Tiểu Luận LSĐ. Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Trải qua 90 năm với bao thăng trầm, Đảng ta có một bề dày kinh nghiệm
trong lãnh đạo giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc lãnh đạo đất nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC PHẦN MỞ
ĐẦU......................................................................................................1 NỘI
DUNG...............................................................................................................3 I.
BỐI CẢNH THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ..............3
1.1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau năm 1975...........................................3
1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng, đổi mới kinh tế sau năm 1975..........3
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1979-1981 -
TW6(8-
1979).........................................................................................................5
2.1. Việt Nam trước đổi mới.............................................................................5
2.2. Nguyên nhân và giải pháp cho nền kinh tế đất nước lúc bấy giờ.............5
2.3. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị trung ương 6(8/1979).....8
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1985 - 1986........9
3.1. Bối cảnh thực hiện đổi mới kinh tế giai đoạn 1985 - 1986.......................9
3.2. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6 -
1985).................................................................................................................10
3.3. Hội nghị Bộ chính trị khóa V (1986).......................................................14
IV. ĐÁNH GIÁ CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM...16
4.1. Những thành công đã đạt được khi thực thiện các bước đổi mới về kinh
tế .................................................................................................................16
4.2. Những vấn đề đặt ra................................................................................19
KẾT LUẬN............................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM
KHẢO.....................................................................................22
lOMoARcPSD|45562685
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Trải qua 90 năm với bao thăng trầm, Đảng ta một bề dày kinh nghiệm
trong lãnh đạo giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc lãnh đạo đất nước
hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu. Việt Nam đã anh dũng vực dậy sau hai
cuộc đấu tranh ác liệt với thực dân Pháp đế quốc Mỹ, từ một nước không
tên trên bản đồ thế giới với vị thế uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế. Năm
2022 GDP Việt Nam đạt 409 tỷ USD, số vốn đầu trực tiếp từ nước ngoài cao
nhất trong vòng 5 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 732,5 tỷ USD. Đây
những con số ấn tượng cho thấy tốc độ phát triển ngày càng tiến bộ của nền
kinh tế Việt Nam
Nhưng để đạt được thành tựu đó thì đất nước ta đã trải qua một quá khứ
đầy đau thương và oai hùng. Sau khi thống nhất Nam Bắc thành một, đất nước ta
cùng khó khăn, chiến tranh đã hủy hoại con người, tàn phá hạ tầng, chính trị
văn hóa bất ổn. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã lựa chọn theo mô hình
con đường đi lên chủ nghĩa hội được Đại hội Đảng lần thứ IV xác định,
trong giai đoạn 1976 1986, bên cạnh những thắng lợi to lớn trong việc bảo vệ
Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng đất nước, tình hình kinh tế -
hội Việt Nam đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém gần như rơi vào khủng hoảng
trầm trọng. Trước thực trạng đó cùng với tình hình thế giới chuyển biến nhanh
chóng và đầy phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới tư duy luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên ch nghĩa xã hội.
Trong suốt quá trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng nhiều khảo nghiệm,
chính sách được đề ra trong đó các bước đột phá về kinh tế được thực hiện trong
giai đoạn 1979 - 1981 1985-1986 thành tựu đáng chú ý hơn cả. Nhóm chúng
em đã tìm tòi, nghiên cứu để hiểu rõ hơn về những đột phá mà Đảng và Nhà nước
đã xây dựng trong giai đoạn này. Để khai thác sâu vào đề tài, nhóm chúng em chia
bài tiểu luận thành 4 chương sau đây:
lOMoARcPSD|45562685
2
Chương I: Bối cảnh thực hiện các bước đột phá về kinh tế
Chương II: Những đột phá về kinh tế giai đoạn 1979-1981
Chương III: Bước đột phá về kinh tế giai đoạn 1985-1986
Chương IV: Đánh giá các bước đột phá về kinh tế và bài học kinh nghiệm
Cảm ơn đã tận tình giảng dạy chỉ bảo trong suốt thời gian diễn ra môn
học và giúp nhóm chúng em hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
lOMoARcPSD|45562685
3
NỘI DUNG
I. BỐI CẢNH THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ
I.1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau năm 1975
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất lãnh thổ ngày 30 tháng 4 năm 1975,
đất nước hòa bình, độc lập, bắt đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế, xã hội, chính trị quốc gia, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đất nước có
nhiều thuận lợi sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, song cũng đối mặt với rất
nhiều khó khăn vì những dư tàn hậu quả nặng nề chiến tranh để lại. Nền kinh
tế xuất phát điểm còn trình độ thấp lạc hậu với chế đbao cấp thấm nhuần
vào tưởng hành động duy trì trong thời gian dài. Điểm xuất phát của Việt
Nam về kinh tế - xã hội còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có thuận lợi đồng
thời có xuất hiện những khó khăn thách thức mới. Các nướchội chủ nghĩa bộc
lộ những khó khăn về kinh tế - hội sphát triển; các thế lực thù địch bao
vây cấm vận phá hoại sự phát triển của Việt Nam. Đảng nhận thấy những
khó khăn của nền kinh tế đất nước: sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất
lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích luỹ,… Đảng cũng
vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền kinh tế nước ta là sản
xuất nhỏ; công tác tổ chức quản kinh tế nhiều hạn chế,… Trên thế giới,
các nước chế độ hội chủ nghĩa bộc lộ những khó khăn về kinh tế sự bao vây,
cấm vận của các thế lực thù địch; tất cả đã hình thành nên những thách thức đối
với quá trình phục hồi, xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam.
I.2. Chủ trương của Đng về xây dựng, đổi mới kinh tế sau năm 1975
Sau đại thắng Mùa xuân năm 1975, nước ta bước vào mt kỷ nguyên mới: Tổ
quốc hoàn toàn đc lập, thống nhất, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc
biệt về Kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu này, rất nhiều nhiệm vụ chtrương
đã được Đảng đề ra thực hiện: miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố hoàn
lOMoARcPSD|45562685
4
thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể.
miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo hội chủ nghĩa đối với các thành phần
kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu
bằng hình thức công hợp doanh; chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp; cải tạo
thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá chủ yếu; cải tạo thương nghiệp
nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản
kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất tổ chức lại nền sản xuất hội
chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. “Tchức lại tất cả các ngành sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản
xuất lớn hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những
ngành kinh tế kthuật thống nhất phát triển trên phạm vi cả nước… Đồng
thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản
kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm chính. Kế hoạch hoá trên sở đề cao trách nhiệm
phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở. Trong quản
kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi trọng quy luật giá trị; phải
thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sdụng tốt thị trường; Nếu so sánh với
công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV lần này công
tác này đã những bước chuyển biến nhất định, nhất khâu kế hoạch hoá. Kế
hoạch hoá không còn được nhấn mạnh “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà đã
chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã s
chuyển hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra
nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp… Sự chuyển hướng này ý nghĩa rất
lớn đối với việc giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt để
lOMoARcPSD|45562685
5
hơn các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ tạo ra được những điều kiện tiền
đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1979-1981 -
TW6(8-1979)
II.1. Việt Nam trước đổi mới
Xu hướng vào khoảng cuối những năm 1977 đầu năm 1978 trong việc
giải thích nguyên nhân của khó khăn là do sự lũng đoạn của thị trường tự do, do
sự tồn tại của kinh tế nhân. Lúc này giải pháp được đưa ra cải tạo khẩn trương
triệt để. Tại các địa phương, không ít các cán bộ lãnh đạo chưa hoàn toàn đồng
tình ủng hộ các biện pháp cải tạo khi cho rằng các biện pháp còn vội vàng, chưa
bám sát với tình hình thực tế luc bấy giờ . Tuy nhiên , vì lòng tin vào sự lãnh đạo
của Đảng , nên hầu hết các địa phương miền Nam đã nghiêm chỉnh chấp hành.
