



















Preview text:
  A. LỜI MỞ ĐẦU: 
Gia đình là một môi trường quen thuộc với hầu hết mọi người. Đó là lĩnh vực 
mà ai cũng có thể tham gia với tư cách là người trong cuộc. Mặt khác, đó cũng 
là lĩnh vực kinh tế, phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động. 
Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Đặc biệt trong vài 
năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu được cả 
giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Ở châu Á nói riêng, người ta nói nhiều 
đến gia đình, văn hoá gia đình như một giải pháp để ngăn trở sự xâm lăng của 
văn hoá phương Tây. Và không chỉ có thế, các quốc gia châu Á trong đó có 
Việt Nam đang trải nghiệm trong một cuộc chuyển mình vĩ đại: thực hiện công 
nghiệp hoá - đô thị hoá với quy mô và tốc độ ngày càng gia tăng. Đồng thời 
với quá trình này ở Việt Nam là sự chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường. 
Cố nhiên, những biến chuyển kinh tế - xã hội mãnh mẽ đó không thể tác động 
sâu sắc đến gia đình, một thiết chế lâu đời và bền vững song cũng hết sức 
nhạy cảm với mọi sự biến đổi của xã hội.Xuất phát từ bối cảnh trên đặt ra câu 
hỏi :thực trạng gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới này như thế nào, 
những vấn đề gì đang đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay? 
Với mục đích đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên chúng em chọn đề tài: “Gia 
đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa” cho tiểu luận của 
mình. Với kiến thức đang có cộng với tinh thần tìm tòi học hỏi, chúng em hy 
vọng bài viết sẽ đưa ra được các ý trả lời xác đáng với vấn đề đã đặt ra.    MỤC LỤC  A.Lời mở đầu  B.Nội dung 
 I.Một số quan niệm chung về gia đình và gia đình Việt Nam hiện nay.   1.Khái niệm gia đình. 
 2.Gia đình Việt Nam : Truyền thống hay hiện đại?   
II. Mối quan hệ cá nhân - gia đình trong bối cảnh Việt Nam đi vào công cuộc 
hội nhập ,công nghiệp hóa-hiện đại hóa 1.Quá trình hội nhập và vấn đề gia  đình ở châu Á.     
 2. Sự phát triển của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và 
cuộc sống của gia đình Việt Nam hiện nay. 
 3.Những biến đổi trên đã ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các thành viên 
gia đình Việt Nam hiện nay. 
III.Chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước và định hướng về gia đình 
Việt trên con đường tiến lên mô hình Chủ Nghĩa Xã Hội 1. 
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình. 
2. Trích văn bản quyết định của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệtchiến 
lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010. 
3. Nguyên nhân của những hiện tượng đi xuống trong văn hóa gia đình. 
IV.Định hướng xây dựng gia đình Việt Nam trong hoàn cảnh mới. 
1. Chính sách của Đảng về định hướng xây dựng gia đình tương lai. 
2. Suy nghĩ về việc xây dựng đạo đức gia đình tiến bộ, lành mạnh.  C.Lời Kết  Phụ lục  Tài liệu tham khảo    B/NỘI DUNG: 
 I. Một số quan niệm chung về gia đình và gia đình Việt Nam hiện nay   
 1 Khái niệm gia đình :   
 Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch sử của 
loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người tách khỏi giới động 
vật và tự tổ chức cuộc sống với tư cách là một cộng đồng độc lập, thì cũng là 
lúc con người tự tổ chức cuộc sống theo các mô hình cộng đồng nhỏ - hình 
thức sơ khai của gia đình. Lúc đầu gia đình chỉ bao gồm các thành viên có 
quan hệ trực huyết với nhau, chủ yếu là những người mẹ cùng các con, cháu 
(gia đình mẫu hệ). Sau đó thì được mở rộng bao gồm thêm các thành viên 
khác có thể có cùng huyết thống song cũng có thể không cùng huyết thống. 
 Về quy mô gia đình, lúc đầu số lượng các thành viên gia đình tương đối 
đông có khi lên tới hàng trăm người. Về sau, do yêu cầu thích ứng với cuộc 
sống ngày càng phát triển của xã hội loài người nên số lượng các thành viên     
gia đình giảm dần. Gia đình hiện đại ngày nay, số thành viên có khi chỉ có từ 
1 - 3. Cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, đồng thời 
các quan điểm cơ bản về gia đình dường như cũng chưa có sự thống nhất, 
thậm chí có sự trái ngược nhau. 
 Theo Từ điển tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung 
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn 
nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. Quan niệm 
này chỉ mới dừng lại ở một quan niệm phổ quát nhất về các loại gia đình trong 
lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các hình thức gia đình mới đang phát 
sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay. 
 Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu “một 
nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều 
có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn” (Đại học, Chương 
IX). Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia 
đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan 
tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận 
thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. 
Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của 
mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn 
hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, 
biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông 
bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn 
là một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu 
đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng. 
 Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù 
hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội của chúng ta. Chúng ta cũng coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi 
nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống 
và hình thành nhân cách". Vì thế, Đảng ta đòi hỏi "Các chính sách của nhà 
nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý 
thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người". Với tính cách tế bào xã hội, 
vườn ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho 
tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công nền 
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi gia 
đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền kinh 
tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng 
ta đang tiến hành. Tất nhiên, gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia 
đình hòa thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng, cha con anh em tôn trọng     
lẫn nhau, cùng nhau bàn bạc và quyết định những vấn đề lớn của gia đình. Gia 
đình mới mà chúng ta xây dựng cũng đòi hỏi vợ chồng phải có lòng chung 
thuỷ, làm cha, mẹ phải có đức nhân từ, làm con phải có đức hiếu kính, làm 
anh em phải có sự thương yêu nhường nhịn. Hạt nhân của mỗi gia đình ấy  chính là vợ và chồng. 
 Theo tác giả Levy Strauss: gia đình là một nhóm xã hội học được quy định 
bởi 3 đặc điểm thường thấy:  + Hôn nhân  + Quan hệ hôn nhân 
+ Các ràng buộc và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia dinh. Liên 
Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng cùng 
sống chung và có ngân sách chung. 
 Ở phương Tây, những năm gần đây xuất hiện nhiều dạng gia đình biến thái 
khiến cho định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn: Các tác giả 
Jame W. Vander Zanden - cho biết: “Một cuộc thăm dò mới đây cho thấy 45% 
người Mỹ ngày nay cho rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng chung sống 
với nhau thì được coi là một gia đình đích thực, 33% coi các đôi cùng giới 
tính có nuôi nấng con cái là gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng giới tính 
chung sống với nhau là một gia đình”. Đây có thể coi là một sự mở rộng thái 
quá trong quan niệm về gia đình mà người Việt Nam khó chấp nhận. 
