Tiểu luận hội nhập kinh tế| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

1. Đặt vấn đề về đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan. Đây
là một bước đi tất yếu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, Đại hội
X của Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển”. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã
và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chặng đường gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến
nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành công đạt
được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước vào giai đoạn
hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Hội nhập quốc tế
là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa
con người với nhau. Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng
nhanh hơn, mạnh hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị
trường và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu.
Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra
thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu,
thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến,
những kinh nghiệm quý bầu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn để bao giờ cũng có hai
mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ
thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Em xin chọn đề tài:
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”. Do thời gian nghiên cứu và khả năng bản
thân có hạn bài tiểu luận mới chỉ để cập một số vấn đề cơ bản về quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và đề xuất một số quan điểm, giải pháp cá nhân
để phát triển nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế Quốc tế
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa
kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng
không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự
phát triển kinh tế mỗi nước.
Hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình áp
dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng đồng quốc tế,
phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình
phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
giải quyết những vấn đề chủ yếu:
Đàm phán cắt giảm thuế quan;
Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu.
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Hợp tác kinh tế song phương
Hợp tác kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp
định kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả
thuận thương mại tự do (FTAs) song phương…Loại hình hội nhập này thường hình
thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là cột mốc quan trọng đánh dấu
sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đại hội được ví là “Đại hội
của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Tính đến hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước có 30 đối tác
chiến lược, 13 đối tác toàn diện, ký kết 15 FTA ở cấp độ song phương và khu vực
(trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực), và đang
đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA);
và 1 FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN là Hiệp định Đối
tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
1.2.2. Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và phát
triển cho đến ngày nay. Hội nhập kinh tế khu vực phân thành các cấp độ từ thấp
đến cao: Khu vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị trường
chung (CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau;
Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực;
Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình;
Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong đó, nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và
định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc.
1.3.2. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
– Đó là sự liên hệ, phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế
quốc gia và nền kinh tế thế giới.
– Là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư
giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh nhưng
đồng thời cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn.
– Vừa tạo điều kiện thuận lợi vừa yêu cầu và gây sức ép đối với các quốc gia trong
công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế.
– Tạo điều kiện cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ
sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
– Tạo điều kiện cho sự di chuyển hàng hóa, công nghệ, sức lao động, kinh nghiệm
quản lý giữa các quốc gia.
1.3.3. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế
– Là một hình thức phát triển tất yếu và cao nhất của phân công lao động quốc tế;
– Là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia thành viên trên cơ sở những điều
khoản đã thỏa thuận trong hiệp định;
– Là sự phối hợp mang tính chất quốc gia giữa các nhà nước độc lập có chủ quyền;
– Là giải pháp trung hòa cho hai xu hướng tự do hóa thương mại và bảo hộ thương
mại;
– Là bước quá độ để thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa góp
phần giảm bớt những cuộc xung đột cục bộ, giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu
vực và trên thế giới.
1.3.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hóa, tự dó hóa thương mại và đầu
tư.
– Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như
Quota, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm
dần theo lịch trình thỏa thuận.
– Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương
thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh,
hiện diện.
– Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ
nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tê, khuyên
khích tự do hóa đầu tư…
1.4. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Mục tiêu:
Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội,
nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đả m phát triển nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín
và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo:
– Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia – dân
tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng
tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối
quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng.
– Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế
quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là
lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt
Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.
– Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi
mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề
nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết trong
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực, vấn đề
liên quan đến ổn định chính trị – xã hội.
– Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị – xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp
với yêu cầu của tình hình mới.
Chương 2: Thực trạng quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập
quốc tế
Đại hội VI (1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Cũng chính từ Đại hội VI, bước đầu nhận thức về hội nhập quốc tế của Đảng ta
được hình thành. Đảng cho rằng, “muốn kết hợp sức mạnh với dân tộc với sức
mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế” và “một
đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang diễn ra
mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh
quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất”.
Tiếp đến Đại hội VII, tư duy về hội nhập quốc tế tiếp tục được Đảng ta khẳng định,
đó là, “cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay
đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và
xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại
phù hợp”.
