từ khi nước VNDCCH ra đời (2/9/1945) nền
ngoại giao của thời kỳ hiện đại bắt đầu được hình thành, đó là ngoại giao của Đảng. Thời
kỳ này được ví như là những viên gạch đầu tiên tạo nền móng vững chắc cho hoạt động
ngoại giao của Việt Nam.
Từ đó cho thấy “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lấy cái không thể thay đổi để ứng
phó với muôn sự thay đổi, là một mệnh đề với thuật ngữ của phương Đông, nhưng về
nội dung và thực chất, nó là một phương pháp có nguồn gốc từ tư duy phản biện chứng
của cả phương Tây và phương Đông. Trong đấu tranh ngoại giao cũng là kiên định
nguyên tắc nhưng linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược.
1 Viện Hồ Chí Minh. 2016. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử - tập 3. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.197
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐẤU
TRANH NGOẠI GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ 1945-1975
1. Giai đoạn 1945-1946: Bước đầu xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong
nước hết sức khó khăn, phức tạp. Sau thế chiến thứ II là một cuộc đua tranh giành quyền
lực trong đó các nước lớn chủ động hơn, nắm quyền uy, xoay chuyển trật tự thế giới, còn
các nước nhỏ trong đó có Việt Nam ta lại đứng dưới vị thế thấp hơn như những quân bài
chiến lược. Trong giai đoạn đầu dựng nước và giữ nước, dưới muôn ngàn thách thức từ
những thế lực thù địch lớn như Tưởng, Pháp và Mỹ, tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
của chủ tịch Hồ Chí Minh trở nên sáng ngời. Tư tưởng này được Đảng ta vận dụng xuyên
suốt và đạt được nhiều thành công trong các cuộc đấu tranh ngoại giao của ta.
1.1. Chính sách Hòa với Tưởng
Vào tháng 9/1940, ngay sau khi Paris thất thủ, quân đội Nhật mở rộng chiếm đóng
Bắc Đông Dương. Dưới quyết định của Liên Hợp Quốc, quân Tưởng vào Bắc Việt Nam
với mục đích giải phóng quân đội Nhật nhưng thực chất lại nhăm nhe thôn tính miền
Bắc với hàng loạt âm mưu: Kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, chủ trương “Diệt Cộng cầm
Hồ”. Tuy nhiên, vào ngày 2/9/1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố
thành lập với đông đảo sự ủng hộ của hơn 20 triệu đồng bào đã đặt Tưởng vào thế khó
trong kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng để thành lập chính quyền thân Tưởng.
Ngoài ra, quân Tưởng cũng cần củng cố Hậu cần nên buộc phải giao tiếp với Hồ Chí Minh.
Đối với ta, chính quyền cách mạng đã đưa ra chính sách hòa với Tưởng để vận
dụng quân Tưởng có mặt tại Việt Nam nhằm đối trọng với thực dân Pháp, tránh việc ta
phải đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc và kiềm chế được chủ trương của chính phủ
paris sớm khôi phục sự kiểm soát ở Đông Dương. Ta khéo léo trong việc hòa với Tưởng
bằng những nhân nhượng trên nhiều mặt nhưng vẫn giữ vững lập trường, không nhượng
bộ trong vấn đề độc lập dân tộc.
Về quân sự, ta tránh xung đột với Tưởng và “dàn xếp sao cho đại sự thì thành tiểu
sự và tiểu sự thì thành vô sự” 2. Tưởng ép ta phải giải tán quân đội chính quy, ta đáp ứng
song chỉ đổi tên Việt Nam giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn, hoạt động trong thầm
lặng. Đặc biệt, khi Hà Ứng Khâm và tướng Mỹ McLure vừa đến Hà Nội vào ngày
2/10/1945, ta tổ chức một cuộc diễu hành 30 vạn nhân dân tại thủ đô dưới danh nghĩa
“hoan nghênh phái bộ đồng minh” song thực tế nhằm biểu dương thực lực, sức mạnh và
sự đoàn kết của chính quyền cách mạng Hồ Chí Minh. Về kinh tế, dù Việt Nam ta cũng
gặp khó khăn nhưng vấn cung cấp thực phẩm cho Tưởng, cho phép Tưởng sử dụng đồng
tiền quan kim mất giá trong buôn bán, tạo nhiều điều kiện có lợi. Cụ thể như: Ta cho
phép vợ tướng Tiêu Văn - Phó tư lệnh, phụ trách công tác chính trị cho Lữ Hán, buôn
bán gạo và hàng hóa sang Hồng Kông. Về chính trị, ta chấp nhận thành lập chính phủ
liên hiệp, chia sẻ quyền lực cho Việt Quốc, Việt Cách các chức vụ lớn. Nhân nhượng có
nguyên tắc ở chỗ: Ta đồng ý cho Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch nước, song do sống
ở Trung Quốc đã lâu nên ông ta nói tiếng Việt lơ lớ như người Hoa Chợ lớn, chỉ làm “trò
2 Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 1993. Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử - tập 3, tr.160, 167.
cười” cho nhân dân ta. Hay ta đồng ý cho người của Tưởng làm cố vấn trong Bộ Quốc
Phòng, song chỉ là cố vấn quân huấn (thể dục thể thao) không có nhiều uy lực.
Bảy mươi ghế không qua bầu cử cũng được ta nhân nhượng. Ngoài ra, Tưởng còn muốn
ta giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương, Bác cũng đồng ý song chỉ trên danh nghĩa, còn
thực chất Đảng vẫn hoạt động bí mật dưới tên Câu lạc bộ nghiên cứu chủ nghĩa Marx.
Như vậy thấy rằng, dù ta phải nhân nhượng nhiều lĩnh vực, “ứng vạn biến” nhưng vốn
vẫn không thể thay đổi được bản chất của chính quyền cách mạng, quyền độc lập, tự chủ
của dân tộc, Đảng lãnh đạo nhân dân, “dĩ bất biến”. Thời gian hòa với Tưởng góp phần
giữ vững chính quyền ta và tạo điều kiện hỗ trợ cho nhân dân miền Nam kháng chiến
phá tan kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp.
1.2. Chính sách Hòa với Pháp, ký kết Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946
Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết với thỏa thuận Tưởng cho phép
quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam dưới danh nghĩa thay thế Tưởng giải phóng quân đội
Nhật, đổi lại Pháp phải nhân nhượng nhiều điều khoản có lợi cho Tưởng. Tuy nhiên nếu
quân Pháp tiến ra Bắc bằng vũ lực thì gặp phải chính quyền cách mạng của ta chống cự
và cả sự lên án của dư luận quốc tế, cũng không tránh được nguy cơ Tưởng nắm bắt tình
hình mà gây khó dễ cho Pháp.
Dự đoán trước được toan tính của các nước lớn, Chính phủ Việt Nam ra quyết
sách hòa để tiến với Pháp giúp quân đội ta tránh phải đối đầu cùng lúc với quân Pháp ra
Bắc, quân Tưởng còn đồn trú tại Việt Nam, quân Nhật rải rác tại Bắc. Cụ thể qua ba chỉ
thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương (Ngày 25/11/1945), “Tình
hình và chủ trương” (Ngày 3/3/1946) và “Hòa để tiến” (Ngày 9/3/1956) của Ban Thường vụ Trung ương.