 Đối với người á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, gia đình là 
một giá trị xã hội quan trọng vào bậc nhất. Nếu ở châu Âu gia đình nhiều khi 
đơn giản chỉ được coi là một nhóm xã hội thì ở ta, gia đình được coi là một tế 
bào xã hội có tính sản sinh với đầy đủ các yếu tố cấu thành của nó như vợ - 
chồng - con cái. Bởi thế, để có thể tìm hiểu về gia đình Việt Nam, chúng tôi 
tạm đưa ra một định nghĩa mang tính cổ điển như sau: gia đình là một tập hợp 
những người cùng chung sống với nhau dựa trên quan hệ hôn nhân được chính 
thức thừa nhận bởi pháp luật hay luật tục và huyết thống. Họ có trách nhiệm 
đạo đức đối với nhau, có chung tài sản và cùng có trách nhiệm xã hội hóa thế 
hệ mai sau. Đó là các quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái, anh chị em ruột. 
2. Gia đình Việt Nam : Truyền thống hay hiện đại? 
 Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại gia 
đình chứa nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi thay, ra đời từ nôi văn hóa 
bản địa, được bảo lưu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, gia 
đình Việt Nam truyền thống là sản phẩm của nền văn minh lúa nước và tồn tại     
ở địa bàn nông thôn. Cố nhiên, điều này không có nghĩa là ở các đô thị không 
tồn tại kiểu gia đình truyền thống. Về vấn đề này tác giả Đỗ Thái Đồng có 
viết: "Gia đình truyền thống chắc hẳn là gia đình ở nông thôn, là gia đình ở 
những xã hội nông nghiệp á Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất biến trên 
nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là một định 
chế gắn liền với nền nông nghiệp cổ truyền". 
 Nhân đây, cũng cần phải nói thêm rằng gia đình truyền thống đôi khi được 
hiểu là "gia đình nho giáo". Về căn bản, điều này không sai. Song có lẽ mỗi 
khái niệm đều có một sắc thái riêng nào đó và cho dù phần lớn nội hàm 2 khái 
niệm này trùng nhau nhưng chúng không hoàn toàn là 2 khái niệm đồng nhất. 
Từ đó có thể thấy tính chất nông nghiệp, nông thôn và nho giáo là những đặc 
trưng cơ bản của gia đình truyền thống Việt Nam. Và gia đình nho giáo, theo 
chúng tôi, là một khái niệm rất thích hợp để chỉ kiểu gia đình truyền thống ở  các đô thị Việt Nam. 
 Trong dân gian, gia đình truyền thống được coi là đại gia đình mà các thành 
viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống. Trong gia đình này có 
thể cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên: ông bà - cha mẹ - con cái mà người 
ta quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại đồng đường". Kiểu gia đình này khá phổ biến 
và tập trung nhiều nhất ở nông thôn Bắc Bộ. Nền kinh tế tiểu nông là cơ sở 
phát sinh và tồn tại của nó. Về mặt tâm lý, người Việt Nam luôn có xu hướng 
quần tụ con cái xung quanh mình. Bởi thế, các đại gia đình cùng sống dưới 
một mái nhà hoặc vài nhà kế nhau cũng là hình thức tổ chức gia đình phổ biến 
ở đô thị. Vào những năm 60 trở về trước ở Hà Nội kiểu đại gia này vẫn còn 
thường thấy. Gia đình truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao về 
tình cảm theo huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, 
nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia 
đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già 
và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình 
mà chúng ta cần kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình 
này là ở chỗ trong khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp thì cũng bảo trì luôn 
cả những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi 
tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn 
giữa các thế hệ: giữa ông bà - các cháu, giữa mẹ chồng - nàng dâu... Bên cạnh 
việc duy trì được tinh thần cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng 
hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân. Trong điều kiện của xã hội hiện 
đại "1 ngày bằng 20 năm" loại gia đình này có vẻ thiếu cơ động và chậm thích 
ứng. Điều này giải thích tại sao số lượng gia đình truyền thống kiểu đại gia 
đình giảm đáng kể và không còn là khuôn mẫu của gia đình ngày nay.     
 Ở đây, một câu hỏi được đặt ra: vậy gia đình Việt Nam ngày nay có phải là 
một gia đình hiện đại? Chúng tôi cho rằng điều này không hẳn đúng. Bởi vì 
gia đình hiện đại phải là sản phẩm của một nền công nghiệp phát triển, dân cư 
có lối sống đô thị và đạt đến một trình độ văn minh đô thị khá cao. Trong khi 
đó, Việt Nam vẫn đang là một nước nông nghiệp. Cư dân nông thôn chiếm tỷ 
trọng áp đảo - khoảng 3/4 dân cư cả nước với tất cả các đặc trưng về lối sống, 
tâm lý, sinh hoạt của người tiểu nông. Theo số liệu dự báo của Liên hợp quốc 
(năm 1993) đến năm 2000 tỷ trọng cư dân đô thị nước ta sẽ lên 27,1%, năm 
2010 là 34,8%. Như vậy quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang ở giai đoạn 
khởi đầu. Văn minh nông nghiệp vẫn còn in đậm trong đời sống văn hóa của 
mỗi người dân - kể cả cư dân đô thị bởi đa phần họ vừa thoát thai từ nông 
thôn. Vậy nên gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là "gia đình quá 
độ" trong bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công 
nghiệp hiện đại. Trong quá trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền 
thống và sự hình thành hình thái mới là một tất yếu. Gia đình đơn hay còn gọi 
là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở các đô thị và cả ở nông thôn 
- thay cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo trước đây. 
 Gia đình Việt Nam ngày nay phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có 
một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra. Hầu hết các gia đình trí 
thức, viên chức nhà nước, công nhân công nghiệp, gia đình quân đội, công an 
đều là gia đình hạt nhân. Xu hướng hạt nhân hóa gia đình ở Việt Nam đang có 
chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế của nó. Trước hết gia đình 
hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng 
thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình hạt nhân có sự độc lập về 
quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia đình 
khoảng không gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Cá nhân 
tính được đề cao. Trong xã hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân được coi là 
một yếu tố biểu hiện chất lượng cuộc sống gia đình. Tính độc lập cá nhân 
được gia đình tạo điều kiện nuôi dưỡng, phát triển sẽ tạo ra phong cách sống, 
tính cách, năng lực sáng tạo riêng khiến cho mỗi người đều có bản sắc. Đó 
cũng chính là con người mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng  ta đang cần đến. 
 Cố nhiên, gia đình hạt nhân cũng có những điểm yếu nhất định. Chẳng hạn, 
do mức độ liên kết giảm sút và sự ngăn cách không gian giữa các gia đình nên 
khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế. ảnh hưởng của 
thế hệ tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa truyền 
thống trong gia đình. Dù vậy, gia đình hạt nhân vẫn là loại hình khá phổ biến 
ở nước ta hiện nay và đó cũng là loại gia đình thịnh hành trong các xã hội     
công nghiệp - đô thị phát triển. Có nghĩa - đó cũng là kiểu gia đình của tương  lai. 