Tại Đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ “Hội nhập” chính thức được
đề cập trong Văn kiện của Đảng, đó là: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới”.
Tiếp theo đến Đại hội IX, tư duy về hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn mạnh hơn
“Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Để cụ thể hóa tinh thần này, ngày 27/11/2001 Bộ Chính trị khóa IX đã
ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đến Đại hội X, tinh thần hội nhập từ “Chủ động” được Đảng ta phát triển và nâng
lên một bước cao hơn, đó là “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tư duy nhận thức của Đảng về hội nhập
đã có một bước phát triển toàn diện hơn, đó là từ “Hội nhập kinh tế quốc tế” trong
các kỳ Đại hội trước chuyển thành “Hội nhập quốc tế”. Đảng ta đã khẳng định,
“Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Khẳng định và làm sâu sắc hơn tinh thần
này, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW
“Về hội nhập quốc tế”.
Như vậy, bằng việc ban hành Nghị quyết số 22 “Về hội nhập quốc tế” cho thấy
nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế đã có một quá trình phát triển ngày một
sâu sắc, toàn diện hơn. Toàn bộ nội dung của Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập
quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế
phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời sống kinh
tế
Tích cực Tiêu cực
Thúc đẩy xuất khẩu;
Thu hút đầu tư nước ngoài;
Tăng trưởng kinh tế, việc làm;
• Phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội;
Thay đổi hệ thống pháp lý một cách rõ
ràng, minh bạch hơn;
Tái cấu trúc nền kinh tế;
• Hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực,
thế giới;
• Nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, thúc đẩy quan hệ với các
đối tác chủ chốt;
Tăng thu nhập bình quân đầu người.
• Nhập khẩu tăng mạnh;
• Chịu sức ép cạnh tranh lớn từ doanh
nghiệp nước ngoài, dẫn đến nhiều ngành
trong nước bị ảnh hưởng do tác động của
việc mở cửa thị trường (sắt thép, dầu thực
vật, các mặt hàng nông sản, các ngành
dịch vụ…
• Không gian điều chỉnh chính sách bị
thu hẹp;
• Thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị
giảm;
• Nông dân bị tổn thương từ những cam
kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực nông
nghiệp;
• Tăng khoảng cách giàu nghèo;
• Ô nhiễm môi trường.
2.3. Những thách thức Việt Nam gặp phải khi tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế
2.3.1. Sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ một nước đang phát triển có
trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính
sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn
trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế ở 3 cấp độ: sản phẩm,
doanh nghiệp và quốc gia.
– Sản phẩm: cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn cả trong và ngoài nước với nhiều
đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn.
– Doanh nghiệp: đối mặt với nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh
nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng.
– Quốc gia: Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn
Kinh tế Thế giới (WEF), GCI 4.0 năm 2019 xếp hạng Việt Nam ở vị trí 67/141
quốc gia trên thế giới, và đứng ở vị trí 7/9 quốc gia ASEAN (Việt Nam vẫn chỉ
đứng trên Lào và Campuchia). Sự thăng hạng này cho thấy năng lực cạnh tranh
toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã được đánh giá là cải thiện vượt trội so với những lần
đánh giá trước đó.
2.3.2. Sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng
miền của đất nước khi Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá
đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng
trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu
cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên
mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng
lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã
hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự
chưa phù hợp của nhiều chính sách… Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có
thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng
trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.
2.3.3. Sự ràng buộc về các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư
khi hội nhập quốc tế
Trong quá trình hội nhập quốc tế, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc
kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư… chủ yếu do các nước phát triển áp
đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của
các nước phát triển hàng đầu.
Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài
chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần
còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO… Tự do hoá thương mại và tự do
hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát
điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên
phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước
ta.
2.3.4. Đội ngũ cán bộ quản lý còn non kém khi tham gia Hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam
Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta
còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố
nước ngoài. Mặt khác, rào cản ngôn ngữ cũng là một thách thức lớn trong quá trình
hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về thị trường thế giới và
luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ hạn chế, nên
không nắm bắt được cơ hội mở cửa thị trường nước ngoài để đẩy mạnh phát triển,
không tăng được thị phần trong thương mại quốc tế. Nếu không có sự chuẩn bị phù
hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
2.3.5. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, bình ổn chính trị và chủ quyền quốc gia
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các
giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các
giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc.
Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong
kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy
cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.
Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp
hơn. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối
ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập
quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên.
Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế
giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước.
Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện
trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước… Đã
xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ
quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm
phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia… Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng
không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” của các thế lực
chống đối trên nhiều lĩnh vực.
Hiện nay, để đất nước phát triển, tất yếu cần tăng cường hội nhập quốc tế. Thế
nhưng, bất cứ một nguồn vốn viện trợ nào, dù ODA hay FDI, cũng sẽ kèm theo
những điều kiện. Giữ vững chủ quyền quốc gia chính là việc biết chấp nhận những
điều kiện đó, song cũng phải biết cách hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của
chúng.
2.4. Thành tựu và hạn chế trong thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam
2.4.1. Thành tựu
– Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ADB, IMF, WB, tham gia các tổ chức kinh tế,
thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương
(ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO…). Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán
gia nhập Tổ chức này;
– Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
189 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương
mại song phương và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các
nước và các tổ chức quốc tế…
– Trong 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, quy mô nhỏ bé, đến nay GDP của Việt Nam đạt 262 tỷ USD, tăng hơn 18 lần,
đứng thứ 44 trên thế giới. Trong bảng xếp hạng chỉ số quyền lực châu Á (Asia
Power Index) năm 2020 do Viện Lowy – viện nghiên cứu chính sách đối ngoại
hàng đầu của Ô-xtrây-li-a công bố vào ngày 19-10-2020, Việt Nam vượt Niu Di-
lân, xếp thứ 12 về sức mạnh tổng hợp trong số 26 quốc gia, vùng lãnh thổ được
đánh giá;
– Về xuất nhập khẩu: Hoạt động xuất nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ. Phát triển xuất
khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là
đối với khu vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng có tác dụng tích cực trong
việc nâng cao trình độ của người lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
– Thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã
tiếp thu được khoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh
vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư và viện
trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin,
Giao thông vận tải… đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở quan trọng, đáp
ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho hội nhập ở tất cả các lĩnh vực khác;
– Việc hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã kích thích sự thay đổi tích cực
hơn của cơ cấu xuất khẩu, chuyển dần từ sản phẩm thô sang công nghiệp chế biến
và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị tăng cao hơn, thúc đẩy tái cơ cấu
kinh tế theo hướng phát triển bền vững, tạo điều kiện cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý…, thay đổi tư duy sản xuất, làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh;
– Về thu hút FDI, ODA và kiều hồi: Việt Nam không chỉ là nước nhận FDI, mà còn
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc đẩy
tăng GDP, tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
2.4.2 . Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu
trên, quá trình hội nhập của Việt Nam còn những hạn chế cần khắc phục trong thời
gian tới như sau:
– Chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có giai đoạn, có khâu còn chưa
được triển khai đồng bộ, đầy đủ;
– Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế còn mang tính bị động, bị lôi
cuốn theo tình thế và yêu cầu chính trị, chưa có nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế nước ta chưa cao;
– Chưa có chiến lược rõ ràng, chủ động khi tham gia các Hiệp định FTA, chưa
chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước và chưa có được nỗ lực chung của
toàn xã hội để tận dụng tối đa các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đem
lại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả và
phát triển bền vững;
– Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa tương
xứng với tiềm năng của đất nước. Các hạn chế này đã tác động bất ợi tới phát triển
kinh tế-xã hội trong thời gian qua và có thể gây tác động bất lợi lâu dài tới nền
kinh tế.
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam
3.1. Các định hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
– Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết 08, xây dựng kế hoạch thực hiện tiếp;
– Thường xuyên cải thiện moi trường đầu tư kinh doanh trong nước;
– Xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các liên kết kinh tế, các FTA mới,
các cơ chế hợp tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng;
– Xây dựng và triển khai chiến lược, chính sách tự vệ, bảo vệ quyền lợi chính đáng
của nhà nước và cá nhân.