Việc Tưởng lật lọng trong thỏa hiệp với Pháp về việc thay quân, khiến mâu thuẫn
hai bên thêm sâu sắc. Nhân cơ hội này, nhằm có lợi nhất cho Việt Nam, đồng thời giúp
Pháp và Tưởng tránh được xung đột mở rộng, ta đã đề xuất và kịp thời kí bản Hiệp định
Sơ bộ vào chiều 6/3/1946 với Pháp. Nội dung Bản Hiệp định xoay quanh 5 vấn đề, thể
hiện được đúng tinh thần “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Thứ nhất, Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có quân đội, có tài chính,
thành viên của Liên Bang Đông Dương. Trước đó, ta và Pháp mâu thuẫn gay go khi Việt
Nam đòi Pháp công nhận là một quốc gia độc lập. Tuy nhiên Pháp quyết không chấp
nhận, nên ta nhân nhượng đổi thành “quốc gia tự do” nhưng đằng sau tự do là có yếu tố
của quốc gia độc lập: có nghị viện, có chính phủ, có tài chính, có quân đội. Thứ hai, vấn
đề thống nhất Nam bộ bằng trưng cầu dân ý. Ta nhận thấy rất khó để đòi Pháp thừa nhận
sự thống nhất ở miền Nam, nên đã đề xuất thông qua trưng cầu toàn dân, thực chất ta
đưa đề xuất này vì Đảng ta ngầm thừa nhận sự thắng thế khi gần như toàn bộ nhân dân
Việt đều tin tưởng chính phủ cách mạng Hồ Chí Minh. Thứ ba, ta chấp nhận cho 15
nghìn quân Pháp ra Bắc thay quân Tưởng để giải phóng quân đội Nhật ở Đông Dương.
Song, ta cũng nêu rõ rút quân có thời hạn, mỗi năm rút một phần năm số quân, trong
vòng 5 năm phải rút hết. Thứ tư, chấm dứt quân sự ở miền Nam để tạo điều kiện cho
nhân dân đi lại. Thứ năm, đình chỉ xung đột, mở các cuộc thương lượng về quan hệ ngoại
giao của Việt Nam, tương lai Đông Dương và quyền lợi cho Pháp.
Như vậy, hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 có ý nghĩa lớn. Ta đẩy được 20 vạn quân
Tưởng về nước và khiến quân Pháp chập chững tạo điều kiện củng cố lực lượng kháng
chiến, chi viện cho Nam Bộ để cùng chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Hiệp ước này vừa là
cầu nối quan hệ giữa ta và Pháp sau này, vừa khoét sâu vào mâu thuẫn giữa Cao ủy và
Tư lệnh chỉ huy quân viễn chinh Pháp.
1.3. Hội nghị trù bị tại Đà Lạt (19/4-11/5/1946)
Sau ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946, phái đoàn Việt Nam và Pháp đã thực
hiện đàm phán tại Đà Lạt để thống nhất về nội dung và nguyên tắc đàm phán. Cụ thể
xoay quay 5 vấn đề: đình chỉ tạo không khí chính trị thuận lợi, vấn đề ngoại giao Việt
Nam, vấn đề liên hiệp Pháp, vấn đề trưng cầu dân ý thống nhất ba kỳ, vấn đề Nam Bộ.
Lập trường của Pháp muốn thu lại nhiều lợi ích nhất thông qua nhiều đòi hỏi phi lý. Thứ
nhất, Pháp có toàn quyền tại Nam Bộ, tức là coi Nam Bộ đã tách ra khỏi Việt Nam và
thuộc Pháp. Thứ hai, Pháp cho rằng Việt Nam không có quyền ngoại giao, chỉ được có
đại diện ngoại giao với các nước thông qua Liên hiệp Pháp.
Lập trường của đoàn ta rất kiên quyết trong việc không nhân nhượng chủ quyền, độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ. Khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác và bảo đảm quyền lợi của
Pháp về kinh tế, văn hóa. Ta cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam có quyền về ngoại giao độc
lập, cử đại sứ của mình ở nước ngoài. Việt Nam có đại sứ ở Pháp và Cao ủy Pháp là đại
diện ngoại giao của Pháp tại Việt Nam. Kết quả, hội nghị rơi vào bế tắc, thất bại khi
Pháp ngoan cố với những đòi hỏi vô lý của mình. Tuy nhiên đây cũng là một cơ hội cho
ta hiểu rõ hơn về những toan tính, âm mưu của nước lớn để có thể dự đoán, chuẩn bị tốt
hơn cho cuộc đàm phán chính thức tại Paris.
1.4. Hội nghị Fontainebleau và Tạm ước 14/9/1946
Cuộc đàm phán chính thức Việt - Pháp diễn ra ở Fontainebleau từ ngày 6 tháng
Bảy đến 1/8/1946. Phạm Văn Đồng được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam. Đoàn Pháp do
Max André dẫn đầu. Cùng thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Pháp với danh
nghĩa là thượng khách của Chính phủ Pháp. Có mặt tại Paris, Người có điều kiện theo
dõi sát sao và chỉ đạo trực tiếp cuộc đàm phán ngoại giao chính thức đầu tiên của Chính
phủ ta, rất quan trọng đối với việc thực hiện chủ trương hòa hoãn với Pháp, cũng như
tương lai quan hệ Việt - Pháp. Khi vừa đến Paris, trong cuộc họp báo ngày 12/7, Chủ
tịch Hồ Chí Minh trình bày lập trường đàm phán của Việt Nam gồm sáu điểm, với những
điểm chính thể hiện rõ tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” như sau:
- Việt Nam đòi quyền độc lập. Độc lập nhưng không phải là đoạn tuyệt với Pháp, mà ở
trong Liên hiệp Pháp. Về mặt kinh tế và văn hoá, Việt Nam vui lòng cộng tác với Pháp.
- Việt Nam tán thành Liên bang Đông Dương. Nhưng quyết không chịu có một chính phủ Liên bang
- Nam Bộ là một bộ phận nước Việt Nam, không lực lượng nào có thể chia rẽ
- Việt Nam có quyền phái sứ thần đi các nước
Quá trình đàm phán Việt - Pháp diễn ra qua ba giai đoạn bắt đầu từ ngày 6/7 và
kết thúc vào lúc hai bên ký Tạm ước ngày 14/9. Lập trường của phái đoàn Việt Nam
được giữ vững xuyên suốt trong quá trình đàm phán là: “Việt Nam độc lập, thống nhất
trong khối Liên hiệp Pháp; đồng thời vẫn bảo đảm cho Pháp các quyền lợi về kinh tế và
văn hóa ở Việt Nam”. Về vấn đề tiếng Pháp, phía Việt Nam đồng ý rằng trong phương
án Liên bang Đông Dương, tiếng Pháp là tiếng nói thông dụng. Nhưng tại Việt Nam,
tiếng Pháp không thể là thứ tiếng bắt buộc. Các quyền về ngoại giao tiếp tục là một trong
những nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán Việt - Pháp tại Paris. Đoàn Việt
Nam đã khẳng định Việt Nam có quyền cử đại sứ và tổng lãnh sự tại các nước. Quan
điểm của Pháp về vấn đề này vẫn như đã nêu ra tại Hội nghị trù bị tại Đà Lạt: Việt Nam
không có quyền tự chủ về ngoại giao, mà phụ thuộc vào Pháp. Xuyên suốt quá trình đàm
phán, thực dân Pháp luôn thể hiện rõ ý đồ muốn chia cắt Việt Nam, quyết tách Nam Bộ
ra khỏi miền Nam Việt Nam, thể hiện ở việc D’Argenlieu triệu tập Hội nghị Liên bang
Đông Dương gồm đại biểu của Nam Kỳ, Campuchia, Lào, Tây Nguyên và các quan sát
viên miền Nam Trung Kỳ, hay phía Pháp đưa ra dự thảo “Hiệp định tạm thời” về các
vấn đề cục bộ trong đó có các vấn đề chưa được phía Việt Nam đồng ý.