 Trong quá trình hội nhập quốc tế, các quốc gia kém hoặc đang phát triển, 
các dân tộc nói chung và các loại hình gia đình nói riêng đang đứng trước 
nguy cơ bị đồng nhất hoá, bị làm suy kiệt những hệ thống giá trị và chuẩn 
mực văn hoá riêng của cộng đồng mình, gia đình mình. Vì những lẽ đó mà 
vấn đề củng cố, phát triển gia đình đã và đang trở thành mối quan tâm chung 
của cộng đồng quốc tế. 
II/ Mối quan hệ cá nhân - gia đình trong bối cảnh Việt Nam đi vào công 
cuộc hội nhập ,công nghiệp hóa-hiện đại hóa 
1. Quá trình hội nhập và vấn đề gia đình ở châu Á:  
 Tại các quốc gia mới giàu có ở châu Á, đời sống gia đình hiện nay đang 
gặp phải những vấn đề đã từng xảy ra trong xã hội phương Tây. Trong các 
cuộc thảo luận về các “giá trị châu Á”, mối quan hệ trong gia đình thường là 
trọng điểm tranh luận. Ông Lý Quang Diệu (cựu Thủ tướng Singapore) là 
người cổ vũ nhiệt thành cho nét đặc thù châu Á đã đưa ra nhận xét: Sự sụp đổ 
các cấu trúc gia đình là nguyên nhân của các vấn đề nan giải trong xã hội 
phương Tây. Ngược lại, sức mạnh kinh tế châu Á bắt nguồn từ những người 
con ngoan ngoãn, biết tôn trọng quyền lực của cha mẹ và cha mẹ cùng nhau 
chung sức đầu tư thì giờ và tiền bạc cho tương lai của con cái. Người ta cho 
rằng, cấu trúc gia đình ở nhiều nước châu Á bền vững hơn các nước châu Âu, 
vì nó có cội rễ vững chắc hơn, trong đó Khổng giáo được coi là nền tảng ý 
thức hệ văn hoá Đông Á có vai trò quan trọng cho sự ổn định của gia đình. 
Tư duy căn bản của Khổng giáo là các chế định nghiêm ngặt trong các mối 
liên hệ giữa vua tôi, chồng vợ, cha con và anh em. Vậy mà, ngày nay tại các 
nước châu Á đang xảy ra tình trạng lặp lại những bước đi đã từng làm khủng 
hoảng đến sự phát triển bền vững của các gia đình phương Tây. 
2. Sự phát triển của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tếvà 
cuộc sống của gia đình Việt Nam hiện nay.     
 Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, Việt Nam đang trong quá trình 
hội nhập quốc tế, ký kết hợp tác làm ăn với nhiều nước trên thế giới, với các 
nước ASEAN, các nước châu Á, EU, Mỹ, … Vì vậy, đang diễn ra nhiều sự     
thay đổi, nhiều tiến bộ trong hoạt động kinh tế của nhân dân ta. Vậy những 
thay đổi này ảnh hưởng đến cuộc sống của các gia đình như thế nào? 
 a/ Có sự giao lưu hợp tác về kinh tế rộng rãi giữa các gia đình ở thành phố 
và nông thôn, kể cả với nước ngoài. Thu thập của các gia đình tăng lên, tiêu 
dùng cũng tăng theo, không chỉ trong ăn uống mà nhiều nhu cầu giải trí, văn 
hóa của những gia đình có điều kiện cũng được thỏa mãn tốt hơn trước. Đối 
với con cái, việc đào tạo nghề nghiệp đa dạng hơn, kể cả du học ở nước ngoài. 
Trong cơ chế thị trường với quy luật cạnh tranh khốc liệt, các gia đình phải 
tìm mọi cơ hội, điều kiện kinh doanh có lợi nhất, tốt nhất để kiếm được lợi 
nhuận tối đa; thậm chí, có một số trường hợp còn bất chấp cả luật pháp nhà 
nước và chà đạp lên đạo đức thông thường. Đồng thời, cạnh tranh cũng làm 
nảy sinh nhiều sáng kiến ở người lao động, nhà kinh doanh để đáp ứng yêu 
cầu sản xuất và thị trường tiêu thụ. Sự thay đổi về công việc, về nghề nghiệp 
của một bộ môn bộ phận lao động diễn ra liên tục, kịp thời tạo điều kiện cho 
họ và gia đình có thể sống và làm việc có hiệu quả nhất. b/ Ảnh hưởng của 
văn hóa thế giới thâm nhập vào Việt Nam cùng với sự gia tăng cường giao lưu 
quốc tế, như tham quan, du lịch. Sách báo…hoặc sự phát triển các phương 
tiện thông tin đại chúng đã quốc gia như truyền hình, mạng Internet… Văn 
hóa Âu Mỹ, văn hóa các nước phát triển, lối sống, nếp sống của họ được du 
nhập bằng nhiều con đường khác nhau và có ảnh hưởng lớn đến nhân dân ta, 
đặc biệt là lớp trẻ. 
Hiện nay, trong xã hội, nguyên tắc tự do dân chủ được đề cao; quyền lợi cá 
nhân, lợi ích cá nhân, tư duy cá nhân được nêu lên hàng đầu. Đồng thời, cũng 
có sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ đặt cái tôi lên trên hết. 
Trong hôn nhân đã nảy sinh khuynh hướng chủ nghĩa thực dụng; không ít 
người lấy nhau, bỏ nhau vì động cơ tiền tài, địa vị, danh vọng. Tỷ lệ ly hôn, 
ly thân của các gia đình ở nước ta có xu hướng tăng lên hàng năm. Đồng thời, 
đã định hình thành quan niện dễ dãi trong quan hệ tình dục nam nữ, gắn với 
sự chung sống tạm bợ, không tính đến chuyện hôn nhân nghiêm túc và lâu 
dài. Đó là những biểu hiện của lối sống bắt chước phương Tây: Nam nữ ăn ở 
với nhau, chán thì chia tay; nếu nữ có thai thì đi nạo, phá thai, hay có con thì  tự nuôi… 
Chủ nghĩa độc thân cũng phát triển trong nam nữ thanh niên nước ta hiện nay. 
Sống độc thân nhưng khi cần vẫn có quan hệ tình dục với nam hay nữ, vì họ 
không coi trọng quan hệ tình dục nam nữ phải gắn với hôn nhân, lập gia đình, 
cũng như hậu quả nếu con cái sinh ra.      3. 
Những biến đổi trên đã ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các 
thànhviên gia đình Việt Nam hiện nay.   
3.1 Gia đình phổ biến là có ít con, thu nhập lại tăng lên nên có điều 
kiệnnuôi con tốt hơn; thậm chí sinh ra chiều chuộng con, nhiều lúc quá 
đáng. Đồng thời, cha mẹ đi làm suốt ngày, phần lớn ở xa nhà, ít có thời 
gian ở gần con, săn sóc, theo dõi việc học tập, vui chơi, kết bạn của 
con. Họ phó mặc cho nhà trường, các đoàn thể cả việc giáo dục văn hóa 
và xây dựng đạo đức, nhân cách của con. Họ cung cấp tiền học, đồ chơi, 
ngày nay lại sắm máy vi tính điện tử cho con chơi ở nhà và nghĩ rằng  đã làm hết nghĩa vụ. 