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tới ngày một sâu rộng
hơn, không chỉ có những thời cơ, thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều thách
thức, khó khăn. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào thực chất,
hiệu quả hơn cần:
– Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xuất phát từ yêu cầu bên trong của đất
nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế và các doanh
nghiệp. Cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức và hành động, nhất là cần
xây dựng các căn cứ khoa học và thực tiễn để phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế;
– Cần đảm bảo tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu kinh tế, chính trị ngoại giao và
mục tiêu chiến lược tổng thể trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế;
– Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ cam kết cao hơn cam kết gia
nhập WTO cả về phạm vi và mức độ. Cần chủ động xem xét xây dựng, điều chỉnh
khuôn khổ pháp lý trong nước để vừa phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước, vừa
hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem
lại;
– Cần chú trọng tăng cường chất lượng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập cũng như
nâng cao năng lực nghiên cứu và năng lực triển khai bao gồm cả quản trị;
– Hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn với đổi mới kinh tế – xã hội trong nước
để nâng cao hiệu quả và tăng cường thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển
chung của đất nước, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng;
– Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập
trong các lĩnh vực khác, nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là nội
dung chính và quan trọng nhất của Hội nhập quốc tế;
– Kết hợp chặt chẽ giữa Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự
chủ, chủ quyền và an ninh quốc phòng; giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái…;
Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ;
Kết luận đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách
thức đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Đặc biệt
trong hoàn cảnh dịch bệnh COVID 19 diễn biến hết sức phức tạp cả thế giới đang
gồng mình đối phó. Nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Vậy nên cơ hội và thách thức chỉ trở thành hiện thực
trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết
định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành
quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc.
Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu
hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và
phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Contents
1. Đặt vấn đề về đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam..........................1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế Quốc tế...........................1
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế................................................................1
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế...........................................................2
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế...........................................................3
1.4. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...................4
Chương 2: Thực trạng quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam........6
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập
quốc tế...................................................................................................................6
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời sống kinh tế 7
2.3. Những thách thức Việt Nam gặp phải khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế7
2.4. Thành tựu và hạn chế trong thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam.........10
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.........................................................................................................................12
3.1. Các định hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam..............................12
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.....................................................................................................................12
Kết luận đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.....................................13
| 1/14

Preview text:

1. Đặt vấn đề về đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan. Đây
là một bước đi tất yếu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, Đại hội
X của Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển”. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã
và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chặng đường gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến
nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành công đạt
được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước vào giai đoạn
hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Hội nhập quốc tế
là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa
con người với nhau. Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng
nhanh hơn, mạnh hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị
trường và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu.
Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra
thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu,
thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến,
những kinh nghiệm quý bầu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn để bao giờ cũng có hai
mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ
thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Em xin chọn đề tài:
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”. Do thời gian nghiên cứu và khả năng bản
thân có hạn bài tiểu luận mới chỉ để cập một số vấn đề cơ bản về quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và đề xuất một số quan điểm, giải pháp cá nhân
để phát triển nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế Quốc tế
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa
kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng
không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự
phát triển kinh tế mỗi nước.
Hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình áp
dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng đồng quốc tế,
phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình
phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
giải quyết những vấn đề chủ yếu:
Đàm phán cắt giảm thuế quan;
Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu.
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Hợp tác kinh tế song phương
Hợp tác kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp
định kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả
thuận thương mại tự do (FTAs) song phương…Loại hình hội nhập này thường hình
thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là cột mốc quan trọng đánh dấu
sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đại hội được ví là “Đại hội
của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Tính đến hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước có 30 đối tác
chiến lược, 13 đối tác toàn diện, ký kết 15 FTA ở cấp độ song phương và khu vực
(trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực), và đang
đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA);
và 1 FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN là Hiệp định Đối
tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
1.2.2. Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và phát
triển cho đến ngày nay. Hội nhập kinh tế khu vực phân thành các cấp độ từ thấp
đến cao: Khu vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị trường
chung (CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau;
Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực;
Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình;
Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong đó, nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và
định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
1.3.2. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
– Đó là sự liên hệ, phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế
quốc gia và nền kinh tế thế giới.