Đứng trước bối cảnh như vậy, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết
giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất dân tộc bằng các hành động như tạm ngừng
cuộc họp hay cự tuyệt các điều khoản ảnh hưởng đến lập trường đã nêu. Chiều ngày
10/9/1946, hai phái đoàn gặp nhau để ký Tạm ước Việt Pháp. Trưởng phái đoàn Việt
Nam yêu cầu Pháp ấn định chắc chắn thời điểm và cách thức thực hiện cuộc trưng cầu
dân ý ở Nam Kỳ trước khi ký Tạm ước, phía Pháp không trả lời nên phái đoàn Việt Nam
rời phòng họp. Như vậy là Hội nghị Fontainebleau chính thức tan vỡ. Ba ngày sau, phái
đoàn Việt Nam lên đường về nước. Để tiếp tục cứu vãn hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chủ động gặp Thủ tướng Pháp Bidault và trực tiếp đàm phán với Bộ trưởng Hải ngoại
Pháp Moutet. Ngày 12/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra dự án nghị định thư gồm 11 điểm
với một số nhân nhượng. Cuối cùng, ngày 14/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng hải
ngoại Pháp M. Moutet (Mutê) ký bản Tạm ước Việt - Pháp gồm 11 điều khoản, dựa trên
dự án ngày 12/9 của Chủ tịch nước Việt Nam.
Bản tạm ước thể hiện sự nhân nhượng của ta về các vấn đề liên quan đến quyền
lợi kinh tế, văn hóa, kiểu dân của Pháp ở Việt Nam chẳng hạn như các kiều dân Pháp
được hưởng các quyền tự do, dân chủ như người bản xứ, như tự do cư trú, tự do tư tưởng,
dạy học, buôn bán, đi lại, được hưởng các chế độ về tài sản, xí nghiệp, thuế khoá và luật
lao động như người Việt Nam. Kiều dân Pháp được tự do nghiên cứu khoa học và mở
viện khoa học ở Việt Nam,... Việt Nam đồng ý thống nhất chế độ tiền tệ với các nước
khác ở Đông Dương: trong khi đợi lập một viện phát hành tiền tệ, sẽ dùng đồng bạc
Đông Dương do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia
đồng minh quan thuế cùng các nước trong Liên bang Đông Dương. Tạm ước không thoả
thuận về các quyền ngoại giao của Việt Nam, nhưng phía Pháp ghi nhận trong Khoản 8
về khả năng "ký kết một bản hiệp định dứt khoát giải quyết vấn đề ngoại giao của nước
Việt Nam với ngoại quốc". Trong khi chờ đợi, Pháp nhận sẽ thảo luận một số quyền lãnh
sự hạn chế, như đặt lãnh sự Việt Nam tại các nước thuộc liên bang và giao thiệp giữa
Việt Nam với các lānh sự ngoại quốc. Nội dung của Tạm ước là sự thỏa thuận tạm thời
về một số vấn đề cấp bách có tính chất bộ phận; còn một hiệp định toàn diện sẽ được
thương lượng trong những cuộc đàm phán đầu năm 1947. Đối với Việt Nam, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhận xét trong lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về, với bản
Tạm ước, “Chính phủ Pháp đã thừa nhận rằng đồng bào Nam Bộ sẽ bỏ thăm để quyết
định số phận của Nam Bộ” và nhận thi hành mấy điều chính sau này trong Nam Bộ:
1. Thả những đồng bào bị bắt về chính trị và vì kháng chiến.
2. Đồng bào Nam Bộ được quyền tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do viết báo, tự do đi lại,...
3. Hai bên đều thôi đánh nhau.
Trong quá trình thương lượng, Việt Nam không thỏa hiệp các vấn đề liên quan
đến nguyên tắc về độc lập và thống nhất quốc gia. Để duy trì hòa hoān, từng bước hoàn
chỉnh nền độc lập vừa mới giành được phù hợp với tương quan lực lượng giữa Việt Nam
và Pháp lúc bấy giờ, sách lược của Việt Nam là sẵn sàng gia nhập Liên hiệp Pháp và
nhân nhượng khá rộng rãi về quyền lợi kinh tế, văn hoá của Pháp ở Việt Nam. Đó là giải
pháp tích cực, tạo ra khả năng tranh thủ xu hướng dân chủ và những người có đầu óc
thực tế ở nước Pháp, chống lại bọn thực dân Pháp chủ chiến. Bản Tạm ước cùng với
Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3, phản ánh quan điểm thực tiễn giành thắng lợi từng bước, tiến
tới giành thắng lợi hoàn toàn, phù hợp với tương quan lực lượng từng thời kỳ giữa cách
mạng Việt Nam và các thế lực ngoại xâm. Việc ký các thỏa thuận này là đỉnh cao của
nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc, của tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.3
2. Giai đoạn 1947-1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp
Kháng chiến chống Pháp chính thức diễn ra sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra lời
phát động toàn quốc kháng chiến vào cuối năm 1946. Sau khi tìm nhiều cách vãn hồi
hòa bình và không thành công, ta chính thức bước vào một giai đoạn mới của dân tộc -
với đầy những thách thức và cơ hội. Nội dung “dĩ bất biến, ứng vạn biến” được thể hiện
qua nhiều cách khác nhau, tùy vào cụ thể từng giai đoạn nhỏ hơn trong thời kỳ này.
2.1. Ngoại giao trong vòng vây kẻ thù: 1947-1949
1947-1949 là giai đoạn ngoại giao Việt Nam bị đặt trong vòng vây của kẻ thù:
phía Tây là Campuchia, Lào do Pháp kiểm soát, phía Bắc là quân Tưởng, ở 2 phía Đông,
Nam là Biển cả. “Bất biến” trong giai đoạn này, đó là phá vòng vây kẻ địch, chấm dứt
sự xâm lược của Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Để làm được điều đó, ta
cần, một mặt, kiềm chế, chống lại sự xâm lược của thế lực thù địch; mặt còn lại, tranh
thủ sự ủng hộ, tạo đồng minh trên trường quốc tế. “Vạn biến” trong giai đoạn này, là sự
đa dạng trong cách thức triển khai đường lối, chủ trương đối ngoại đã đề ra.
Để tố cáo sự phi nghĩa của cuộc chiến Pháp khơi mào, ta không ngừng nêu cao
chính nghĩa và thiện chí hòa bình thông qua nhiều biện pháp. Cụ thể, từ 1946-03/1947,
Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư, công hàm cho chính phủ và nhân dân Pháp (thư mừng
năm mới, thư gửi nhân dịp Bộ trưởng Moutet qua xem tình hình Đông Dương,..) Bên
cạnh việc công khai gửi thư, thông điệp này còn được thể hiện qua những lần Hồ Chí
Minh trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế, hay được tuyên truyền thông qua công tác địch
vận, giáo dục tù binh. Tuy không nhận được phản hồi tích cực từ phía nước Pháp, nhưng
nước ta cũng đã thể hiện rõ quan điểm nhân nhượng có điều kiện: nước ta mong muốn
giải quyết trong hòa bình; nếu không thể giải quyết hòa bình, ta chấp nhận kháng chiến
tới khi có thể toàn thắng.
Khi Pháp đẩy mạnh xây dựng chính quyền bù nhìn, ta tìm cách tranh thủ mâu
thuẫn giữa Mỹ và Pháp, và kiềm chế quân Tưởng ở phía Bắc để tập trung đánh Pháp.