Như vậy, điển nổi bật hiện nay là quan hệ giữa cha mẹ và con cái khá lỏng lẻo 
ở một số gia đình. Con cái họ trưởng thành chủ yếu từ môi trường xã hội: nhà 
trường, bạn bè, hội hè. Hội hè có khi chỉ là những nhóm thanh thiếu niên tụ 
tập nhau theo một ý thích chung, như đua xe máy, đi hát karaoke, đến vũ 
trường, đánh bạc, hút sách, chè chén, nhậu nhẹt và do vậy, dễ sa vào con đường 
trộm cắp, cướp giật khi thiếu tiền. 
3.2 Thứ hai là thường có sự đứt đoạn trong quan hệ “cha truyền con 
nối”về nghề nghiệp: con cái phần lớn làm nghề khác cha mẹ và tự do 
lựa chọn. Đồng thời, sự truyền đạt kinh nghiệm sống, các kiến thức 
giữa các thế hệ trong gia đình cũng diễn ra theo hai chiều: từ cha mẹ 
đến con cái và ngược lại, từ con cái đến cha mẹ. Ngày nay, không phải 
chỉ có cha mẹ là người hiểu biết nhiều nhất, là người giỏi nhất, là người 
thày dạy duy nhất của các con. Lớp trẻ có điều kiện tiếp xúc với nhiều 
loại thông tin, sách báo nên dễ dàng thu nhận được nhiều kiến thức mới, 
đặc biệt là về kỹ thuật sản xuất hiện đại, các công nghệ thông tin… Bởi 
vậy, nhiều điều cha mẹ cần lắng nghe con, học tập ở con, mà không tự 
coi là điều gì mình cũng biết. Đặc biệt, khi con có ý kiến khác, cho mẹ 
phải lắng nghe con trình bày một cách bình tĩnh, điều gì con nói đúng 
cần tiếp thu, không giấu dốt; điều gì con nói sai phải thuyết phục bằng 
lỹ lẽ, không thể áp đặt một cách vũ đoan, gia trưởng. 
3.3 Hiện nay, trong gia đình, uy quyền độc đoán của người gia 
trưởng,người chủ gia đình đang dần được dẹp bỏ. Những gia đình vẫn 
cần có người làm chủ, cả cha mẹ đều là những người làm chủ gia đình. 
Gia đình có người làm chủ thì trật tự kỷ cương sống mới có nề nếp, 
không thể ai muốn làm gì thì làm. Nếp sống vô trật tự, bừa bãi của các 
thành viên sẽ phá vỡ sự hòa thuận, êm ấm của gia đình.     
Vì vậy, không nên hiểu lầm là đề cao tự do dân chủ trong gia đình đồng nghĩa 
với không có người làm chủ. Trái lại, nhất thiết phải có người lãnh đạo đức 
độ mới huy động được ý chí, sức lực, sự đoàn kết của các thành viên cho mục 
đích chung là xây dựng sự bền vững, ấm no, hạnh phúc của gia đình. 
3.4 Về mối quan hệ bình đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng, giữa cha 
mẹtrong trách nhiệm nuôi dạy con cái. Người mẹ ngày nay phần lớn đi 
làm kiếm tiền nuôi con cái như người cha. Đồng thời, người mẹ thường 
phải làm nhiều việc nội trợ gia đình, chăm sóc con cái, đặc biệt lúc con 
còn nhỏ tuổi. Cách đối xử bình đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng là yêu 
cầu của thời đại, đồng thời là tâm gương hàng ngày diễn ra trước mắt 
con cái. Cần tạo điều kiện để con cái biết ơn, thương yêu, gần gũi cả 
cha và mẹ. Nhiều gia đình, do thái độ không đúng của người cha khiến 
con cái yêu thương mẹ, mà rất sợ cha. Chúng tìm thấy sự che chở ở 
người mẹ, mà không phải ở người cha hay ngược lại. Cũng có những 
gia đình do sự đối xử không bình đẳng giữa các con, đặc biệt giữa con 
trai và con gái, con cả và con út cũng để lại những ấn tượng không tốt 
đối với con cái, sự so đo tị nạnh và ghen ghét giữa anh em với nhau 
ngay trong một gia đình. Đó là lỗi tại cha mẹ. 
3.5 Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ đang phát triển trong quan hệ vợ 
chồng,dẫn đến sự không ổn định và thiếu bền vững của nhiều cuộc hôn 
nhân, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. 
Quyền tự do ly hôn ngày nay được pháp luật thừa nhận và khẳng định rõ ràng. 
Nhiều cuộc ly hôn là chính đáng và cần thiết. Nhưng khi chủ nghĩa cá nhân 
ích kỷ cảu người chồng hay người vợ phát triển ở một số gia đình, lòng tự ái, 
sĩ diện cá nhân tăng nên, không gì kìm hãm nổi đã đã dẫn đến những vụ ly 
hôn vỗi vã. Họ có quan niệm lệch lạc, đòi hỏi hạnh phúc cá nhân phải được 
bảo đảm. Thực ra cái gọi là hạnh phúc riêng tư một mình mình hưởng thụ, 
không có người thứ hai, thứ ba cùng chia sẻ thì liệu có cảm nhận được giá trj 
của hạnh phúc đó không? Trừ khi đó là sự thỏa mãn cá nhân của một thú vui 
vật chất ích kỷ, nhỏ mọn; còn nói đến hạnh phúc, tình yêu, tình cảm liên quan 
đến cuộc sống gia đình thì cần có sự chia sẻ hạnh phúc đó với người khác, là 
chồng, là vợ, là con cái thì mới tận hưởng được cái gọi là hạnh phúc cá nhân. 
Đặc biệt, khi hạnh phúc cá nhân của một người lại được xây dựng trên sự đau 
khổ của người khác, gây thiệt thòi cho người khác, ví như các vụ ly hôn đều 
có liên quan đến số phận con cái. Chúng có một tương lai phát triển mờ mịt, 
không thuận lợi như các trẻ em khác. a/ Khi các cặp vợ chồng đã ly hôn thì 
nảy sinh nhiều quan hệ phức tạp mới giữa cha mẹ và con cái.     
 Gia đình sau ly hôn, con sống với cha thì không có mẹ, nếu sống với mẹ thì 
không có cha. Chúng lớn lên thiếu sự săn sóc của người cha hoặc người mẹ 
và đó là một sự thiếu hụt to lớn. 
Trước tình trạng quá nhiều cặp vợ chồng ly hôn, ở phương Tây người ta đã 
khẳng định (và được pháp luật ủng hộ) rằng, cha mẹ có thể cắt đứt quan hệ vợ 
chồng, nhưng quan hệ giữa cha mẹ và con cái tồn tại cả đời không thể vứt bỏ 
được. Cha mẹ đã chia tay nhau nhưng vẫn phải có trách nhiệm nuôi dạy, săn 
sóc con, vẫn là bố, là mẹ của các con. 