– Là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư
giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh nhưng
đồng thời cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn.
– Vừa tạo điều kiện thuận lợi vừa yêu cầu và gây sức ép đối với các quốc gia trong
công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế.
– Tạo điều kiện cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ
sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
– Tạo điều kiện cho sự di chuyển hàng hóa, công nghệ, sức lao động, kinh nghiệm
quản lý giữa các quốc gia.
1.3.3. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế
– Là một hình thức phát triển tất yếu và cao nhất của phân công lao động quốc tế;
– Là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia thành viên trên cơ sở những điều
khoản đã thỏa thuận trong hiệp định;
– Là sự phối hợp mang tính chất quốc gia giữa các nhà nước độc lập có chủ quyền;
– Là giải pháp trung hòa cho hai xu hướng tự do hóa thương mại và bảo hộ thương mại;
– Là bước quá độ để thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa góp
phần giảm bớt những cuộc xung đột cục bộ, giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
1.3.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hóa, tự dó hóa thương mại và đầu tư.
– Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như
Quota, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm
dần theo lịch trình thỏa thuận.
– Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương
thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện.
– Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ
nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tê, khuyên
khích tự do hóa đầu tư…
1.4. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Mục tiêu:
Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội,
nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đả m phát triển nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín
và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo:
– Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia – dân
tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng
tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối
quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
– Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế
quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là
lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt
Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.
– Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi
mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề
nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết trong
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực, vấn đề
liên quan đến ổn định chính trị – xã hội.
– Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị – xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp
với yêu cầu của tình hình mới.
Chương 2: Thực trạng quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế
Đại hội VI (1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Cũng chính từ Đại hội VI, bước đầu nhận thức về hội nhập quốc tế của Đảng ta
được hình thành. Đảng cho rằng, “muốn kết hợp sức mạnh với dân tộc với sức
mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế” và “một
đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang diễn ra
mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh
quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất”.
Tiếp đến Đại hội VII, tư duy về hội nhập quốc tế tiếp tục được Đảng ta khẳng định,
đó là, “cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay
đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và
xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp”.
Tại Đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ “Hội nhập” chính thức được
đề cập trong Văn kiện của Đảng, đó là: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới”.
Tiếp theo đến Đại hội IX, tư duy về hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn mạnh hơn
“Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Để cụ thể hóa tinh thần này, ngày 27/11/2001 Bộ Chính trị khóa IX đã
ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đến Đại hội X, tinh thần hội nhập từ “Chủ động” được Đảng ta phát triển và nâng
lên một bước cao hơn, đó là “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tư duy nhận thức của Đảng về hội nhập
đã có một bước phát triển toàn diện hơn, đó là từ “Hội nhập kinh tế quốc tế” trong
các kỳ Đại hội trước chuyển thành “Hội nhập quốc tế”. Đảng ta đã khẳng định,
“Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Khẳng định và làm sâu sắc hơn tinh thần
này, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW
“Về hội nhập quốc tế”.
Như vậy, bằng việc ban hành Nghị quyết số 22 “Về hội nhập quốc tế” cho thấy
nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế đã có một quá trình phát triển ngày một
sâu sắc, toàn diện hơn. Toàn bộ nội dung của Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập
quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế
phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời sống kinh tế Tích cực Tiêu cực
• Nhập khẩu tăng mạnh;
• Thúc đẩy xuất khẩu;
• Chịu sức ép cạnh tranh lớn từ doanh
nghiệp nước ngoài, dẫn đến nhiều ngành
• Thu hút đầu tư nước ngoài;
trong nước bị ảnh hưởng do tác động của
việc mở cửa thị trường (sắt thép, dầu thực
• Tăng trưởng kinh tế, việc làm;
vật, các mặt hàng nông sản, các ngành dịch vụ…
• Phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội;
• Không gian điều chỉnh chính sách bị
• Thay đổi hệ thống pháp lý một cách rõ ràng, minh bạch hơn; thu hẹp;
• Tái cấu trúc nền kinh tế;
• Thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm;
• Hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực, thế giới;
• Nông dân bị tổn thương từ những cam
kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực nông
• Nâng cao vị thế của Việt Nam trên nghiệp;
trường quốc tế, thúc đẩy quan hệ với các đối tác chủ chốt;
• Tăng khoảng cách giàu nghèo;
• Tăng thu nhập bình quân đầu người. • Ô nhiễm môi trường.