Kết quả đã được chứng minh khi các biện pháp được thi hành sau vài tháng . Đến
cuối những năm 1978, hai cuộc cải cách dần bộc lnhững điểm còn bất cập
hạn chế
II.2. Nguyên nhân và giải pháp cho nền kinh tế đất nước lúc bấy giờ
Dựa trên tiền đề đó , đầu năm 1979, ta nhận ra con đường ta lựa chọn không
phải là con đường phù hợp mà Việt Nam nên lựa chọn để đi lên chủ nghĩa xã hội
, đphát triển nền kinh tế ổn định đời sống nhân dân . Nền kinh tế quốc dân
mất cân bằng một cách gay gắt , đã bộc lộ trì trệ, đòi hỏi phải cải cách phải cải tổ
.
Từ cuối năm 1978, Bộ Chính trị Ban thư đã tiếp nhận thư từ báo
cáo các địa phương về tình hình khó khăn nguy cấp của đất nước ta lúc bấy giờ ,
đòi hỏi bước đột phá mới.
lOMoARcPSD|45562685
6
Do vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V, Đảng ta đã chỉ ra những
đột phá lớn, cụ thể: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (15-23/8/79) “tìm kiếm
lối thoát” cho nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng, trì trệ với những chủ trương, biện
pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh
sản xuất, ổn định đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”; tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tdo lưu thông hàng hóa, xóa bỏ
“ngăn sông, cấm chợ”. Đặc biệt Chỉ thị 100-CT/TW của Ban thư ngày
13/01/1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp...
Cụ thể, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá IV( 8/1079) với chủ trương
quyết tâm làm cho kinh tế “ bung ra “. Đó bước đột phá đầu tiên “, sau đó là
dứt khoát xoá bỉ tập trung quan lieu, bao cấp, thực hiện chế một g, đđến
đai hội VI (12/1986) đưa ra đường lối mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới
duy, đổi mới tổ chức -cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo phong cách
công tác . tuy nhiên tâp trung đổi mới duy, đặc biệt là tư duy kinh tế.
Nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ đề ra đẩy mạnh sản xuất , đảm bảo, ôrn
định đời sống nhân nhân, khắc phục các mặt tiêu cực còn tồn đọng trong hoạt
động kinh tế- hội , tăng cường an ninh quốc phòng , sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
tổ quốc . Hội nghị cũng quyết định thay đổi một số chính sách và biện pháp nhằm
phát huy quyền làm chtập thể của nhân dân , đảm bảo lợi ích của nhân dân cũng
như tập thể , cá nhân người sản xuất , quan tâm lợi ích của người lao động , tạo ra
chuyển biến tích cực trong sản xuất đời sống. Tạp chí đã ra luận” Những
nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chúng ta ( số 11-1979) trình bày roc những thắng
lợi đất nước đạt được từ sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975, đồng thời
phân tích sâu sắc về những khuyết điểm về kế hoạch hoá, về xây dựng chính sách
cụ thể, về tổ chức quản lý kinh tế , quản lý xã hội và nêu rõ những nhiệm vụ cấp
bách theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 6 .
lOMoARcPSD|45562685
7
Đầu năm 1979, Ban thư đã tiến hành điều tra thực tế miền Nam. Các
sở đã chỉ ra những hậu quả của các cuộc cải tạo. Đến ngày 18/05/1979, Bộ
Chính trị Thông báo số 10-TB/TW về việc điều chỉnh một số chỉ tiêu biện pháp
kinh tế của hai năm cuối kế hoạch 5 năm lần thứ II . Bộ Chính trị đưa ra thiếu sót
xuyên suốt mấy m vừa qua , cùng lúc đưa ra ý kiến tính chất chỉ đạo về
phương hướng cho các năm tới . Điều đó thể hiện một cách gián tiếp rằng: Một
số biện pháp trước đây tưởng chừng đúng đắn đã thể hiện sự không hiệu quả, đồng
thời cần nghiêm túc xem lại các ý kiến bị quy kết là sai lầm , chệch hướng.
Một số nội dung chính trong thông báo của bộ Chính trị :
- Qua cải tạo , nền kinh tế vốn đã mất cân đối nghiêm trọng này lại thêm
những khó khăn mới
- Sản xuất và phân phối lưu thông đình đốn và ách tắc phổ biến
- Nguồn ngoại tệ , vật tư nhập khẩu bị thu hẹp
- Tình trạng bội chi ngân sách , bội chi tiền mặt diễn ra nghiêm trọng
- Đời sống của nhân dân càng khó khăn , xuất hiện biểu hiện tiêu cực ngày
càng nhiều
Từ đây ta rút ra thông báo nhận định : “ Nếu chúng ta không nhận định đầy đủ
và sâu sắc tình hình , từ đó mà có những cố gắng đúng hướng , đứng mức thì tình
hình có thể còn nghiêm trọng và khó khăn hơn. Vì vậy , phải có những biện pháp
thiết thực và cấp bách để ngăn chặn xu hướng đi xuống của tình hình.
Cùng lúc đó, Bộ Chính trị đưa ra một số giải pháp cấp bách :
- Tập trung cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp
- Tập trung sức lực tạo ra mặt hàng chủ lực. Có chính sách tận dụng mọi khả
năng để sản xuất hàng tiêu dùng , không thể thiếu những mặt hàng thiết yếu
lOMoARcPSD|45562685
8
- Các chi tiêu phải có kế hoạch và tiến hành chu đáo , cẩn thận và thiết thực.
Tập trung xây dựng từ dưới lên , từ lao động và tư liệu sẵn , tránh áp đặt
từ trên xuống một cách duy ý chí.
II.3. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị trung ương 6(8/1979)
Về chủ trương với các thành phần kinh tế: Hội nghị phê phán xu hướng tả
khuynh trước đây, xác định một cách nhìn mới về thành phần kinh tế
Về kết hợp kế hoạch với thị trường: Hội nghị phê phán phong cách nghĩ và
làm trước đây, muốn áp tất cả vào kế hoạch, coi thị trường là bất hợp pháp , có
tưởng muốn dẹp bỏ. Hội nghị tái khẳng định :” Trong một thời gian khá dài , bên
cạnh thị trường có tổ chức , kế hoạch , có tồn tại khách quan thị trường ngoài
kế hoạch. Về sản xuất phần chủ động của nghiệp quốc doanh được làm thêm
sản phẩm sau khi hoàn thành kế hoạch nhà nước , kinh tế của gia đình nông
dân trên 5% và các nghề phụ trong nông thôn, có sản xuất của thủ công nghiệp cá
thể thành phố thì tất nhiên về lưu thông , cần thị trường ngoài kế hoạch.
Thị trường đó bổ sung cho thị trường kế hoạch chi phối về tính chất quy mô
phát triển “. Hội nghị đi đến chủ trương : Chấp nhận cho các cơ sở sản xuất được
chia sẻ thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng
thời cũng được liên doanh , liên kết với nhau để giải quyết những nhu cầu của sản
xuất và đời sống.
Đối với những hàng hoá nguyên liệu không thuộc Trung ương thống nhất quản
lý, thì giữa các địa phương được trao đổi mua bán với nhau được quyền quyết
định giá.
Những chủ trương này chính tiền đề cho Quyết định 25-CP sau này (1981)
những cuộc phá rào, liên doanh liên kết rất sôi động của các skinh tế trong
những năm sau.