Với mục đích đó, ta linh hoạt trong cách xử lý, khi “tuyên bố thân thiện với Mỹ, dùng
hội Việt-Mỹ để tranh thủ tuyên truyền quốc tế.” 4. Trong tuyên bố công khai, để tránh
3 Nguyễn Đình Bin (Chủ biên). 2005. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.7883.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam. 2000. Văn kiện Đảng toàn tập - tập 8. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.339.
làm tình hình phức tạp hơn, ta không chỉ trích chính quyền quân Tưởng, mà chỉ phê phán
bọn tay sai người Việt của Tưởng.5
Với sự xuất hiện của chủ nghĩa cộng sản, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
đang diễn ra từ khắp các thuộc địa. Để tranh thủ sự ủng hộ từ dư luận quốc tế, cũng như
mở rộng vận động quốc tế, về mặt chủ trương, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa khẳng định
“làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai”. Ngoài ra, trên thực
tế, chúng ta cử đại diện đi liên lạc với một số nước, và tiếp xúc với đại diện nhiều nước,
trong đó có Liên Xô. Không chỉ cố gắng trên phương diện quan hệ ngoại giao nhà nước,
ta còn triển khai ngoại giao nhân dân.6
Chung quy lại, dù công tác ngoại giao có nhiều cố gắng, tuy nhiên, vì nhiều
nguyên nhân, ta chưa nhận được sự công nhận của Liên Xô, hay có được quan hệ ngoại
giao với bất cứ quốc gia nào. Nhưng không thể phủ nhận rằng, nhờ có nền tảng là những
chủ trương và hoạt động đã được thực hiện từ trong giai đoạn này (làm bạn với tất cả
các quốc gia tôn trọng độc lập của ta, thiện chí hòa bình,....), cũng như kết hợp quân sự,
nước ta mới có khả năng phá được vòng vây của kẻ thù trong giai đoạn tiếp theo.
2.2. Ngoại giao ngoài vòng vây kẻ thù: 1950-1953
Tháng 7/1953 tướng Henri Navarre là chỉ huy mới của Pháp đến Đông Dương để
chuẩn bị cho một cuộc tổng phản công mà được báo chí Pháp và Mỹ gọi là “Kế hoạch Navarre”.
Bên cạnh việc chuẩn bị về quân sự, phía ta cũng đã bắt đầu cuộc đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao. Khi trả lời báo Expressen (Thụy Điển) ngày 26/11/1953, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “... nếu Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân
Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng
nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi
đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo
lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý
muốn đó…”. Câu nói của Hồ Chí Minh thể hiện sự kiên định “dĩ bất biến” ở đây là mục
tiêu hoà bình, và “ứng vạn biến” là khi đưa ra cho Pháp hai lựa chọn là thương lượng để
hoà bình hoặc tiếp tục chiến tranh.
Chỉ cần phía Chính phủ Pháp đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược thì cuộc đình
chiến ở Việt Nam sẽ được thực hiện. Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ
Pháp thật sự tôn trọng nền độc lập của nước Việt Nam.
Bác Hồ hiểu ý nghĩa của câu nói: “Không gì mềm như nước, và không gì mạnh hơn
nước”. Phải biết kết hợp giữa “mềm” và “mạnh”, khi nào cần mềm thì mềm, khi nào
cần cứng rắn thì phải cứng rắn. Đó không chỉ là một sách lược mà còn là chiến lược để
đối phó với một kẻ thù mạnh như Pháp, trong khi ta đang ở thế bị bao vây, “tứ bề thọ
địch”, và ngoại trừ lòng yêu nước cùng với ý chí độc lập tự do của toàn dân tộc bùng
cháy như lửa, thì ở thời điểm đó Việt Minh và nước Việt Nam non trẻ còn thiếu thốn rất
5 Đảng Cộng sản Việt Nam. 2000. Văn kiện Đảng toàn tập - tập 8. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.212. 6
Nguyễn Đình Bin (Chủ biên). 2005. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.108.
nhiều thứ. Đó là “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn này.
2.3. Hội nghị Genève 1954
Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, chủ trương của ta vẫn là giải quyết vấn đề Đông
Dương bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở Chính phủ Pháp phải thừa nhận độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Nhưng vì bản chất ngoan cố và hiếu
chiến nên Pháp đã cố tình gây ra chiến tranh xâm lược, buộc nhân dân ta phải đứng lên
giành độc lập. Sau 9 năm chiến đấu, ta đã giành được nhiều thắng lợi lớn về quân sự, về
chính trị, ngoại giao. Ngược lại, phía địch ngày càng trở nên thảm hại, lâm vào thế lúng
túng bị động. Do vậy, chúng buộc phải chọn cách thương lượng hoà bình với ta. Trong
Hội nghị ngoại trưởng của 4 nước lớn là Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp ở Béclin - Thủ đô
nước Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 1/1954) thỏa thuận với nhau là sẽ tập hợp một hội
nghị quốc tế gồm 5 nước, đó là Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc tại Genève để bàn
về Triều Tiên và chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Để thực hiện thoả
thuận trên, ngày 26/4/1954 ngay lúc quân ta kết thúc đợt 2 của cuộc tiến công quân Pháp
ở Điện Biên phủ thì Hội nghị Genève được triệu tập và khai mạc phiên đầu tiên. Mặc
dù còn tồn đọng những yêu cầu mà Việt Nam không được đáp ứng tại phiên họp, điển
hình như vấn đề Lào-Miên. Tuy nhiên bằng sự vận dụng khéo léo “dĩ bất biến ứng vạn
biến”, ta đã bảo vệ được những vấn đề mang tính nguyên tắc trong Hội Nghị Genève.
Xuyên suốt lịch sử, hay ngay cả khi ngồi vào bàn đàm phán, mục tiêu hàng đầu
của ta là thống nhất đất nước, độc lập dân tộc. Ngoài ra còn có những mục tiêu khác như
Pháp phải công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương:
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn viện lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào
công việc nội bộ của mỗi nước.
Trước việc các nước lớn đã tác động đến tiến trình giải quyết cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất, đồng thời do thế lực cách mạng của Việt Nam vẫn còn những
hạn chế nhất định. Vì vậy, Việt Nam đã có những nhân nhượng cần thiết để Hội nghị đạt
được các thoả thuận cuối cùng, tuy nhiên đó là những nhân nhượng có điều kiện, đó là
linh hoạt trong cách thức để đạt được những mục tiêu xa hơn.
Pháp đã đưa ra đề nghị tạm chia vùng tập kết quân sư và lập một chính phủ Liên
hiệp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ý kiến về giới tuyến quân sự và Tổng tuyển
cử đồng thời đưa ra những đề nghị về làn phân ranh. Mục tiêu ban đầu của ta muốn ở vĩ
tuyến 13 vì ta muốn có cố đô Huế, cũng như các vị trí chiến lược như Đà Nẵng hay Tây
Nguyên nhưng Pháp thì đề nghị ở vĩ tuyến 18. Sau nhiều lần mặc cả, đến ngày 19/7 thì
hai bên thoả thuận ranh giới tạm thời sẽ ở độ vĩ tuyến 17, cách Đường 9 khoảng 10 km
và phù hợp với ý kiến của Anh và Mỹ cũng như được Trung Quốc và Liên Xô ủng hộ.
Tuy nhiên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà yêu cầu Pháp phải chấp nhận yêu cầu ghi rõ
ràng bằng văn bản rằng: “Giới tuyến quân sự là tạm thời và không thể được diễn giải
theo bất kỳ cách nào về pháp lý để trở thành đường biên giới chính trị hay lãnh thổ” vì
đó chính là yếu tố “bất biến” không thể thay đổi.
Tuy rằng còn nhiều hạn chế nhưng thắng lợi của Hiệp định Genève là ở chỗ chúng
ta có nửa nước được giải phóng, buộc đối phương phải thừa nhận cái “bất biến” chính
là quyền độc lập cơ bản, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Lần đầu tiên trong lịch sử, các
nước chủ chốt tham dự hội nghị đã cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc
lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Đây chính là cơ sở pháp lý quốc tế để nhân dân ba nước Đông Dương đấu tranh chống
lại mọi hành động xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trong thời gian tiếp theo.