2.3. Những thách thức Việt Nam gặp phải khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
2.3.1. Sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ một nước đang phát triển có
trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính
sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn
trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế ở 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
– Sản phẩm: cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn cả trong và ngoài nước với nhiều
đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn.
– Doanh nghiệp: đối mặt với nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh
nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng.
– Quốc gia: Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn
Kinh tế Thế giới (WEF), GCI 4.0 năm 2019 xếp hạng Việt Nam ở vị trí 67/141
quốc gia trên thế giới, và đứng ở vị trí 7/9 quốc gia ASEAN (Việt Nam vẫn chỉ
đứng trên Lào và Campuchia). Sự thăng hạng này cho thấy năng lực cạnh tranh
toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã được đánh giá là cải thiện vượt trội so với những lần đánh giá trước đó.
2.3.2. Sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng
miền của đất nước khi Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá
đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng
trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu
cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên
mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng
lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã
hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự
chưa phù hợp của nhiều chính sách… Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có
thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng
trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.
2.3.3. Sự ràng buộc về các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư khi hội nhập quốc tế
Trong quá trình hội nhập quốc tế, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc
kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư… chủ yếu do các nước phát triển áp
đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của
các nước phát triển hàng đầu.
Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài
chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần
còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO… Tự do hoá thương mại và tự do
hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát
điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên
phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
2.3.4. Đội ngũ cán bộ quản lý còn non kém khi tham gia Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta
còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố
nước ngoài. Mặt khác, rào cản ngôn ngữ cũng là một thách thức lớn trong quá trình
hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về thị trường thế giới và
luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ hạn chế, nên
không nắm bắt được cơ hội mở cửa thị trường nước ngoài để đẩy mạnh phát triển,
không tăng được thị phần trong thương mại quốc tế. Nếu không có sự chuẩn bị phù
hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
2.3.5. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, bình ổn chính trị và chủ quyền quốc gia
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các
giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các
giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc.
Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong
kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy
cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.
Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp
hơn. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối
ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập
quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên.
Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế
giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước.
Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện
trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước… Đã
xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ
quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm
phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia… Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng
không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” của các thế lực
chống đối trên nhiều lĩnh vực.
Hiện nay, để đất nước phát triển, tất yếu cần tăng cường hội nhập quốc tế. Thế
nhưng, bất cứ một nguồn vốn viện trợ nào, dù ODA hay FDI, cũng sẽ kèm theo
những điều kiện. Giữ vững chủ quyền quốc gia chính là việc biết chấp nhận những
điều kiện đó, song cũng phải biết cách hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của chúng.