Về chính sách phân phối lưu thông: Hội nghị chủ trương một cơ chế phân
phối lưu thông tự do hơn, phê phán cơ chế thu mua dựa trên biện pháp hành chính
lOMoARcPSD|45562685
9
, cưỡng bức như trước. Ngoài thuế(10% sản lượng ) và mua theo giá hợp đồng hai
chiều , nhà nước dùng giá thoả thuận đi đôi vơi động viên chính trị để mua phần
lương thực hàng hoá còn lại . Giá thoả thuận là giá nông dân đồng ý bán và Nhà
nước đồng ý mua , kế hoạch không hoàn toàn theo giá thị trường tự do, nhưng
không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ đạo như hiện nay “
Về giá-lương-tiền, Hội nghị quyết định giao cho thư, Hội đồng chính
phủ và các cơ quan hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống về giá “Sửa lại
giá lương thực và gcác nông sản khác cho hợp lí , khuyến khích sản xuất và m
rộng nguồn thu mua của Nhà nước”
“Nghiên cứu điều chỉnh giá mt số mặt hàng cần thiết nhằm phục vụ sản xuất ,
đời sống, xuất khẩu và tích lũy, tiến tới chấm dứt tình trạng bù lỗ không hợp lí”
Về nông nghiệp: Sau khi lắng nghe phản ánh về tình trạng gò ép nông dân
trong hợp tác hoá , năng xuất kém hiệu quả .Từ đây hội nghị đra các phương
pháp : Tổ chức nông dân vào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất phải theo đúng 3
nguyên tắc : Tự nguyện cùng có lợi và quản lý dân chủ .
Từ đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 nhắc nhở hoàn thiện tất cả các
cấp các ban ngành phải nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về tchức quản .
Nhận thức được tính cấp bách của vấn đề, vậy nên Hội nghị nhắc nhở các quan
hữu quan cần báo cáo tình hình liên tục, sửa đổi những chính sách , biện pháp trái
với tinh thần của Hội nghị.
Tính đến nay, Hội nghị Trung ương 6 thể coi cái mốc đầu tiên đánh
dấu sự khởi đầu về sự đổi mới trong duy cách thức kinh tế trong lịch sử công
cuộc đổi mới của Việt Nam
lOMoARcPSD|45562685
10
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1985 - 1986
III.1. Bối cảnh thực hiện đổi mới kinh tế giai đoạn 1985 - 1986
Tình trạng lãng phí, tiêu cực, lợi dụng chênh lệch giá lấy cắp của cải nhà nước,
cửa quyền, sách nhiễu diễn ra phổ biến nhiều nơi. Nhân dân lo lắng, giảm sút
lòng tin. Câu hỏi lớn đặt ra cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta lúc này là nguyên
nhân của tình trạng trên do đâu và đâu là những giải pháp để nhanh chóng đưa đất
nước ra khỏi bế tắc?
Nguyên nhân khách quan có nhiều, khó khăn khách quan là rất lớn. Song, chúng
ta cũng cảm nhận thấy chính sách kinh tế của Đảng đó sai lầm, không phù
hợp, không được lòng dân, vừa cản trở sản xuất, vừa gây khó khăn cho đời sống.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, khóa IV, phát triển tinh thần của Nghị
quyết, Ban Chấp hành Trung ương trực tiếp Bộ Chính trị, đã chỉ đạo thực
hiện nhiều bước điều chỉnh các chính sách về giá, lương, tiền theo hướng bỏ dần
quan liêu, bao cấp, giảm bớt số mặt hàng nhà nước cung cấp hiện vật theo mức
giá rất thấp ổn định, đưa hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tiếp cận gần
hơn với giá thị trường, mở rộng việc vận dụng quan hệ tiền tệ quy luật giá trị
trong nền kinh tế.
III.2. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V
(6 - 1985)
Tháng 6 - 1985, Hội nghị Trung ương 8, khóa V, chỉ nguồn gốc căn bản
của tình hình:
- Chúng ta vẫn chưa nhận căn bệnh sâu xa của chế quản kinh tế quốc
dân là quan liêu, bao cấp
lOMoARcPSD|45562685
11
- Những bước cải tiến về giá và lương từ năm 1980 đến giữa năm 1985 vẫn
còn tiến hành một cách thiếu đồng bộ nửa vời, sau khi điều chỉnh một
bước giá và lương, vẫn tiếp tục để giá và lương ở cơ chế tĩnh
- Tiến hành điều chỉnh về giá và lương một cách đơn độc không đi liền với
cải cách cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, phân phối,
lưu thông..., kết quả là hệ thống giá nhà nước vẫn xa rời, giá trị, hạch toán
chỉ hình thức, lỗ sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, bội chi ngân sách
và tiền mặt ngày càng tiếp tục tăng, tiền lương thực tế ngày càng giảm.
Rõ ràng là, việc điều chỉnh chính sách kinh tế mt cách nửa vời không thể
đem lại kết quả mong đợi; tình hình đòi hỏi cải cách chính sách kinh tế một cách
cơ bản hơn với những biện pháp mạnh mẽ hơn, đồng bộ hơn.
Với nhận định đó, Hội nghị Trung ương 8 đi đến quyết định: phải dứt khoát xóa
bỏ tập trung quan liêu bao cấp,... chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa và xác định lúc này, xóa bỏ quan liêu, bao cấp trong giá,
lương, tiền chính là khâu đột phá tính chất quyết định cần phải tiến hành để
thực hiện sự chuyển biến đó.
Về giá cả:
Việc điều chỉnh mặt bằng giá và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các nguyên
tắc:
- Xác định giá phù hợp với giá tr và với sức mua thực tế của đồng tiền
- Định giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế
và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trịquan
hệ cung cầu
- Trong điều kiện nước ta đi từ một nền kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá còn
phổ biến tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, theo chủ trương của
Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để
tính toán các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá
lOMoARcPSD|45562685
12
- Quản giá cả phải phân công, phân cấp hợp theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, phù hợp với thực tế.
Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện đường
lối phát triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý, thể hiện quan hcông - nông cùng làm chủ, cả công nghiệp nông
nghiệp đều phát triển đóng góp đúng mức cho Nhà nước, đời sống công
nhân, nông dân đều được cải thiện.
- Tính đủ các yếu tố chi phí xác định đúng giá thành sản phẩm công nghiệp
- Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật và hàng tiêu dùng) trên
sở giá thành tính đủ chi phí, lãi thỏa đáng cho người sản xuất và thể
hiện chính sách kinh tế của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích lũy cho
Nhà nước.
- Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hoá, có tính đến quan
hệ cung cầu, tiền hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế xã hội của Đảng
và Nhà nước. Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính
chất mặt hàng.
- Thực hiện chế một giá thống nhất, do Nhà nước (trung ương địa
phương) quy định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định
giá trên cơ sở làm chủ kế hoạch sản xuất và phân phối, nắm hàng, nắm tiền,
cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.
Về tiền lương:
Bãi b chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả lương
bằng tiền; xác đnh lại hệ thống lương cơ bản thống nhất cả nước
- Tính lại tiền lương tối thiểu theo mặt bằng giá mới, lấy đó làmsđể tính
hệ thống lương cơ bản thống nhất cho cả nước.
- Bãi bỏ chế độ tem phiếu.
Sắp xếp lại các mức lương, thang lương, phụ cấp, tiền thưởng
lOMoARcPSD|45562685
13
- Tạm thời bố trí mức lương tối đa bằng 3,5 lần mức lương tối thiểu; mức
lương tối thiểu do Bộ Chính trị phê chuẩn. Khi nguồn tài chính khá hơn,
sẽ mở rộng dần chênh lệch giữa các bậc lương.