 Ở nước ta, sau những vụ ly hôn, nhiều đôi vợ chồng đã không thực hiện 
điều nói trên. Có người bố chỉ gửi cho con số tiền phụ cấp hàng tháng đã tự 
cho là tốt lắm rồi. Nhiều ông bố khác còn đi biệt tăm không đoái hoài đến con 
cái sau ly hôn. Có người mẹ, sau ly hôn, lại không chấp nhận sự săn sóc của 
người bố đối với con cái mà gây khó khăn, trở ngại. Trong khi đó, quyền của 
trẻ em phải được cả bố lẫn mẹ săn sóc, yêu thương, mặc dù họ đã chia tay 
nhau. Thiết nghĩ rằng cần có sự nhắc nhở, giáo dục các cặp vợ chồng sau ly 
hôn. b/ Các vụ ly hôn tăng, đồng thời các vụ tái hôn cũng nhiều. Trong các 
gia đình tái kết hôn lại nảy sinh nhiều quan hệ phức tạp mới giữa các thành 
viên gia đình, như giữa bố dượng với con riêng của vợ, giữa mẹ ghẻ với con 
riêng của chồng, giữa các con có nguồn gốc cha mẹ khác nhau. Giữa anh em 
không cùng cha, cùng mẹ dễ có sự so đo, tị nạnh. 
 Những quan hệ gia đình rất phức tạp, tế nhị. Những người chủ gia đình nếu 
không biết cách xử lý, không chú ý giáo dục con cái thì luôn xảy ra mâu thuẫn, 
đầu độc cuộc sống chung của gia đình. Đã có những cặp vợ chồng tái kết hôn 
sau lại xin ly hôn để anh và con anh đi một đường, tôi và con tôi đi một nẻo 
khác! c/ Những gia đình đơn thuần gồm 2 thế hệ nhưng con cái chỉ sống 
với mẹ hoặc với bố. Chủ yếu là sống với mẹ, vì người phụ nữ góa thường 
không kết hôn lại, ở vậy nuôi con. Còn nam giới góa vợ lập gia đình lại sớm 
và tỷ lệ cao hơn so với nữ góa chồng. 
 Có những người phụ nữ đi xin con vì không có khả năng lấy chồng, hoặc 
những người lỡ có con sau những cuộc sống chung tạm bợ, người đàn ông khi  có con, bỏ mặc họ… 
 Thiếu cha hay thiếu mẹ đều là một sự thiệt thòi không thể bù đắp đối với 
trẻ em, đặc biệt là trong việc hình thành nhân cách toàn diện của chúng. 
Thiếu cha, trẻ thấy thiếu sự tự tin, mạnh dạn. Thiếu mẹ, trẻ thấy cuộc sống 
khô khan, cô độc và thiếu tình mẫu tử, sự hiền từ, dịu dàng của người mẹ. 
 6. Mối quan hệ của con cái đối với cho mẹ. a/ Tôn trọng quyền tự do 
dân chủ cá nhân là điều luật pháp bảo vệ và đòi hỏi mọi công dân phải chấp 
hành, là một nguyên tắc xây dựng gia đình hiện đại ở nước ta. Nhưng sự đòi     
hỏi về quyền, lợi ích, tự do cá nhân của con cái có trường hợp đã bị đẩy lên 
thành chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, từ sự thiếu hiểu biết, chín chắn của trẻ, từ việc 
chúng nghe theo lời bạn bè thúc đẩy, trong việc học hành, chọn nghề, vui chơi, 
đòi tiền cha mẹ chi tiêu, đòi sắm những thứ đắt tiền…Đặc biệt là sự lêu lổng, 
chơi bời, lười học, đi với bạn xấu, sa vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy, không thể 
có chủ nghĩa tự do tuyệt đối của con cái sống trong gia đình. Cha mẹ cần giải 
thích, giáo dục cho con cái trong việc xử lý đúng mối quan hệ giữa lợi ích cá 
nhân và lợi ích chung của gia đình. Lợi ích, nguyện vọng cá nhân chính đáng, 
không hại cho cái chung, cần được cha mẹ chiếu cố và đáp ứng; Những lợi 
ích, phúc lợi chung lâu dài, hợp lý của gia đình cần được mỗi cá nhân xem 
trọng và quan tâm góp sức. 
 Những người chủ gia đình, cha và mẹ phải “cầm cân nảy mực” trong việc 
điều chỉnh, kết hợp đúng đắn giữa lợi ích cá nhân của mỗi thành viên với lợi 
ích chung của gia đình. Điều quan trọng là cha mẹ phải thống nhất ý kiến với 
nhau trong vấn đề này. Họ cần chú ý giáo dục con cái có ý thức tự giác và 
chấp nhận sự cần thiết phải quan tâm đến lợi ích của gia đình, khi đòi hỏi thỏa 
mãn quyền lợi cá nhân của mình, từ việc nhỏ diễn ra hàng ngày mà không chỉ 
đối với việc lớn, trọng đại. Điều này phải trở thành nếp suy nghĩ thường trực, 
việc làm tự nhiên của mỗi thành viên trong gia đình. b/ Về xu hướng con 
cái muốn tách khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, mặc dù còn đi học, chưa trưởng 
thành. Đây là xu hướng bắt chước các gia đình phương Tây. Con cái 15, 16 
tuổi đã thích cha mẹ cho ở riêng, cha mẹ phải thuê căn hộ riêng cho con sống 
và cung cấp tài chính để chúng ăn học, sinh hoạt. 
 Hiện nay, ở Việt Nam, đã có một số gia đình công chức cao cấp, nhà buôn 
giàu có thuê những căn hộ riêng cho con cái ở, mặc dù chúng còn đang học 
hành, còn sống phụ thuộc vào cha mẹ về tài chính. Và, nhiều bậc cha mẹ đã 
bị “sốc” trước những sự cố, như sự sa sút đạo đức, tư cách của con cái khi 
chúng trở thành những kẻ hư hỏng, chơi bời và phạm tội. 
 Thật ra, việc thanh niên muốn sống độc lập, không sống chung với cha mẹ 
cũng là điều dễ hiểu, vì chúng muốn tự tổ chức cuộc sống cá nhân theo ý mình. 
Nhưng liệu chúng đã đủ bản lĩnh để sống riêng chưa, nhất là khi vẫn tiếp tục 
phụ thuộc cha mẹ về tài chính? 
 Hiện nay, xu hướng kết hôn, lập gia đình muộn khiến một số con cái tuy 
trưởng thành nhưng vẫn sống với cha mẹ, chưa tách được khi chưa xây dựng 
cuộc sống gia đình riêng rẽ, tự chủ. c/ Quá trình xã hội hóa trẻ em, đó là 
quá trình cá thể hóa con người, hình thành nhân cách cá nhân, hình thành cái 
tôi riêng biệt. Ngày nay, một yêu cầu bức xúc đặt ra là phải vun đắp cái tôi 
sáng tạo, độc lập suy nghĩ. Trước sự đòi hỏi tăng lên của quyền tự quyết cá     
nhân, gia đình cần cố gắng thỏa mãn trong điều kiện cho phép, tuy theo lứa 
tuổi. Bởi vì, điều đó ảnh hưởng đến sự hình thành đầu óc suy nghĩ độc lập, 
sáng tạo của con cái cũng như lòng yêu thương, tin cậy của chúng đối với cha  mẹ. 