2.4. Thành tựu và hạn chế trong thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam 2.4.1. Thành tựu
– Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ADB, IMF, WB, tham gia các tổ chức kinh tế,
thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương
(ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO…). Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này;
– Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
189 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương
mại song phương và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các
nước và các tổ chức quốc tế…
– Trong 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, quy mô nhỏ bé, đến nay GDP của Việt Nam đạt 262 tỷ USD, tăng hơn 18 lần,
đứng thứ 44 trên thế giới. Trong bảng xếp hạng chỉ số quyền lực châu Á (Asia
Power Index) năm 2020 do Viện Lowy – viện nghiên cứu chính sách đối ngoại
hàng đầu của Ô-xtrây-li-a công bố vào ngày 19-10-2020, Việt Nam vượt Niu Di-
lân, xếp thứ 12 về sức mạnh tổng hợp trong số 26 quốc gia, vùng lãnh thổ được đánh giá;
– Về xuất nhập khẩu: Hoạt động xuất nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ. Phát triển xuất
khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là
đối với khu vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng có tác dụng tích cực trong
việc nâng cao trình độ của người lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
– Thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã
tiếp thu được khoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh
vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư và viện
trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin,
Giao thông vận tải… đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở quan trọng, đáp
ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho hội nhập ở tất cả các lĩnh vực khác;
– Việc hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã kích thích sự thay đổi tích cực
hơn của cơ cấu xuất khẩu, chuyển dần từ sản phẩm thô sang công nghiệp chế biến
và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị tăng cao hơn, thúc đẩy tái cơ cấu
kinh tế theo hướng phát triển bền vững, tạo điều kiện cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý…, thay đổi tư duy sản xuất, làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh;
– Về thu hút FDI, ODA và kiều hồi: Việt Nam không chỉ là nước nhận FDI, mà còn
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc đẩy
tăng GDP, tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. 2.4.2 . Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu
trên, quá trình hội nhập của Việt Nam còn những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới như sau:
– Chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có giai đoạn, có khâu còn chưa
được triển khai đồng bộ, đầy đủ;
– Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế còn mang tính bị động, bị lôi
cuốn theo tình thế và yêu cầu chính trị, chưa có nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế nước ta chưa cao;
– Chưa có chiến lược rõ ràng, chủ động khi tham gia các Hiệp định FTA, chưa
chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước và chưa có được nỗ lực chung của
toàn xã hội để tận dụng tối đa các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đem
lại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững;
– Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa tương
xứng với tiềm năng của đất nước. Các hạn chế này đã tác động bất ợi tới phát triển
kinh tế-xã hội trong thời gian qua và có thể gây tác động bất lợi lâu dài tới nền kinh tế.
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
3.1. Các định hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
– Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết 08, xây dựng kế hoạch thực hiện tiếp;
– Thường xuyên cải thiện moi trường đầu tư kinh doanh trong nước;
– Xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các liên kết kinh tế, các FTA mới,
các cơ chế hợp tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng;
– Xây dựng và triển khai chiến lược, chính sách tự vệ, bảo vệ quyền lợi chính đáng
của nhà nước và cá nhân.
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tới ngày một sâu rộng
hơn, không chỉ có những thời cơ, thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều thách
thức, khó khăn. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn cần:
– Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xuất phát từ yêu cầu bên trong của đất
nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế và các doanh
nghiệp. Cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức và hành động, nhất là cần
xây dựng các căn cứ khoa học và thực tiễn để phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế;
– Cần đảm bảo tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu kinh tế, chính trị ngoại giao và
mục tiêu chiến lược tổng thể trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế;
– Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ cam kết cao hơn cam kết gia
nhập WTO cả về phạm vi và mức độ. Cần chủ động xem xét xây dựng, điều chỉnh
khuôn khổ pháp lý trong nước để vừa phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước, vừa
hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem lại;
– Cần chú trọng tăng cường chất lượng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập cũng như
nâng cao năng lực nghiên cứu và năng lực triển khai bao gồm cả quản trị;
– Hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn với đổi mới kinh tế – xã hội trong nước
để nâng cao hiệu quả và tăng cường thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển
chung của đất nước, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng;
– Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập
trong các lĩnh vực khác, nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là nội
dung chính và quan trọng nhất của Hội nhập quốc tế;
– Kết hợp chặt chẽ giữa Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự
chủ, chủ quyền và an ninh quốc phòng; giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái…;
Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ;
Kết luận đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách
thức đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Đặc biệt
trong hoàn cảnh dịch bệnh COVID 19 diễn biến hết sức phức tạp cả thế giới đang
gồng mình đối phó. Nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Vậy nên cơ hội và thách thức chỉ trở thành hiện thực
trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết
định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành
quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc.
Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu
hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và
phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Contents
1. Đặt vấn đề về đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam..........................1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế Quốc tế...........................1
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế................................................................1
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế...........................................................2
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế...........................................................3
1.4. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...................4
Chương 2: Thực trạng quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam........6
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập
quốc tế...................................................................................................................6
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời sống kinh tế 7
2.3. Những thách thức Việt Nam gặp phải khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế7
2.4. Thành tựu và hạn chế trong thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam.........10
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam
.........................................................................................................................12
3.1. Các định hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.. .... ......................12
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.....................................................................................................................12
Kết luận đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.....................................13