- Sắp xếp lại các thang lương, bậc lương phù hợp với trình độ, trách nhiệm
cống hiến của các loại công nhân, viên chức. Bảo đảm quan hệ hợp
giữa các ngành nghề
- Phụ cấp thâm niên thỏa đáng đối với các ngành nghề đòi hỏi công nhân,
viên chức gắn bó lâu dài với ngành nghề.
- Sắp xếp lại hệ thống phụ cấp khu vực căn cứ vào điều kiện khí hậu và mức
độ xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hoá
thiếu thốn.
- Thực hiện rộng rãi chế độ lương sản phẩm trong các sở sản xuất kinh
doanh. Sắp xếp lại các khoản phụ cấp và tiền thưởng từ quỹ lương.
- Nghiên cứu để quy định các khoản tiền thưởng, các chế độ khuyến khíchcác
hoạt động sáng tạo về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật.
Điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội
- Tính lại trợ cấp hưu trí căn cứ vào mức lương cũ (trước khi về hưu) chuyển
đổi sang mức lương mới.
- Đối với những người nghỉ việc vì mất sức lao động, cần soát xét lại chế độ
trợ cấp, bãi bỏ bao cấp, và tính lại trợ cấp theo mức lương mới.
- Đối với học sinh, bãi bỏ chế độ bao cấp về sinh hoạt phí. Định lại chế độ
học bổng theo hướng khuyến khích học sinh giỏi quan tâm tới học sinh
con liệt sĩ và học sinh dân tộc thiểu số.
- Nghiên cứu sửa lại bệnh viện phí.
- Đối với gia đình liệt sĩ, người công với cách mạng, thương binh... đang
được hưởng chế độ cung cấp theo tem phiếu thì định lại mức trợ cấp bằng
tiền theo chế độ thống nhất phù hợp với mặt bằng giá mới.
lOMoARcPSD|45562685
14
- Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật cho người ăn theo thay bằng trợ cấp tiền
mặt thông qua quỹ trợ cấp xã hội.
Về tài chính – tiền tệ:
Trên sphát triển sản xuất và cải tiến quản lý, phấn đấu hạ giá thành
phí lưu thông, cần nắm chắc và huy động mạnh mcác nguồn thu cho ngân
sách nhà nước.
- Cải tiến chế độ thu quốc doanh và các loại thuế. Thực hiện tiết kiệm chi một
cách nghiêm ngặt; định lại các chế độ chi tiêu phù hợp với khả năng tài
chính của Nhà nước. Tích cực phấn đấu tiến tới thực hiện cân bằng ngân
sách, chấm dứt phát hành cho chi tiêu ngân sách
Thực hiện chế độ tự chủ tài chính của nghiệp, làm cho giá, lương, tài chính,
tín dụng... phát huy đầy đủ chức năng đòn bẩy kinh tế.
Chuyển đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp sang
hình thức tín dụng.
Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương ngân sách địa phương,
thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên sở ba cấp cùng làm chủ, bảo đảm
sự nhất trí giữa ba lợi ích (toàn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động)
Áp dụng các biện pháp hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền
nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động
của ngân hàng sang hạch toán kinh tế kinh doanh hội chủ nghĩa. Kịp
thời đáp ứng những nhu cầu về vốn cho sản xuất - kinh doanh theo giá mới.
Tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt.
Sửa đổi chế độ chi tiêu phợp với chế mới. Thực hiện nghiêm ngặt sự
kiểm tra và thanh tra tài chính ca Nhà nước.
Việc đổi mới chính sách giá, lương chế quản kinh tế sthay đổi
lớn có ý nghĩa cách mạng. Nghị quyết đã tạo ra sự nhất t cao trong toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
lOMoARcPSD|45562685
15
động trong cả nước, dấy lên cao trào cách mạng của quần chúng trong lao động
sản xuất bảo vệ Tổ quốc, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên giành những thắng
lợi mới.
III.3. Hội nghị Bộ chính trị khóa V (1986)
Về cơ cấu kinh tế
- Hội nghị chỉ rõ: chỉ một nền kinh tế cấu hợp mới thể phát
triển ổn định.
- Bố trí đúng cấu các ngành kinh tế, cấu sản xuất đầu những
vấn đề quan trọng đầu tiên của đường lối kinh tế
- Xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
- Kết hợp chặt chẽ sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp nhẹ công
nghiệp nặng, thừa nhận từ 1976 đến 1986, Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm,
khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố trí đầu tư.
- Phương pháp khắc phục và ổn định tình hình kinh tế - hội, n định đời
sống nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa trong các chặng đường
sau.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng c quan hệ sản xuất mới:
- Hội nghị yêu cầu:
+ Đối với kinh tế quốc doanh
+ Đối với kinh tế tập thể
+ Đối với kinh tế công tư hợp doanh
- Chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo hội chủ nghĩa, bởi vậy
chúng ta phải: biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả
nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực; phải đi qua những bước trung gian,
quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến
lOMoARcPSD|45562685
16
lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần; phải
sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo hội chủ nghĩa không
chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ
phân phối.
- Đây nhiệm vụ phải tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần lựa chọn bước đi hình thức thích hợp,
qua các bước trung gian từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, làm cho quan h
sản xuất luôn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thời k
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại nhiều thành phần kinh tế; kinh tế xã hội
chủ nghĩa ( quốc doanh và tập thể ) giữ vai trò chủ đạo.
Về cơ chế quản lý kinh tế
- Bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm
cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát
triển
- Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò ch đạo của các quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; sử dụng đúng các quy tắc của quan hệ hàng
hóa - tiền tệ. Các đơn vị kinh tế có quyền tự sản xuất kinh doanh. Phân biệt
chức năng quản hành chính - kinh tế của Nhà nước với chức năng quản
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Phân công, phân cấp quyền
tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về kinh tế,
quyền chủ động của địa phương, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của
sở. Kế hoạch phải kết hợp chặt chẽ với thị trường. Chính sách giá cả phải
vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó, quy luật gtrị có tác dụng trực
tiếp.
IV. ĐÁNH GIÁ CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
IV.1. Những thành công đã đạt được khi thực thiện các bước đổi mới về
lOMoARcPSD|45562685
17
kinh tế
Một , quá trình đổi mới và phát triển duy luận kinh tế của Đảng xuyên
suốt nhất quán, ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sthống
nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa phát triển và hội nhập trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy lý luận kinh tế
của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới
phát triển kinh tế trên thực tế. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn cả khó khăn thuận lợi,
đặc biệt trong bối cảnh sự tan của Liên các nước Đông Âu thời
kỳ đầu đổi mới; khủng hoảng tài chínhsuy thoái kinh tế toàn cầu…Tuy nhiên,
Đảng Nhà nước ta vẫn kiên trì duy phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN cho đến nay, thực tế đã chứng minh đây con đường đi đúng
đắn bằng những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội mà nước ta đã đạt được trong
gần 30 năm qua.
Hai là, đã hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu và
các thành phần kinh tế. Đây một bước đột phá trong đổi mới duy kinh tế,
giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước kinh tế nhà nước, trên
cơ sở đó đã có những chủ trường, định hướng đúng đắn về phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, từ đó huy động được
tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của N
nước trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước vừa
xây dựng chế độ, chính sách vừa thực hiện mọi hoạt động của nền kinh tế, vừa
thực hiện chức năng quản nhà nước vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ,
đó là xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ
mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những
lOMoARcPSD|45562685
18
khuyết tật của thị trường đảm bảo an sinh hội. Đồng thời, Nhà nước cũng
đóng vai trò một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và
quản lý tài sản công.