Quan trọng hơn là phần chìm của việc ký kết Hiệp định – nửa đất nước có hòa bình đã
tạo nên tiền đề quan trọng cho chúng ta bước tiếp những bước dài vững chắc trên con
đường dẫn tới mục tiêu cuối cùng, tạo điều kiện cốt yếu để thực hiện chiến lược “đánh
cho Mỹ cút”, tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”.
Hội nghị Genève 1954 cũng chính là một cột mốc quan trọng trong lịch sử ngoại
giao Việt Nam khi lần đầu bước lên vũ đài đàm phán đa phương với sự góp mặt của các
cường quốc, để bàn về các vấn đề liên quan đến quyền cơ bản của chính dân tộc mình.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và quan hệ quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các
nước lớn tham dự hội nghị đều có những mục tiêu và lợi ích riêng, Việt Nam đã giành
được thắng lợi, mang lại những lợi ích to lớn và chính đáng cho đất nước.
Đó là bài học về giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, kiên cường bảo vệ lợi ích quốc
gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược, “dĩ bất biến,
ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh
chính trị cùng với đấu tranh ngoại giao, phát huy nội lực, lấy đó làm cơ sở vững chắc
cho hoạt động ngoại giao.
Chiến thắng của Hiệp định Genève và Hiệp định Paris sau này là bài học về trường
phái ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong Hội nghị Genève, cái “bất biến” đó là Việt Nam
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến Hội nghị Paris
sau này. Còn “vạn biến” tức là dù mục tiêu chưa hoàn thành, kể cả chưa tạm thời giải
phóng được một nửa đất nước, nhưng vẫn có muôn ngàn cách để tiến dần đến mục tiêu,
từng bước, từng bước. Đó là một trong những phương pháp ngoại giao trong trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh.
3. Giai đoạn 1954-1975: Kháng chiến chống đế quốc Mỹ
“Dĩ bất biến” là cần phải xác định đúng đắn và luôn kiên định với mục tiêu xuất phát từ
những lợi ích căn bản của quốc gia, dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mục đích
bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ” 6. Bởi vậy, ngay từ
những ngày đầu xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng cho đến giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ thì nhiệm vụ cốt lõi đặt ra với mặt trận ngoại giao là kết hợp với các
mặt trận khác phục vụ công cuộc đấu tranh cho độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của dân tộc. Nói cách khác, các mục tiêu xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng cũng
chính là những cái “bất biến” mà đấu tranh ngoại giao luôn phấn đấu đạt được.
Xuyên suốt thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, mặt trận ngoại giao
luôn kiên định với mục tiêu đấu tranh yêu cầu Mỹ phải chấm dứt chiến tranh tại Việt
Nam; tôn trọng những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam đồng thời lên án, tố
cáo tội ác chiến tranh của Mỹ; khẳng định và tỏ rõ lập trường chính nghĩa của ta nhằm
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Qua mỗi giai đoạn, nhiệm vụ cụ thể của mặt trận ngoại giao lại được điều chỉnh, biến
đổi linh hoạt dựa trên cơ sở giữ vững những nguyên tắc cốt lõi sao cho phù hợp với sự
biến chuyển của thời thế, đây chính là cái “vạn biến”.
6 Hồ Chí Minh. 2011. Hồ Chí Minh toàn tập - tập 8. Hà Nội: NXB Quốc gia - Sự thật, tr.555.
3.1. Giai đoạn 1954-1968
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 19541960, mặt
trận ngoại giao đã hỗ trợ cho mặt trận đấu tranh chính trị ở miền Nam Việt Nam, tố cáo
những hành động vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Genève của chính quyền Ngô Đình
Diệm, đặc biệt là đấu tranh yêu cầu chính quyền Sài Gòn phải thực hiện tổng tuyển cử
để thống nhất đất nước. Sự khéo léo, linh hoạt, “ứng vạn biến” của ta được thể hiện rõ
ràng qua việc tích cực củng cố và mở rộng mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước trong khối xã hội chủ nghĩa nhằm tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ
của các nước đối với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Bên cạnh đó, ta
cũng tăng cường tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, ủng hộ phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc của các nước Á - Phi, mở rộng mối quan hệ với các nước vừa giành
được độc lập dân tộc nói riêng và tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới
nói chung. Với sự khéo léo, chủ động mặt trận ngoại giao đã góp phần xây dựng, nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng hòa bình, tiến bộ thế giới với công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và
quá trình đấu tranh đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện những điều khoản của
Hiệp định Genève ở miền Nam.
Cuối năm 1960, tại miền Nam đã thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam lãnh đạo nhân dân miền Nam chiến đấu. Từ đây, nhiệm vụ mới được đặt ra cho
mặt trận ngoại giao là phải phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa ngoại giao miền Bắc và
ngoại giao miền Nam. Với sách lược “tuy hai mà một, tuy một mà hai”, trên thực tế ta
có hai mặt trận ngoại giao Nam, Bắc tồn tại độc lập: miền Bắc đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa còn miền Nam Việt Nam chủ trương hòa bình, trung lập nhằm tranh thủ rộng
rãi các lực lượng hòa bình trên thế giới. Nhưng thực chất đây lại là một mặt trận được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam cùng đấu tranh cho mục tiêu cốt lõi
là hòa bình dân tộc, thống nhất đất nước. Ngoại giao hai miền đẩy mạnh việc mở rộng
quan hệ và tăng cường đoàn kết với nhiều nước trên thế giới, lên án những chính sách
của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, nêu cao lập trường chính nghĩa của ta thúc đẩy việc hình
thành mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ. Năm 1965, nhằm
cứu vãn sự thất bại của chiến lược chiến tranh đặc biệt, chính quyền Johnson phát động
một chiến lược mới: Chiến tranh cục bộ. Với chiến lược này,
Mỹ đã đưa quân đội Mỹ và quân các nước đồng minh trực tiếp tham chiến tại miền Nam
và bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động quân sự đánh phá ra miền Bắc Việt Nam. Song song
với việc leo thang chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ bắt đầu sử dụng những thủ đoạn ngoại
giao mang tính chất hòa bình giả hiệu với mong muốn gây sức ép, buộc Việt Nam phải
chấp nhận ngồi vào bàn “đàm phán không điều kiện”. Điều này đặt ra cho mặt trận ngoại
giao một nhiệm vụ mới nhằm chống lại các luận điệu xuyên tạc của Mỹ. Ngoại giao hai
miền đã chủ động tuyên truyền tới bạn bè khu vực và quốc tế nhằm vạch trần luận điệu
giả dối “đàm phán không điều kiện” cũng như hành động xâm lược của Mỹ và khẳng
định tính chính nghĩa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Cũng từ đây, mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ ngày càng phát triển mạnh mẽ và
thậm chí phong trào này còn nhanh chóng lan rộng trong lòng nhân dân nước Mỹ. Sang
năm 1967, những chiến thắng trên mặt trận quân sự đã tạo cơ hội thuận lợi cho ta mở
mặt trận tấn công ngoại giao với mục tiêu buộc Mỹ chấm dứt ném bom, mở ra cục diện
“vừa đánh vừa đàm”.