 Gia đình ngày nay đang đứng trước những đòi hỏi ngày càng cao của con 
cái, do sự phát triển của xã hội thông tin. Thời đại ngày nay, có báo chí của 
trẻ em bên cạnh báo chí của người lớn. Đồng thời, ti vi, máy tính điện tử, các 
phương tiện thông tin đại chúng khác đã cung cấp nhiều thông tin đa dạng cho 
các lứa tuổi. Trẻ em có thể xem các loại thông tin, các câu chuyện trên truyền 
hình như người lớn, dường như có sự hòa lẫn, không còn sự phân biệt giữa 
tuổi trẻ và tuổi trưởng thành. Sự bình đẳng trong các quan hệ xã hội đã ảnh 
hưởng đến sư phân phối bình đẳng về các thông tin. Đó là điều các bậc cha 
mẹ cần lưu ý trong việc giáo dục con cái. 
 Thách thức lớn nhất đối với gia đình Việt Nam trong những năm đầu của 
thế kỷ XXI là cùng với việc tiếp thu những giá trị nhân văn mới trong xu thế 
hội nhập với cộng đồng quốc tế, đồng thời vẫn phải giữ được bản sắc văn hoá 
dân tộc và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, 
tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước. Nhân dân 
Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, cần cù, lao động sáng tạo biết duy trì, 
phát huy giá trị văn hoá dân tộc và tiếp thu các giá trị tiến bộ. Những tài sản 
tinh thần đó luôn tồn tại trong mỗi gia đình, mỗi cộng đồng dân cư và là thế 
mạnh của gia đình trong việc giáo dục thế hệ tương lai nhằm tạo một không 
gian văn hoá lành mạnh, ngăn chặn các tệ nạn nhằm bảo vệ các thành viên 
gia đình trước những biến động của xã hội trong xu thế hội nhập quốc tế. Kết 
hợp truyền thống quý báu đó với những chủ trương, chính sách đúng đắn của 
Đảng và Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng về một tương lai tốt 
đẹp của gia đình Việt Nam. 
III.Chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước và định hướng về gia 
đình Việt trên con đường tiến lên mô hình Chủ nghĩa Xã hội 
1. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình 
Phái nói là từ khi nước ta bước vào thời kì đổi mới,kinh tế thị trường đã đánh 
thức mọi tiềm năng, khơi dậy óc sáng tạo và khả năng tư duy của mọi tầng 
lớp trong xã hội. Chưa khi nào mà người Việt Nam trở nên năng động, dũng     
cảm, dám nghĩ dám làm như bây giờ. Rõ ràng là kinh tế thị trường đã tạo ra 
được sức cạnh tranh mạnh mẽ, khiến cho mỗi người luôn phải vượt lên, từ bỏ 
lối tư duy trì trệ của thời bao cấp để làm giàu cho mình, cho gia đình mình và 
cho toàn xã hội. Kết quả của quá trình phấn đấu không ngơi nghỉ là về phương 
diện vật chất,gia đình Việt Nam ngày nay sung túc hơn, đáp ứng tốt hơn nhu 
cầu ăn, mặc, ở... của các thành viên. Về phương diện tinh thần, sự bình đẳng, 
dân chủ và nhu cầu phát triển toàn diện của mỗi cá nhân được đề cao hơn. 
Nhìn chung, văn minh, tiến bộ là điều mà ai cũng nhận thấy trên quy mô cả 
nước cũng như trong từng gia đình. Tuy nhiên,kinh tế thị trường không chỉ 
mang lại toàn những điều tốt lành. Mãnh lực ma quái của đồng tiền, của lối 
sống thực dụng đã gây ra không ít bi kịch trong các gia đình, nhấn chìm rất 
nhiều số phận trong vòng xoáy nghiệt ngã của nó. Đã có sự xói mòn đáng kể 
những truyền thống quý báu trong nhiều gia đình người Việt như lòng hiếu 
thảo, sự thủy chung, tình tương thân tương ái... Tệ nạn xã hội, đặc biệt là mại 
dâm, ma túy gia tăng, ly thân, ly dị ngày càng phổ biến khiến nhiều người lo 
ngại cho tương lai của gia đình Việt Nam. Sự lo ngại đó là có cơ sở bởi nếu 
không có những can thiệp kịp thời ở tầm vĩ mô của Nhà nước thì gia đình sẽ 
chệch hướng và mất đi những nét tốt đẹp làm nên một phần bản sắc văn hóa 
đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Với vai trò là nền tảng của xã hội, sự suy 
thoái của gia đình cũng gây ra những bất ổn của cộng đồng và có thể làm suy 
vi cả quốc gia dân tộc. “Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong 
vòng 5 năm qua, các tòa án địa phương trong cả nước thụ lý và giải quyết sơ 
thẩm 352.047 vụ việc hôn nhân và gia đình. Trong đó có 186.954 vụ việc về 
hôn nhân và gia đình có hành vi đánh dập, ngược đãi, chiếm 53,1% trong các 
nguyên nhân dẫn đến ly hôn. Riêng năm 2005, có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo 
lực gia đình trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân và gia đình, chiếm 60,3%. 
Theo báo cáo của Ủy ban các vấn đề xã hội của quốc hội, cứ 2-3 ngày có 1 
người bị chết liên quan đến bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình đang diễn ra 
ở nhiều nơi, ở mọi đối tượng và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng” 
2. Trích văn bản quyết định của thủ tướng chính phủ về việc phê 
duyệtchiến lược xây dựng gia đình việt nam giai đoạn 2005 – 2010 
“Điều 1. Phê duyệt Chiến lược xây dựng Gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 
- 2010 với những nội dung chủ yếu sau đây:  1. Quan điểm:  a) 
Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự 
pháttriển bền vững của xã hội, sự thành công của sự nghiệp Công nghiệp 
hoá, Hiện đại hoá đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Xây dựng gia     
đình Việt Nam ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến 
bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực của chiến lược phát triển kinh tế - xã 
hội trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước.  b) 
Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nưước, sự tham gia của 
cáctổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân là yếu tố quyết 
định sự thành công của công tác gia đình.  c) 
Gia đình có trách nhiệm với các thành viên và với xã hội. Nhà nước 
vàxã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình.  d) 
Giáo dục và xây dựng gia đình luôn kế thừa, giữ gìn và phát huy 
nhữnggiá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với xây 
dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển. 
đ) Đầu tưư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững. Nhà nưước 
ưu tiên bảo đảm nguồn lực, đồng thời huy động sự đóng góp của toàn xã 
hội và tranh thủ sự trợ giúp của quốc tế cho công tác gia đình. 