Bốn , chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong cả nước
giữa trong nước và nước ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng
nền kinh tế thị trường nước ta. Chính sách “cởi trói” để hàng hóa được tự do lưu
thông cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi mới duy trong sản
xuất phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang mt
nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tmột nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu bao cấp trở thành một nền kinh tế thị trường được nhiều nước trên thế giới
công nhận .
Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
chuyển dịch từ chỗ coi Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối (phân phối lần
đầu và phân phối lại) sang việc coi thị trường quyết định phân phối lần đầu vai
trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. chế phân bổ nguồn lực bằng hiện
vật cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các nguyên tắc tiêu chí hiệu quả,
tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng tâm đã góp phần nâng cao tính minh
bạch hiệu quả trong phân bổ ngân sách nói riêng nguồn lực hội nói chung.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành,
từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo dựng được những
tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và snghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; cải thiện mt bước kết cấu hạ tăng kinh tế xã hội, tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa
học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình
thành và phát triển.
Sáu , chế giá chuyển từ quản mệnh lệnh hành chính, không phản ánh
đúng quy luật giá trị, một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã khắc phục những bất cập,
| 1/25

Preview text:


MỤC LỤC PHẦN MỞ
ĐẦU......................................................................................................1 NỘI
DUNG...............................................................................................................3 I.
BỐI CẢNH THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ..............3
1.1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau năm 1975...........................................3
1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng, đổi mới kinh tế sau năm 1975..........3
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1979-1981 - TW6(8-
1979).........................................................................................................5

2.1. Việt Nam trước đổi mới.............................................................................5
2.2. Nguyên nhân và giải pháp cho nền kinh tế đất nước lúc bấy giờ.............5
2.3. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị trung ương 6(8/1979).....8
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1985 - 1986........9
3.1. Bối cảnh thực hiện đổi mới kinh tế giai đoạn 1985 - 1986.......................9
3.2. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6 -
1985).................................................................................................................10
3.3. Hội nghị Bộ chính trị khóa V (1986).......................................................14
IV. ĐÁNH GIÁ CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM...16
4.1. Những thành công đã đạt được khi thực thiện các bước đổi mới về kinh tế
.................................................................................................................16
4.2. Những vấn đề đặt ra................................................................................19
KẾT LUẬN............................................................................................................21 TÀI LIỆU THAM
KHẢO.....................................................................................22
lOMoARcPSD| 45562685 PHẦN MỞ ĐẦU
Trải qua 90 năm với bao thăng trầm, Đảng ta có một bề dày kinh nghiệm
trong lãnh đạo giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc lãnh đạo đất nước xã
hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu. Việt Nam đã anh dũng vực dậy sau hai
cuộc đấu tranh ác liệt với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, từ một nước không có
tên trên bản đồ thế giới với vị thế uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế. Năm
2022 GDP Việt Nam đạt 409 tỷ USD, số vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cao
nhất trong vòng 5 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 732,5 tỷ USD. Đây
là những con số ấn tượng cho thấy tốc độ phát triển ngày càng tiến bộ của nền kinh tế Việt Nam
Nhưng để đạt được thành tựu đó thì đất nước ta đã trải qua một quá khứ
đầy đau thương và oai hùng. Sau khi thống nhất Nam Bắc thành một, đất nước ta
vô cùng khó khăn, chiến tranh đã hủy hoại con người, tàn phá hạ tầng, chính trị
văn hóa bất ổn. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã lựa chọn theo mô hình
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng lần thứ IV xác định,
trong giai đoạn 1976 – 1986, bên cạnh những thắng lợi to lớn trong việc bảo vệ
Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng đất nước, tình hình kinh tế -
xã hội Việt Nam đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém và gần như rơi vào khủng hoảng
trầm trọng. Trước thực trạng đó cùng với tình hình thế giới chuyển biến nhanh
chóng và đầy phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt quá trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng nhiều khảo nghiệm,
chính sách được đề ra trong đó các bước đột phá về kinh tế được thực hiện trong
giai đoạn 1979 - 1981 và 1985-1986 là thành tựu đáng chú ý hơn cả. Nhóm chúng
em đã tìm tòi, nghiên cứu để hiểu rõ hơn về những đột phá mà Đảng và Nhà nước
đã xây dựng trong giai đoạn này. Để khai thác sâu vào đề tài, nhóm chúng em chia
bài tiểu luận thành 4 chương sau đây: 1 lOMoARcPSD| 45562685
Chương I: Bối cảnh thực hiện các bước đột phá về kinh tế
Chương II: Những đột phá về kinh tế giai đoạn 1979-1981
Chương III: Bước đột phá về kinh tế giai đoạn 1985-1986
Chương IV: Đánh giá các bước đột phá về kinh tế và bài học kinh nghiệm
Cảm ơn cô đã tận tình giảng dạy và chỉ bảo trong suốt thời gian diễn ra môn
học và giúp nhóm chúng em hoàn thành tốt bài tiểu luận này. 2 lOMoARcPSD| 45562685 NỘI DUNG
I. BỐI CẢNH THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ
I.1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau năm 1975
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất lãnh thổ ngày 30 tháng 4 năm 1975,
đất nước hòa bình, độc lập, bắt đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế, xã hội, chính trị quốc gia, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đất nước có
nhiều thuận lợi sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, song cũng đối mặt với rất
nhiều khó khăn vì những dư tàn và hậu quả nặng nề chiến tranh để lại. Nền kinh
tế xuất phát điểm còn ở trình độ thấp và lạc hậu với chế độ bao cấp thấm nhuần
vào tư tưởng và hành động duy trì trong thời gian dài. Điểm xuất phát của Việt
Nam về kinh tế - xã hội còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có thuận lợi đồng
thời có xuất hiện những khó khăn thách thức mới. Các nước xã hội chủ nghĩa bộc
lộ những khó khăn về kinh tế - xã hội và sự phát triển; các thế lực thù địch bao
vây cấm vận và phá hoại sự phát triển của Việt Nam. Đảng nhận thấy rõ những
khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất
lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích luỹ,… Đảng cũng
vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền kinh tế nước ta là sản
xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,… Trên thế giới,
các nước chế độ xã hội chủ nghĩa bộc lộ những khó khăn về kinh tế và sự bao vây,
cấm vận của các thế lực thù địch; tất cả đã hình thành nên những thách thức đối
với quá trình phục hồi, xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam. I.2.
Chủ trương của Đảng về xây dựng, đổi mới kinh tế sau năm 1975
Sau đại thắng Mùa xuân năm 1975, nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ
quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc
biệt về Kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu này, rất nhiều nhiệm vụ và chủ trương
đã được Đảng đề ra thực hiện: Ở miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn 3 lOMoARcPSD| 45562685
thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể.
Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần
kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu
bằng hình thức công tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp; cải tạo
thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp
nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý
kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những
ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất và phát triển trên phạm vi cả nước… Đồng
thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản
lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm chính. Kế hoạch hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm
và phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở. Trong quản
lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi trọng quy luật giá trị; phải
thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sử dụng tốt thị trường; … Nếu so sánh với
công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV lần này công
tác này đã có những bước chuyển biến nhất định, nhất là khâu kế hoạch hoá. Kế
hoạch hoá không còn được nhấn mạnh là “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà đã
chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã có sự
chuyển hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra
nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp… Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất
lớn đối với việc giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt để 4 lOMoARcPSD| 45562685
hơn các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ tạo ra được những điều kiện và tiền
đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1979-1981 - TW6(8-1979)
II.1. Việt Nam trước đổi mới
Xu hướng vào khoảng cuối những năm 1977 và đầu năm 1978 trong việc
giải thích nguyên nhân của khó khăn là do sự lũng đoạn của thị trường tự do, do
sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Lúc này giải pháp được đưa ra là cải tạo khẩn trương
và triệt để. Tại các địa phương, không ít các cán bộ lãnh đạo chưa hoàn toàn đồng
tình ủng hộ các biện pháp cải tạo khi cho rằng các biện pháp còn vội vàng, chưa
bám sát với tình hình thực tế luc bấy giờ . Tuy nhiên , vì lòng tin vào sự lãnh đạo
của Đảng , nên hầu hết các địa phương miền Nam đã nghiêm chỉnh chấp hành.