Kể từ giữa thập niên 50, bối cảnh chính trị và ngoại giao thế giới đã có nhiều biến
chuyển khó lường, trong đó phải kể đến mâu thuẫn trầm trọng giữa hai nước lớn trong
khối chủ nghĩa xã hội là Liên Xô và Trung Quốc. Mâu thuẫn này đã ảnh hưởng không
nhỏ đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, bằng sự vận
dụng khéo léo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, ta đã hoàn thành được các nhiệm
vụ đối ngoại quan trọng đó là cân bằng, giữ gìn mối quan hệ với hai nước; không lựa
chọn ngả hẳn về bên nào; liên tục tạo điều kiện để cả hai nước đều có tiếng nói, vị trí và
vai trò nhất định trong vấn đề Việt Nam thông qua các cuộc gặp gỡ cấp cao, trao đổi
thường xuyên giữa Việt Nam và các bên. Đồng thời, ta cũng thể hiện quan điểm, nguyên
tắc nhất quán, “dĩ bất biến” trong đường lối đối ngoại là kiên quyết giữ vững độc lập tự
chủ:“Giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời phải cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước anh em. Phải độc lập tự chủ mới thắng được, nhưng phải biết đoàn kết với anh em,
đừng để mình bị cô lập” 7. Việt Nam kiên quyết không để Liên Xô, Trung Quốc gây ảnh
hưởng đến đường lối và cách thức tiến hành chiến tranh của ta đồng thời kiên quyết
không để vấn đề Việt Nam bị cuốn vào mâu thuẫn tranh chấp trong quan hệ Xô - Trung.
Nhờ vận dụng mềm dẻo, linh hoạt nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, ta đã đề ra
những chính sách đối ngoại đúng đắn trong quan hệ với hai đồng minh lớn và tranh thủ
được sự viện trợ to lớn của cả Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác
ngay cả những lúc quan hệ rơi vào khó khăn; góp phần không nhỏ vào quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Có thể thấy, dựa trên những nguyên tắc “bất di bất dịch” về lợi ích quốc gia dân
tộc, mặt trận ngoại giao đã thực thi những đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt theo
quá trình biến chuyển phức tạp của cuộc chiến, từ đó tạo nền móng thuận lợi cho quá
trình đấu tranh của ta ở giai đoạn sau này.
3.2. Giai đoạn 1968-1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã buộc chính quyền Mỹ phải
ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris nhằm tìm kiếm một giải pháp ngoại giao để rút
khỏi Việt Nam trong danh dự. Đàm phán Paris về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam đã thể hiện vô cùng rõ nét việc áp dụng tư tưởng “dĩ bất biến ứng
vạn biến” trong đấu tranh của mặt trận ngoại giao.
Bước vào giai đoạn này, nhiệm vụ ngoại giao của hai miền hết sức nặng nề, phức tạp.
Ta đã vận dụng sách lược “vừa đánh vừa đàm”, phối hợp với đấu tranh quân sự để phát
huy thế mạnh trên bàn đàm phán. Ngoài ra, ta cũng vừa đàm phán vừa đẩy mạnh
các hoạt động tuyên truyền, ngoại giao nhân dân, ngoại giao nhà nước nhằm tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Đặc biệt, sách
lược “tuy hai mà một, tuy một mà hai” đã được ta vận dụng linh hoạt, có hiệu quả xuyên
suốt quá trình diễn ra hội nghị. Với sách lược này, vị thế và tính độc lập của Mặt trận mà
sau này là Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã được đề cao; ngoại giao hai miền đã phối
hợp nhịp nhàng, bổ sung cho nhau từ đó giúp phát huy thế chủ động của từng mặt trận,
phục vụ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình đàm phán
7 Đảng Cộng sản Việt Nam. 2002. Văn kiện Đảng toàn tập - tập 35. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, tr.43.
công khai, những sáng kiến, giải pháp hòa bình đều được đề xuất bởi phái đoàn Chính
phủ Cách mạng Lâm thời và nhận được sự ủng hộ của phái đoàn Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Sự phân công vai trò này là hợp lý bởi Chính phủ Cách mạng Lâm thời là
tiếng nói đại diện cho nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam - những người
đang trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược. Như vậy, tại Hội nghị Paris về
vấn đề Việt Nam, hai phái đoàn ta đã kết hợp ăn ý, vừa tồn tại độc lập, vừa thống nhất
cho một mục tiêu chung, góp phần đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Trong quá trình đàm phán, nhân nhượng có giới hạn dựa trên những lợi ích căn
bản của dân tộc đã trở thành một trong những nguyên tắc có tính chất định hướng xuyên
suốt giai đoạn đấu tranh ngoại giao của ta tại Paris. Trước hết, yêu cầu cơ bản của ta kể
từ khi Hội nghị Paris bắt đầu đó là phía Mỹ phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam bao gồm: hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ và đây sẽ là chương đầu tiên mở đầu nội dung của hiệp định. Trong quá trình đi vào
đàm phán thực chất, ban đầu, phía Mỹ đòi hỏi chuyển vấn đề này từ chương I xuống
chương IV. Tuy nhiên, ta khẳng định điều này phải được đặt ở chương đầu tiên bởi nó là
nguyên tắc cốt lõi của nhân dân Việt Nam, không thể thay đổi được. Mỹ lại cho rằng,
đây là một vấn đề “khó khăn”, nếu viết rằng: “Hoa Kỳ tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” thì chẳng khác nào Mỹ tự cho mình như
người phạm tội. Cuối cùng, ta linh hoạt theo công thức: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn
trọng …” nhưng vẫn phải đặt ở chương đầu của hiệp định. Như vậy, với phương pháp
đàm phán kiên định, mềm dẻo, ta vừa bảo đảm được cái “bất biến” của mình vừa cho
Mỹ có cơ hội bảo toàn danh dự.
Thứ hai, trong gần bốn năm đầu đàm phán, ta duy trì lập trường nhất quán đòi hỏi
giải quyết đồng thời cả vấn đề quân sự và vấn đề chính trị. Về quân sự, ta yêu cầu Mỹ
phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh nước ngoài thuộc phe
Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Về chính trị, ta yêu cầu xóa bỏ chính quyền Sài Gòn
và thành lập một chính phủ tán thành hòa bình, trung lập, dân chủ ở miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, Mỹ kiên quyết tách riêng vấn đề quân sự và chính trị, chỉ đồng ý cân nhắc
vấn đề quân sự chứ nhất định không lật đổ chính quyền Sài Gòn. Đến tháng 10 năm
1972, các cuộc đàm phán thực chất vẫn giậm chân tại chỗ do mâu thuẫn giữa hai bên về
lập trường quan điểm. Trước tình hình đó, ta đã đưa ra một quyết định linh hoạt: Không
đòi giải quyết song song hai vấn đề quân sự chính trị mà trước hết là tập trung giải quyết
vấn đề Mỹ rút quân và chấm dứt dính líu quân sự để “đánh cho Mỹ cút” từng bước tiến
lên “đánh cho ngụy nhào”. Sách lược sáng suốt và đúng đắn này đã thúc đẩy đàm phán
tiến lên nhưng đồng thời vẫn giữ vững được nguyên tắc mấu chốt của ta đó là buộc “quân
Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại”.
Tuy có một số nhân nhượng về vấn đề chính trị, nhưng những vấn đề cốt lõi, ta
vẫn kiên quyết đấu tranh. Tháng 10 năm 1972, ta không đòi xóa bỏ chính quyền Sài Gòn
nữa nhưng ta vẫn kiên định yêu cầu Mỹ phải tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam, các vấn đề chính trị nội bộ sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam tự giải quyết. Bởi ta
nhận định: “nếu chấm dứt dính líu quân sự của Mỹ ở miền Nam thì trong đấu đấu tranh
với ngụy sau này, ta có điều kiện để đạt các vấn đề đó và còn giành thắng lợi lớn hơn…”
8. Tháng 11 năm 1972, sau khi Dự thảo Hiệp định tháng 10 không được ký kết, Mỹ và
8 Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ. 2002. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris. Hà Nội: NXB Công an Nhân dân, tr.146.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở lại những cuộc tiếp xúc bí mật, tại đây Mỹ đưa ra yêu
cầu sửa đổi 69 điều trong hiệp định theo yêu cầu của Thiệu, trong đó có yêu cầu xóa bỏ
toàn bộ những chỗ ghi tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời trong hiệp định, nhằm phủ
nhận sự hiện diện của hai chính quyền ở miền Nam Việt Nam. Đối với vấn đề này, ta
không thể đồng ý bởi nó đã vượt quá giới hạn nhân nhượng của ta. Chính vì vậy, với thái
độ kiên quyết, đoàn đàm phán của ta đã thành công bảo vệ vị thế chính đáng của Chính
phủ Cách mạng Lâm thời trong hiệp định.