2. Mục tiêu của Chiến lược:  a) Mục tiêu chung: 
Từng bước ổn định, củng cố và xây dựng gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng 
có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc. b) Các mục  tiêu cụ thể: 
- Mục tiêu 1: Củng cố, ổn định gia đình trên cơ sở kế thừa và phát huy các 
giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các 
giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; thực hiện quy mô gia 
đình ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con); thực hiện đầy đủ các 
quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trách 
nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với trẻ em, phụ nữ và người  cao tuổi. 
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010: 
Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa lên 80%. 
Chỉ tiêu 2: Mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con. 
Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị 
kiến thức về hôn nhân và gia đình lên 80%. 
Chỉ tiêu 4: Tăng tỷ lệ người cao tuổi trong gia đình được con, cháu chăm 
sóc, phụng dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình lên 90 
- 100%; trong trường hợp người cao tuổi không còn người chăm sóc, phụng 
dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hoặc có người 
chăm sóc, phụng dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình 
nhưng không đủ khả năng chăm sóc, phụng dưỡng thì được Nhà nước, cộng 
đồng hỗ trợ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật hiện hành.     
Chỉ tiêu 5: Tăng tỷ lệ gia đình thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc 
và giáo dục trẻ em lên 90 - 100%.  - 
Mục tiêu 2: Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của 
giađình và cộng đồng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật hôn nhân 
và gia đình, bình đẳng giới; tăng cường phòng ngừa, ngăn chặn sự xâm 
nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình; tăng cường phòng, chống bạo lực 
trong gia đình; khuyến khích phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp và 
vận động người dân xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và  gia đình. 
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010: 
Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ gia đình được tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận 
thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình trong ổn định và phát triển  xã hội lên 90 - 100%. 
Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tảo hôn của người dân thuộc các dân tộc thiểu số 
đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, bình quân hàng năm từ 10 - 15%. Chỉ 
tiêu 3: Giảm tỷ lệ bạo lực trong gia đình, bình quân hàng năm từ 10 15%. 
Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ gia đình bị các tệ nạn xã hội xâm nhập vào, bình 
quân hàng năm từ 10 - 15%.  - 
Mục tiêu 3: Nâng cao mức sống gia đình trên cơ sở phát triển kinh 
tế giađình, tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các gia 
đình liệt sỹ, gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình của người 
dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng 
xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.   ………………… 
4. Các đề án của Chiến lược: 
a) Đề án tuyên truyền, giáo dục chuyển đổi hành vi giai đoạn 2005 - 2010. 
b) Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình giai đoạn 2005 - 2010. 
c) Đề án nghiên cứu những vấn đề tổng thể về gia đình để đề xuất xâydựng 
mô hình gia đình và giải pháp phát triển gia đình trong giai đoạn Công 
nghiệp hoá, Hiện đại hoá. 
d) Đề án phát triển dịch vụ gia đình và cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010. 
đ) Đề án phòng, chống bạo lực trong gia đình; phòng, chống sự xâm nhập 
của tệ nạn xã hội vào gia đình giai đoạn 2005 - 2010. 
e) Đề án nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình 
giaiđoạn 2005 - 2010.”     
Như vậy chúng ta đã thấy rõ,về tầm vĩ mô Nhà nước và Đảng ta đã sớm đề 
ra các đề án nhằm giải quyết các mặt về chính sách củng như luật pháp đối 
về vấn đề gia đình,luôn đặt lên hàng đầu mối quan tâm về xã hội thông qua 
gia đình với tiêu chí gia đình là tế bào của xã hội.Nhưng tại sao những bất 
cập trong mô hình gia đình mới vẩn xẩy ra một cách phổ biến trong xã hội 
hiện nay,phải chăng xuất hiện những tồn tại mới chưa được khắc phục hay 
chính là những mâu thuẫn đã tồn tại từ trước đến nay vẩn chưa được giải 
quyết.Sau đây chúng ta sẻ đi phân tích về một số các nguyên nhân nổi trội  hiện nay 
3. Nguyên nhân của những hiện tượng đi xuống trong văn hóa gia đình 
Trước hết là những vấn đề liên quan đến luật pháp. Những quy định của luật 
pháp là cơ sở chính hình thành đạo đức gia đình. Nhà nước ta đã ban hành 
Luật hôn nhân - gia đình mới (năm 2000) quy định mối quan hệ đạo đức gia 
đình: trách nhiệm, quyền lợi của cha mẹ đối với con cái và ngược lại, trách 
nhiệm giữa vợ và chồng và cả khung hình phạt đối với những người phạm 
luật. Song, trên thực tế,công việc tuyên truyền, giáo dục hôn nhân và gia đình 
chưa được thực hiện thường xuyên và rộng rãi, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, 
vùng xa...". Vì vậy, có thể nói, hiện tượng "mù pháp luật" đã xảy ra. Người 
phạm pháp (đánh đập vợ, con, ngược đãi cha mẹ già…) lại không hiểu hành 
vi của mình là phạm tội, người bị hại lại cam chịu cho rằng đó là số phận. Tuy 
nhiên, phải thấy rằng, việc tuân thủ pháp luật của một số người chưa nghiêm 
chỉnh. Có người biết quy định của luật là hôn nhân một vợ một chồng nhưng 
vẫn vi phạm. Ở thành phố Hồ Chí Minh có 4418 vụ kiện chồng có vợ hai ở 
Kiên Giang bình quân mỗi năm xảy ra 1498 vụ. 
Nguyên nhân liên quan đến vai trò của giáo dục. Việc xem thường giáo dục 
đạo đức gia đình, phương pháp dạy con không cụ thể, nội dung giáo dục đạo 
đức chung chung... đã không làm cho học sinh hiểu sâu sắc trong nhà trường), 
không giác ngộ được con cái (trong gia đình). Mặt khác, trong điều kiện mở 
cửa, hội nhập hiện nay, việc giao lưu văn hoá dễ đàng trong vá ngoài nước đã 
góp phần đưa vào các sách báo, phim ảnh lành mạnh, bên cạnh đó, không 
thiếu những sách báo, phim ảnh không lành mạnh, khích lệ tự do tình dục, ca 
ngợi chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, bạo lực... Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng 
tới quan niệm đạo đức gia đình, hôn nhân và luyến ái của không ít người. 
Nguyên nhân về kinh tế tác động đến đạo đức gia đình cho thấy, do nền kinh 
tế thị trường ở nước ta đang ở giai đoạn đầu, chưa hoàn thiện, chính sách chưa     
đồng bộ nên đã sinh ra nhận thức không đúng rằng, trong cơ chế này, ai có ý 
thức đạo đức thì bi thua thiệt. Sự mở cửa của nền kinh tế đá làm cho con người 
chịu ảnh hưởng trực tiếp của các trào lưu tư tưởng xã hội như chủ nghĩa thực 
dụng, chủ nghĩa sùng bái tiền - vàng, chủ nghĩa cá nhân, vi kỷ... Chúng thẩm 
thấu vào ứng cách ứng xử cá nhân và do đó , nó làm ho luân lý đạo đức của 
gia đình trở nên xấu đi. 
Quan niệm xã hội thoáng hơn, gia đình gặp nhiều thách thức hơn? 