Kết quả đã được chứng minh khi các biện pháp được thi hành sau vài tháng . Đến
cuối những năm 1978, hai cuộc cải cách dần bộc lộ những điểm còn bất cập và hạn chế
II.2. Nguyên nhân và giải pháp cho nền kinh tế đất nước lúc bấy giờ
Dựa trên tiền đề đó , đầu năm 1979, ta nhận ra con đường ta lựa chọn không
phải là con đường phù hợp mà Việt Nam nên lựa chọn để đi lên chủ nghĩa xã hội
, để phát triển nền kinh tế và ổn định đời sống nhân dân . Nền kinh tế quốc dân
mất cân bằng một cách gay gắt , đã bộc lộ trì trệ, đòi hỏi phải cải cách phải cải tổ .
Từ cuối năm 1978, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã tiếp nhận thư từ và báo
cáo các địa phương về tình hình khó khăn nguy cấp của đất nước ta lúc bấy giờ ,
đòi hỏi bước đột phá mới. 5 lOMoARcPSD| 45562685
Do vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V, Đảng ta đã chỉ ra những
đột phá lớn, mà cụ thể: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (15-23/8/79) “tìm kiếm
lối thoát” cho nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng, trì trệ với những chủ trương, biện
pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh
sản xuất, ổn định đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”; tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tự do lưu thông hàng hóa, xóa bỏ
“ngăn sông, cấm chợ”. Đặc biệt là Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư ngày
13/01/1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp...
Cụ thể, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá IV( 8/1079) với chủ trương và
quyết tâm làm cho kinh tế “ bung ra “. Đó là “ bước đột phá đầu tiên “, sau đó là
dứt khoát xoá bỉ tập trung quan lieu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá , để đến
đai hội VI (12/1986) đưa ra đường lối mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới
tư duy, đổi mới tổ chức -cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách
công tác . tuy nhiên tâp trung đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế.
Nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ đề ra là đẩy mạnh sản xuất , đảm bảo, ôrn
định đời sống nhân nhân, khắc phục các mặt tiêu cực còn tồn đọng trong hoạt
động kinh tế- xã hội , tăng cường an ninh quốc phòng , sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
tổ quốc . Hội nghị cũng quyết định thay đổi một số chính sách và biện pháp nhằm
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân , đảm bảo lợi ích của nhân dân cũng
như tập thể , cá nhân người sản xuất , quan tâm lợi ích của người lao động , tạo ra
chuyển biến tích cực trong sản xuất và đời sống. Tạp chí đã ra xã luận” Những
nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chúng ta ( số 11-1979) trình bày roc những thắng
lợi mà đất nước đạt được từ sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975, đồng thời
phân tích sâu sắc về những khuyết điểm về kế hoạch hoá, về xây dựng chính sách
cụ thể, về tổ chức quản lý kinh tế , quản lý xã hội và nêu rõ những nhiệm vụ cấp
bách theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 6 . 6 lOMoARcPSD| 45562685
Đầu năm 1979, Ban bí thư đã tiến hành điều tra thực tế ở miền Nam. Các
cơ sở đã chỉ ra những hậu quả của các cuộc cải tạo. Đến ngày 18/05/1979, Bộ
Chính trị Thông báo số 10-TB/TW về việc điều chỉnh một số chỉ tiêu và biện pháp
kinh tế của hai năm cuối kế hoạch 5 năm lần thứ II . Bộ Chính trị đưa ra thiếu sót
xuyên suốt mấy năm vừa qua , cùng lúc đưa ra ý kiến có tính chất chỉ đạo về
phương hướng cho các năm tới . Điều đó thể hiện một cách gián tiếp rằng: Một
số biện pháp trước đây tưởng chừng đúng đắn đã thể hiện sự không hiệu quả, đồng
thời cần nghiêm túc xem lại các ý kiến bị quy kết là sai lầm , chệch hướng.
Một số nội dung chính trong thông báo của bộ Chính trị :
- Qua cải tạo , nền kinh tế vốn đã mất cân đối nghiêm trọng này lại thêm
những khó khăn mới
- Sản xuất và phân phối lưu thông đình đốn và ách tắc phổ biến
- Nguồn ngoại tệ , vật tư nhập khẩu bị thu hẹp
- Tình trạng bội chi ngân sách , bội chi tiền mặt diễn ra nghiêm trọng
- Đời sống của nhân dân càng khó khăn , xuất hiện biểu hiện tiêu cực ngày càng nhiều
Từ đây ta rút ra thông báo nhận định : “ Nếu chúng ta không nhận định đầy đủ
và sâu sắc tình hình , từ đó mà có những cố gắng đúng hướng , đứng mức thì tình
hình có thể còn nghiêm trọng và khó khăn hơn. Vì vậy , phải có những biện pháp
thiết thực và cấp bách để ngăn chặn xu hướng đi xuống của tình hình.
Cùng lúc đó, Bộ Chính trị đưa ra một số giải pháp cấp bách :
- Tập trung cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp
- Tập trung sức lực tạo ra mặt hàng chủ lực. Có chính sách tận dụng mọi khả
năng để sản xuất hàng tiêu dùng , không thể thiếu những mặt hàng thiết yếu 7 lOMoARcPSD| 45562685
- Các chi tiêu phải có kế hoạch và tiến hành chu đáo , cẩn thận và thiết thực.
Tập trung xây dựng từ dưới lên , từ lao động và tư liệu sẵn có , tránh áp đặt
từ trên xuống một cách duy ý chí.
II.3. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị trung ương 6(8/1979)
Về chủ trương với các thành phần kinh tế: Hội nghị phê phán xu hướng tả
khuynh trước đây, xác định một cách nhìn mới về thành phần kinh tế
Về kết hợp kế hoạch với thị trường: Hội nghị phê phán phong cách nghĩ và
làm trước đây, muốn áp tất cả vào kế hoạch, coi thị trường là bất hợp pháp , có tư
tưởng muốn dẹp bỏ. Hội nghị tái khẳng định :” Trong một thời gian khá dài , bên
cạnh thị trường có tổ chức , có kế hoạch , có tồn tại khách quan thị trường ngoài
kế hoạch. Về sản xuất có phần chủ động của xí nghiệp quốc doanh được làm thêm
sản phẩm sau khi hoàn thành kế hoạch nhà nước , có kinh tế của gia đình nông
dân trên 5% và các nghề phụ trong nông thôn, có sản xuất của thủ công nghiệp cá
thể ở thành phố … thì tất nhiên về lưu thông , cần có thị trường ngoài kế hoạch.
Thị trường đó bổ sung cho thị trường có kế hoạch chi phối về tính chất và quy mô
phát triển “. Hội nghị đi đến chủ trương : Chấp nhận cho các cơ sở sản xuất được
chia sẻ thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng
thời cũng được liên doanh , liên kết với nhau để giải quyết những nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Đối với những hàng hoá và nguyên liệu không thuộc Trung ương thống nhất quản
lý, thì “ giữa các địa phương được trao đổi mua bán với nhau và được quyền quyết định giá.