Trong bối cảnh mâu thuẫn Xô-Trung diễn biến gay gắt, từ cuối năm 1971 Mỹ bắt đầu
triển khai các hoạt động đối ngoại hòa hoãn với Liên Xô, Trung Quốc nhằm gây sức ép,
tạo thế bao vây cô lập cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, ngoại giao Việt Nam đã
thành công áp dụng phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong ứng xử với hai nước
lớn, vừa đoàn kết, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế nhưng vẫn giữ vững được độc lập,
tự chủ trên bàn đàm phán. Trong chiều hướng hòa hoãn với Mỹ, cả Liên Xô và Trung
Quốc đều có những thay đổi nhất định trong thái độ với tình hình chiến sự ở Việt Nam;
đồng thời tạo áp lực, thuyết phục ta nhanh chóng đồng ý với những điều kiện của Mỹ để
có thể đi đến ký kết hiệp định. Đặc biệt, với Thông cáo Thượng Hải 1972, Trung Quốc
đã dùng vấn đề Việt Nam để trao đổi lợi ích với Mỹ. Từ đây, lãnh đạo Trung Quốc liên
tục thúc giục phía ta chấp nhận giải pháp của Mỹ. Ngày 1 tháng 11 năm 1972, phía Trung
Quốc thông báo tới ta: “Việt Nam nên nhân nhượng về hai vấn đề rút quân miền bắc và
miền bắc Việt Nam không nhận viện trợ quân sự để có thể ký kết được hiệp định”9. Bất
chấp sức ép của Liên Xô, Trung Quốc, đoàn đàm phán ta tại Paris kiên quyết không nhân
nhượng những vấn đề mang tính nguyên tắc. Ta khẳng định với phía Mỹ: Đây là vấn đề
giữa Việt Nam và Mỹ, vấn đề của Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam độc lập giải
quyết, không sự can thiệp từ bên ngoài nào có thể xâm phạm đến những nguyên tắc cốt
lõi của ta. Đối với Liên Xô, Trung Quốc, ta ra sức giải thích, thuyết phục cho họ hiểu và
ủng hộ những lập trường, quan điểm của ta. Với những bước đi mềm dẻo, khéo léo
nhưng cứng rắn về nguyên tắc, ta vừa tận dụng được sự ủng hộ của nước bạn vừa giữ
vững được lập trường nhất quán, không xâm phạm đến lợi ích quốc gia của ta.
Trong gần năm năm đàm phán, với việc vận dụng linh hoạt “ứng vạn biến” về
sách lược và kiên định, “dĩ bất biến” về tư tưởng chiến lược, mặt trận ngoại giao đã đạt
được những kết quả tích cực. Dù không cùng lúc hoàn thành được nhiệm vụ “đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, nhưng với những gì đạt được tại hiệp định Paris, ta đã có
điều kiện thuận lợi để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
III. LIÊN HỆ TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY
Tình hình thế giới những năm trở lại đây đang ngày càng có nhiều biến động
phức tạp và khó lường hơn cả. Ta có thể thấy rõ điều đó khi một loạt các nước lớn đã thi
hành các chiến lược nhằm mục đích vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh và đấu tranh
kiềm chế lẫn nhau; tạo ra những thế chân kiềng trên trường quốc tế. Những xung đột
cũng nảy sinh và có những biến hoá bất thường, tiêu biểu là những mâu thuẫn về dân
tộc, sắc tộc, khủng bố, tôn giáo hay các cuộc chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng;
9 NXB Sự Thật. 1979. Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua. Hà Nội: NXB Sự Thật, tr.19.
các hoạt động can thiệp một cách sâu sắc vào lãnh thổ, chủ quyền,... Cùng với đó là
những vấn đề liên quan mật thiết đến an nguy của toàn cầu như an ninh lương thực,
nguồn nước hay thiên tai, biến đổi khí hậu, đặc biệt là các nguy cơ đến từ đại dịch. Đây
cũng là thời điểm mà quan hệ quốc tế có nhiều phát sinh mang tính đặc thù, có thể kể
đến như sự trở lại mạnh mẽ của chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa cường quyền nước lớn hay
chủ nghĩa thực dụng. Chính vì sự tồn tại và phát triển của những vấn đề nêu trên mà tất
cả các quốc gia trên thế giới đều đang phải đối diện với những thách thức không nhỏ;
cùng với đó còn là sự lung lay của luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu.
Nhìn chung, sự xung đột giữa các chính thể hay hàng loạt những vấn đề kể trên
đều bắt nguồn từ việc mỗi quốc gia đều mong muốn giành được những lợi ích tối ưu về
phía mình. Nhưng trong tiến trình ấy, không phải lúc nào lợi ích của từng nước cũng hài
hoà với nhau; mà có lúc, các nước sẽ phải can thiệp vào lợi ích của đối phương nhằm
đạt được kết quả tốt nhất trong khả năng của mình. Điều đó đã làm gia tăng sự bất ổn
trong xã hội, tựa như sự bùng nổ của phong trào “Chiếm phố Wall” tại Mỹ, sự kiện Anh
rời khỏi Liên minh châu Âu EU hay hàng loạt căng thẳng leo thang giữa hai nước Nga
và Ukraine... Những sự kiện ấy trong quan hệ giữa các quốc gia đã khiến cho trường
quốc tế trở thành một điểm nóng với nhiều diễn biến phức tạp nhất.
Khi thế giới đang ở trong một guồng xoay không cố định như vậy, khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương, cụ thể hơn là Đông Nam Á cũng bắt gặp nhiều thách thức lớn.
Đặc biệt là khi tình hình ở Biển Đông đang dần chuyển biến căng thẳng hơn. Có thể nói,
vùng biển này không chỉ có địa chiến lược đặc thù, mà còn có địa kinh tế quan trọng đối
với cả khu vực và trên thế giới. Điều đó biến nơi này trở thành một vị trí có tính cạnh
tranh cao và tiềm tàng nhiều mối nguy hại. Đơn cử là những động thái khẳng định chủ
quyền của Trung Quốc, khi chỉ riêng trong tháng 3/2022, nước này đã tiến hành tới 3
cuộc tập trận tại Biển Đông. Không chỉ vậy, Trung Quốc còn thúc đẩy quân sự hoá đảo
nhân tạo phi pháp để phục vụ chiến thuật vùng xám, tăng kiểm soát mà không cần dùng
vũ lực. Mặc dù sau đó, nước này đã vấp phải sự chỉ trích của dư luận khu vực và quốc
tế; nhưng điều này cũng chưa thể kìm hãm được ham muốn bành trướng của Trung Quốc
ở Biển Đông nói riêng và thế giới nói chung.
Trước những biến động đầy thách thức như thế trên trường quốc tế và khu vực,
Việt Nam đã giữ vững nguyên tắc chiến lược của mình, đó là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Điều này đã được khẳng định rõ ràng trong các văn kiện Đại hội Đảng, ví như trong Đại
hội XIII: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải
kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống
còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả
nghiêng, dao động” 10. Bên cạnh đó, Đảng ta đã nhận thức được cái “vạn biến” như lời
phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại
10 Đảng Cộng sản Việt Nam. 2021. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - tập 1. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.33.
và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh ... Đó là sự mềm mại,
khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất
bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự
do, hạnh phúc của nhân dân.” 11.