Cuộc điều tra dân số do Vụ Gia đình của Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em 
trước đây, nay trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, phối hợp với Tổng 
Cục Thống kê, Viện Nghiên cứu gia đình của Australia và Viện Gia đình và 
Giới tiến hành năm 2006 với sự hỗ trợ của UNICEF. Đây là một cuộc điều tra 
quy mô lớn được thực hiện ở 64 tỉnh thành trên cả nước và đã tiến hành phỏng  vấn 9.300 hộ gia đình. 
Điều tra cho thấy quy mô và cơ cấu hộ gia đình Việt Nam hiện nay chưa có 
nhiều thay đổi, bình quân mỗi hộ gia đình có khoảng 4,4 nhân khẩu. Điều tra 
nhóm người độ tuổi 18-60, có 31% số người cho biết “đến tuổi thì kết hôn”, 
tức là hôn nhân vẫn là hiện tượng tất yếu và là giá trị cuộc sống đối với người 
Việt Nam trưởng thành. Hôn nhân được kỳ vọng là nơi nâng đỡ đời sống vật 
chất và tinh thần của các cá nhân. 
Tỷ lệ hơn 95 % số người được hỏi cho biết họ kết hôn lần đầu. Và đa số người 
dân đều có ý thức đăng ký kết hôn. 
Về quan niệm quan hệ tình dục trước hôn nhân, đại bộ phận người được hỏi 
trả lời không chấp nhận chung sống với nhau mà không kết hôn. Họ coi đây 
là lối sống buông thả, đi ngược lại với giá trị văn hóa truyền thống. Chỉ có 
một tỷ lệ rất nhỏ (dưới 4%) chấp nhận quan hệ tình dục trước hôn nhân. Tuy 
vậy do kinh tế, xã hội phát triển quá nhanh nên gia đình Việt Nam cũng có 
nhiều thay đổi. Hiện nay, về cơ bản chủ hộ các gia đình hiện đại ở Việt Nam 
là người vợ, người chồng hay cả hai. Quyền quyết định công việc gia đình 
không phải do người chồng “độc tôn” như trước mà tùy thuộc vào loại công 
việc. Ở thành thị có xu hướng vợ và chồng cùng quyết định. Điều đó cho thấy 
mức độ bình đẳng giới trong mỗi gia đình ngày càng tăng. Việc sinh đẻ nhiều 
con, và sinh con trai không còn quan trọng như trước. “Các chuyên gia cảnh 
báo tỷ lệ ly hôn của Việt Nam thấp nhưng ngày càng tăng theo năm. Đặc biệt 
bạo lực gia đình cũng đang tăng dần. Một vấn đề xã hội khác cũng được đặt 
ra là do mải làm ăn kinh tế, nhiều bậc cha mẹ ngày càng xao lãng chăm sóc 
con cái. Tình trạng vị thành niên và thanh niên có xu hướng quan hệ tình dục 
trước hôn nhân ngày càng gia tăng. Mà nguyên nhân chủ yếu là do: những 
đối tượng này thiếu sự quan tâm của gia đình, thiếu hụt trong giáo dục sức     
khỏe sinh sản, và có nhiều điều kiện để tiếp xúc với văn hóa phẩm không lành  mạnh” 
Trong xu thế hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ những định 
hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát triển bền vững bằng các chủ trương, 
chính sách. Nghị quyết Đại hội Đảng CSVN lần thứ X nêu rõ:"... Xây dựng 
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, 
là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi 
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền 
thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ  quốc..." 
IV.Định hướng xây dựng gia đình Việt Nam trong hoàn cảnh mới 
1. Chính sách của Đảng về định hướng xây dựng gia đình tương lai 
Trước tình hình xã hội xuất hiện ngày càng nhiều vết rạn trong nền kinh tế thị 
trường, ngày 21-2-2005 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộngsản Việt Nam 
đã ra chỉ thị số 49-CT/TW, nhấn mạnh: 
 “Trong thời gian tới, nếu chúng ta không quan tâm củng cố, ổn định và xây 
dựng gia đình, những khó khăn và thách thức sẽ tiếp tục làm suy yếu gia đình, 
suy yếu động lực của sự nghiệp công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Đề 
cao giá trị văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa là mục tiêu vừa có 
tính chiến lược, vừa có tính cấp bách trong sự nghiệp xây dựng con người mới 
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc và 
phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xã hội. Do đó, công tác xây dựng 
văn hóa gia đình và phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong giai đoạn 
mới cần tập trung vào một số nội dung sau: 
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào xây dựng gia 
đình văn hóa, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp ủy, chính 
quyền, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến cơ sở nhận thức sâu sắc về vị 
trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa gia đình và công tác xây dựng gia 
đình văn hóa; coi đây là một trong những động lực quan trọng quyết định 
thành công sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung công tác xây dựng 
văn hóa gia đình và gia đình văn hóa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã     
hội và chương trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ, ngành, địa  phương. 
Thứ hai, tiếp tục giáo dục, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền 
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến 
của gia đình trong xã hội phát triển, từ đó đề cao trách nhiệm của mỗi gia 
đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong 
gia đình. Giáo dục văn hóa gia đình là xây dựng con người Việt Nam với 
những phẩm chất cao quý theo nội dung Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) 
về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc 
văn hóa dân tộc", có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc 
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi 
nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới... có lối sống lành mạnh, 
nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương  phép nước. 
Thứ ba, chú trọng các biện pháp nhằm duy trì và nâng cao chất lượng phong 
trào xây dựng gia đình văn hóa và nội dung các tiêu chí công nhận danh hiệu 
gia đình văn hóa, tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực 
chất phong trào và chất lượng gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia 
đình văn hóa phải phù hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sống của nhân 
dân, công tác bình xét danh hiệu gia đình văn hóa phải được tiến hành theo 
tiêu chí thống nhất, trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, đáp ứng được nguyện 
vọng, tâm tư, tình cảm, tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân. Tiếp 
tục nghiên cứu xây dựng các mô hình gia đình văn hóa trong thời kỳ công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa với những giá trị mới tiên tiến cần tiếp thu và dự 
báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới, đề xuất hướng giải quyết 
những thách thức trong lĩnh vực gia đình. Đây cũng là một trong những yếu 
tố quan trọng quyết định sự thành công của phong trào xây dựng gia đình văn  hóa. 
Thứ tư, phải có sự đầu tư về kinh phí, nguồn lực cho phong trào xây dựng gia 
đình văn hóa kết hợp với phương châm xã hội hóa, tạo nền tảng cho sự phát 
triển chung của toàn xã hội. Thường xuyên tổng kết, sơ kết phong trào xây 
dựng gia đình văn hóa, đánh giá kết quả phấn đấu xây dựng gia đình văn hóa 
từng giai đoạn kết hợp với các phong trào khác để đạt được hiệu quả thiết 
thực, đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc tổ chức thành 
công Hội nghị biểu dương gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc các cấp và Hội 
nghị toàn quốc (tổ chức tại Hà Nội vào quý III năm 2007) nhằm tôn vinh, 
nhân rộng điển hình các gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc để nêu gương