Những chủ trương này chính là tiền đề cho Quyết định 25-CP sau này (1981) và
những cuộc phá rào, liên doanh liên kết rất sôi động của các cơ sở kinh tế trong những năm sau.
Về chính sách phân phối lưu thông: Hội nghị chủ trương một cơ chế phân
phối lưu thông tự do hơn, phê phán cơ chế thu mua dựa trên biện pháp hành chính 8 lOMoARcPSD| 45562685
, cưỡng bức như trước. Ngoài thuế(10% sản lượng ) và mua theo giá hợp đồng hai
chiều , nhà nước dùng giá thoả thuận đi đôi vơi động viên chính trị để mua phần
lương thực hàng hoá còn lại . Giá thoả thuận là giá nông dân đồng ý bán và Nhà
nước đồng ý mua , kế hoạch không hoàn toàn theo giá thị trường tự do, nhưng
không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ đạo như hiện nay “
Về giá-lương-tiền, Hội nghị quyết định giao cho Bí thư, Hội đồng chính
phủ và các cơ quan hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống về giá “Sửa lại
giá lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lí , khuyến khích sản xuất và mở
rộng nguồn thu mua của Nhà nước”
“Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết nhằm phục vụ sản xuất ,
đời sống, xuất khẩu và tích lũy, tiến tới chấm dứt tình trạng bù lỗ không hợp lí”
Về nông nghiệp: Sau khi lắng nghe phản ánh về tình trạng gò ép nông dân
trong hợp tác hoá , năng xuất kém hiệu quả .Từ đây hội nghị đề ra các phương
pháp : Tổ chức nông dân vào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất phải theo đúng 3
nguyên tắc : Tự nguyện cùng có lợi và quản lý dân chủ .
Từ đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 nhắc nhở hoàn thiện tất cả các
cấp các ban ngành phải nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về tổ chức quản lý .
Nhận thức được tính cấp bách của vấn đề, vậy nên Hội nghị nhắc nhở các cơ quan
hữu quan cần báo cáo tình hình liên tục, sửa đổi những chính sách , biện pháp trái
với tinh thần của Hội nghị.
Tính đến nay, Hội nghị Trung ương 6 có thể coi là cái mốc đầu tiên đánh
dấu sự khởi đầu về sự đổi mới trong tư duy và cách thức kinh tế trong lịch sử công
cuộc đổi mới của Việt Nam 9 lOMoARcPSD| 45562685
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1985 - 1986
III.1. Bối cảnh thực hiện đổi mới kinh tế giai đoạn 1985 - 1986
Tình trạng lãng phí, tiêu cực, lợi dụng chênh lệch giá lấy cắp của cải nhà nước,
cửa quyền, sách nhiễu diễn ra phổ biến ở nhiều nơi. Nhân dân lo lắng, giảm sút
lòng tin. Câu hỏi lớn đặt ra cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta lúc này là nguyên
nhân của tình trạng trên do đâu và đâu là những giải pháp để nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi bế tắc?
Nguyên nhân khách quan có nhiều, khó khăn khách quan là rất lớn. Song, chúng
ta cũng cảm nhận thấy chính sách kinh tế của Đảng có gì đó sai lầm, không phù
hợp, không được lòng dân, vừa cản trở sản xuất, vừa gây khó khăn cho đời sống.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, khóa IV, và phát triển tinh thần của Nghị
quyết, Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, đã chỉ đạo thực
hiện nhiều bước điều chỉnh các chính sách về giá, lương, tiền theo hướng bỏ dần
quan liêu, bao cấp, giảm bớt số mặt hàng nhà nước cung cấp hiện vật theo mức
giá rất thấp và ổn định, đưa hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tiếp cận gần
hơn với giá thị trường, mở rộng việc vận dụng quan hệ tiền tệ và quy luật giá trị trong nền kinh tế.
III.2. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6 - 1985)
Tháng 6 - 1985, Hội nghị Trung ương 8, khóa V, chỉ rõ nguồn gốc căn bản của tình hình:
- Chúng ta vẫn chưa nhận rõ căn bệnh sâu xa của cơ chế quản lý kinh tế quốc
dân là quan liêu, bao cấp 10 lOMoARcPSD| 45562685
- Những bước cải tiến về giá và lương từ năm 1980 đến giữa năm 1985 vẫn
còn tiến hành một cách thiếu đồng bộ và nửa vời, sau khi điều chỉnh một
bước giá và lương, vẫn tiếp tục để giá và lương ở cơ chế tĩnh
- Tiến hành điều chỉnh về giá và lương một cách đơn độc không đi liền với
cải cách cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, phân phối,
lưu thông..., kết quả là hệ thống giá nhà nước vẫn xa rời, giá trị, hạch toán
chỉ là hình thức, bù lỗ sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, bội chi ngân sách
và tiền mặt ngày càng tiếp tục tăng, tiền lương thực tế ngày càng giảm.
Rõ ràng là, việc điều chỉnh chính sách kinh tế một cách nửa vời không thể
đem lại kết quả mong đợi; tình hình đòi hỏi cải cách chính sách kinh tế một cách
cơ bản hơn với những biện pháp mạnh mẽ hơn, đồng bộ hơn.
Với nhận định đó, Hội nghị Trung ương 8 đi đến quyết định: phải dứt khoát xóa
bỏ tập trung quan liêu bao cấp,... chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa và xác định lúc này, xóa bỏ quan liêu, bao cấp trong giá,
lương, tiền chính là khâu đột phá có tính chất quyết định cần phải tiến hành để
thực hiện sự chuyển biến đó.
Về giá cả:
Việc điều chỉnh mặt bằng giá và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các nguyên tắc:
- Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền
- Định giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế
và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung cầu
- Trong điều kiện nước ta đi từ một nền kinh tế mà tiểu sản xuất hàng hoá còn
phổ biến tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, theo chủ trương của
Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để
tính toán các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá 11 lOMoARcPSD| 45562685
- Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, phù hợp với thực tế.
Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện đường
lối phát triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý, thể hiện quan hệ công - nông cùng làm chủ, cả công nghiệp và nông
nghiệp đều phát triển và đóng góp đúng mức cho Nhà nước, đời sống công
nhân, nông dân đều được cải thiện.
- Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm công nghiệp
- Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật tư và hàng tiêu dùng) trên
cơ sở giá thành tính đủ chi phí, có lãi thỏa đáng cho người sản xuất và thể
hiện chính sách kinh tế của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích lũy cho Nhà nước.
- Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hoá, có tính đến quan
hệ cung cầu, tiền hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế xã hội của Đảng
và Nhà nước. Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính chất mặt hàng.
- Thực hiện cơ chế một giá thống nhất, do Nhà nước (trung ương và địa
phương) quy định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định
giá trên cơ sở làm chủ kế hoạch sản xuất và phân phối, nắm hàng, nắm tiền,
cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.
Về tiền lương:
Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả lương
bằng tiền; xác định lại hệ thống lương cơ bản thống nhất cả nước
- Tính lại tiền lương tối thiểu theo mặt bằng giá mới, lấy đó làm cơ sở để tính
hệ thống lương cơ bản thống nhất cho cả nước.
- Bãi bỏ chế độ tem phiếu.
Sắp xếp lại các mức lương, thang lương, phụ cấp, tiền thưởng 12 lOMoARcPSD| 45562685
- Tạm thời bố trí mức lương tối đa bằng 3,5 lần mức lương tối thiểu; mức
lương tối thiểu do Bộ Chính trị phê chuẩn. Khi có nguồn tài chính khá hơn,
sẽ mở rộng dần chênh lệch giữa các bậc lương.