Sự quán triệt về mặt tư tưởng ấy cũng trở thành kim chỉ nam trong các chiến
lược và sách lược của nước ta khi đối diện với các động thái phức tạp của tình hình khu vực và thế giới.
Đơn cử là trước sự tồn tại và bành trướng của những trung tâm quyền lực như
Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,... và cấu trúc “nhất siêu, đa cường”; Việt Nam luôn
nhận thức được phải cân nhắc các hành vi của mình để có thể hài hoà được mối quan hệ
giữa mình và các nước lớn. Bên cạnh đó là đảm bảo sự hài hoà ấy phải được xây dựng
dựa trên nguyên tắc “bất biến”, tức là tôn trọng các quyền độc lập, tự chủ và những lợi
ích tối thượng của quốc gia mình. Có thể lấy dẫn chứng rõ ràng hơn bằng phát biểu của
nước ta trước căng thẳng Mỹ - Trung về Đài Loan vào buổi họp báo thường kỳ chiều
ngày 11/8/2022. Tại đây, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã
nhấn mạnh rằng Việt Nam “sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ với Mỹ - Trung vì cả hai đều là
các cường quốc và những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam” 12. Bên cạnh đó,
bà cho biết Việt Nam cũng tôn trọng nguyên tắc “một Trung Quốc”, vì vậy nước ta mong
muốn rằng các bên liên quan “kiềm chế, không làm gia tăng căng thẳng tình hình eo
biển Đài Loan, đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định cũng như thúc đẩy
hợp tác và phát triển của khu vực cũng như toàn thế giới” 13. Câu trả lời của bà Hằng
cũng đã khẳng định được lập trường của Việt Nam trước những căng thẳng trong quan
hệ Mỹ - Trung, thể hiện được tinh thần hợp tác và hữu nghị giữa nước ta và hai cường
quốc lớn mạnh này. Đồng thời, nó cũng không làm bên nào cảm thấy bị hạ bệ nhưng vẫn
tỏ rõ sự quan tâm của chính quyền và nhân dân Việt Nam trước những chuyển biến phức
tạp trong tình hình nêu trên.
Gần đây hơn, là sự kiện Việt Nam tỏ rõ thái độ trong việc kêu gọi chấm dứt xung
đột, khôi phục hoà bình tại Ukraine. Vào ngày 12/10/2022, Đại Hội đồng Liên hợp quốc
đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết kêu gọi các quốc gia trên thế giới không công nhận
việc Nga sáp nhập 4 vùng lãnh thổ ở Ukraine thông qua trưng cầu dân ý. Sau khi nghị
quyết này được xét duyệt, dư luận trên các diễn đàn và mạng xã hội đã cố tình đưa ra
những luận điểm sai trái, xuyên tạc về quan điểm của Việt Nam. Họ cho rằng thái độ của
nước ta là “chung chung”, “thiếu minh bạch”, “tránh đối đầu” và bày tỏ sự thất vọng về
lá phiếu của Việt Nam trước tình hình căng thẳng giữa Nga và Ukraine. Tuy nhiên, đối
với vấn đề xung đột này, Việt Nam đã nhiều lần thể hiện quan điểm chính thức của mình.
Ví như phiên họp khẩn cấp lần thứ 11 về tình hình Ukraine của Đại Hội đồng Liên hợp
quốc, trưởng phái Đoàn thường trực Việt Nam - Đại sứ Đặng Hoàng Giang đã nhấn
mạnh rằng: “Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối
thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính
11 Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. 14/12/2021. “Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội
nghị Đối ngoại toàn quốc”. Báo Điện tử Chính phủ.
12 Duy Linh. 11/8/2022. “Bộ Ngoại giao: Việt Nam thúc đẩy quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc”. Tuổi Trẻ Online.
13 Vũ Anh. 3/8/2022. “Việt Nam kêu gọi các bên kiềm chế tại eo biển Đài Loan”. VnExpress.
đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia ...” 14. Điều này
thể hiện Việt Nam đã hết sức lưu ý và bảo đảm các nguyên tắc “bất biến” là phải kiên
định và nhất quán với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển. Không chỉ là giữ vững chủ quyền và các lợi ích tối thượng của dân tộc mà
còn đảm bảo sự phát triển bền vững của nền hoà bình thế giới. Đây chính là một minh
chứng rõ nét hơn trong việc tuân thủ tinh thần “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Để hình dung một cách trực diện nhất, ta có thể bàn đến thái độ của Việt Nam
trước thông tin Trung Quốc hoàn thành quân sự hoá các cấu trúc chiếm đóng ở Biển
Đông. Sự kiện này có tầm ảnh hưởng lớn khi nó trực tiếp liên quan đến chủ quyền và an
ninh biển của nước ta. Trước tình hình ấy, phó phát ngôn Phạm Thu Hằng cho biết lập
trường của Việt Nam về việc này đã được nêu rõ vào ngày 7/3/2022: “Một lần nữa, Việt
Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng và chấm dứt vi phạm ở vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam, được xác định dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển (UNCLOS) năm 1982, kiềm chế, không có hành động làm phức tạp tình hình, đóng
góp cho việc duy trì hoà bình, an ninh, ổn định ở Biển Đông” 15. Bà tiếp tục nhấn mạnh
rằng việc thúc đẩy quân sự hoá trên một số cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa đã vi
phạm nghiêm trọng đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này; bên cạnh đó,
động thái của Trung Quốc đang đi ngược lại với tinh thần chung của luật pháp quốc tế
cũng như các văn kiện của ASEAN, điều này hoàn toàn không có lợi cho việc duy trì
hoà bình, an ninh và ổn định trong khu vực Biển Đông. Phát ngôn của bà Hằng đã tỏ rõ
Việt Nam đang giữ thái độ hữu nghị và hợp tác trong hòa bình với Trung Quốc, tuy nhiên
sẽ không tiếp tục nhân nhượng hay giữ im lặng trước những động thái vi phạm chủ quyền của nước này.
14 VOV. 2/3/2022. “Toàn văn tuyên bố của Việt Nam tại Đại hội đồng LHQ về tình hình Ukraine”. VOV.
15 Hoàng Phạm. 7/4/2022. “Yêu cầu Trung Quốc chấm dứt vi phạm ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”. VOV. KẾT LUẬN
Tinh thần “Dĩ bất biến ứng vạn biến” đã trở thành tiền đề quan trọng trong quá
trình ngoại giao của dân tộc. Đặc biệt là trong giai đoạn đấu tranh ngoại giao những năm
1945 - 1975, tư tưởng này càng phát huy được công năng của một đường lối đối ngoại
sáng suốt và đúng đắn.
Tìm hiểu về cách ứng dụng tinh thần “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong giai đoạn
ấy, ta nhìn nhận được đây không chỉ là lý thuyết trong tư duy của các nhà ngoại giao dân
tộc, mà còn được thể hiện trực tiếp qua các động thái chính trị như chính sách hòa với
Pháp, Tưởng hay sự ký kết Tạm ước 14/9, để tập trung xây dựng và bảo vệ chính quyền
non trẻ, hay về sau là kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh Ngoại
giao trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính những vận
dụng này đã tạo thành một thế kiềng khá vững vàng trên bàn đàm phán, tạo tiền để để
giành lấy những lợi thế về mặt trận vũ trang; giúp cho tiếng nói của dân tộc trong giai
đoạn này thêm phần quyết đoán.
Từ sự thành công trong cách sử dụng tư tưởng này trong lĩnh vực ngoại giao 1945
- 1975, Đảng và Nhà nước ta cũng đã áp dụng nó trong bối cảnh hiện nay với một sự
điều chỉnh càng tinh tế và khéo léo. Sự biến đổi ấy đã càng khẳng định được vị thế của
Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế trong tiến trình giao lưu, trao đổi và đối ngoại trên mặt trận ngoại giao.