- Sắp xếp lại các thang lương, bậc lương phù hợp với trình độ, trách nhiệm
và cống hiến của các loại công nhân, viên chức. Bảo đảm quan hệ hợp lý giữa các ngành nghề
- Phụ cấp thâm niên thỏa đáng đối với các ngành nghề đòi hỏi công nhân,
viên chức gắn bó lâu dài với ngành nghề.
- Sắp xếp lại hệ thống phụ cấp khu vực căn cứ vào điều kiện khí hậu và mức
độ xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hoá thiếu thốn.
- Thực hiện rộng rãi chế độ lương sản phẩm trong các cơ sở sản xuất kinh
doanh. Sắp xếp lại các khoản phụ cấp và tiền thưởng từ quỹ lương.
- Nghiên cứu để quy định các khoản tiền thưởng, các chế độ khuyến khíchcác
hoạt động sáng tạo về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật.
Điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội
- Tính lại trợ cấp hưu trí căn cứ vào mức lương cũ (trước khi về hưu) chuyển
đổi sang mức lương mới.
- Đối với những người nghỉ việc vì mất sức lao động, cần soát xét lại chế độ
trợ cấp, bãi bỏ bao cấp, và tính lại trợ cấp theo mức lương mới.
- Đối với học sinh, bãi bỏ chế độ bao cấp về sinh hoạt phí. Định lại chế độ
học bổng theo hướng khuyến khích học sinh giỏi và quan tâm tới học sinh
con liệt sĩ và học sinh dân tộc thiểu số.
- Nghiên cứu sửa lại bệnh viện phí.
- Đối với gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, thương binh... đang
được hưởng chế độ cung cấp theo tem phiếu thì định lại mức trợ cấp bằng
tiền theo chế độ thống nhất phù hợp với mặt bằng giá mới. 13 lOMoARcPSD| 45562685
- Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật cho người ăn theo thay bằng trợ cấp tiền
mặt thông qua quỹ trợ cấp xã hội.
Về tài chính – tiền tệ:
Trên cơ sở phát triển sản xuất và cải tiến quản lý, phấn đấu hạ giá thành và
phí lưu thông, cần nắm chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Cải tiến chế độ thu quốc doanh và các loại thuế. Thực hiện tiết kiệm chi một
cách nghiêm ngặt; định lại các chế độ chi tiêu phù hợp với khả năng tài
chính của Nhà nước. Tích cực phấn đấu tiến tới thực hiện cân bằng ngân
sách, chấm dứt phát hành cho chi tiêu ngân sách
• Thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp, làm cho giá, lương, tài chính,
tín dụng... phát huy đầy đủ chức năng đòn bẩy kinh tế.
• Chuyển đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp sang hình thức tín dụng.
• Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương,
thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ, bảo đảm
sự nhất trí giữa ba lợi ích (toàn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động)
• Áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền
nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động
của ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Kịp
thời đáp ứng những nhu cầu về vốn cho sản xuất - kinh doanh theo giá mới.
• Tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt.
Sửa đổi chế độ chi tiêu phù hợp với cơ chế mới. Thực hiện nghiêm ngặt sự
kiểm tra và thanh tra tài chính của Nhà nước.
Việc đổi mới chính sách giá, lương và cơ chế quản lý kinh tế là sự thay đổi
lớn có ý nghĩa cách mạng. Nghị quyết đã tạo ra sự nhất trí cao trong toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao 14 lOMoARcPSD| 45562685
động trong cả nước, dấy lên cao trào cách mạng của quần chúng trong lao động
sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên giành những thắng lợi mới.
III.3. Hội nghị Bộ chính trị khóa V (1986)
Về cơ cấu kinh tế
- Hội nghị chỉ rõ: chỉ có một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn định.
- Bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sản xuất và đầu tư là những
vấn đề quan trọng đầu tiên của đường lối kinh tế
- Xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Kết hợp chặt chẽ sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công
nghiệp nặng, thừa nhận từ 1976 đến 1986, Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm,
khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố trí đầu tư.
- Phương pháp khắc phục và ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa trong các chặng đường sau.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới:
- Hội nghị yêu cầu:
+ Đối với kinh tế quốc doanh
+ Đối với kinh tế tập thể
+ Đối với kinh tế công tư hợp doanh
- Chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, bởi vậy
chúng ta phải: biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả
nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực; phải đi qua những bước trung gian,
quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến 15 lOMoARcPSD| 45562685
lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần; phải
sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không
chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân phối.
- Đây là nhiệm vụ phải tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp,
qua các bước trung gian từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, làm cho quan hệ
sản xuất luôn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại nhiều thành phần kinh tế; kinh tế xã hội
chủ nghĩa ( quốc doanh và tập thể ) giữ vai trò chủ đạo.
Về cơ chế quản lý kinh tế
- Bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm
cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển
- Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; sử dụng đúng các quy tắc của quan hệ hàng
hóa - tiền tệ. Các đơn vị kinh tế có quyền tự sản xuất kinh doanh. Phân biệt
chức năng quản lý hành chính - kinh tế của Nhà nước với chức năng quản
lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Phân công, phân cấp quyền
tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về kinh tế,
quyền chủ động của địa phương, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ
sở. Kế hoạch phải kết hợp chặt chẽ với thị trường. Chính sách giá cả phải
vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó, quy luật giá trị có tác dụng trực tiếp.
IV. ĐÁNH GIÁ CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
IV.1. Những thành công đã đạt được khi thực thiện các bước đổi mới về 16 lOMoARcPSD| 45562685 kinh tế
Một là
, quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng là xuyên
suốt nhất quán, ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sự thống
nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa phát triển và hội nhập trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy lý luận kinh tế
của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới
và phát triển kinh tế trên thực tế. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn cả khó khăn và thuận lợi,
đặc biệt là trong bối cảnh sự tan rã của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu ở thời
kỳ đầu đổi mới; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu…Tuy nhiên,
Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và cho đến nay, thực tế đã chứng minh đây là con đường đi đúng
đắn bằng những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội mà nước ta đã đạt được trong gần 30 năm qua.
Hai là, đã hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu và
các thành phần kinh tế. Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế,
giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước, trên
cơ sở đó đã có những chủ trường, định hướng đúng đắn về phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, từ đó huy động được
tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà
nước trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước vừa
xây dựng chế độ, chính sách vừa thực hiện mọi hoạt động của nền kinh tế, vừa
thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ,
đó là xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ
mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những 17 lOMoARcPSD| 45562685
khuyết tật của thị trường và đảm bảo an sinh xã hội. Đồng thời, Nhà nước cũng
đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công.
Bốn là, chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong cả nước và
giữa trong nước và nước ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chính sách “cởi trói” để hàng hóa được tự do lưu
thông cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi mới tư duy trong sản
xuất và phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang một
nền kinh tế sản xuất hàng hóa, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu bao cấp trở thành một nền kinh tế thị trường được nhiều nước trên thế giới công nhận .
Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
chuyển dịch từ chỗ coi Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối (phân phối lần
đầu và phân phối lại) sang việc coi thị trường quyết định phân phối lần đầu và vai
trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. Cơ chế phân bổ nguồn lực bằng hiện
vật và cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí hiệu quả,
tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng tâm đã góp phần nâng cao tính minh
bạch và hiệu quả trong phân bổ ngân sách nói riêng và nguồn lực xã hội nói chung.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành,
từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo dựng được những
tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tăng kinh tế xã hội, tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa
học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển.
Sáu là, cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, không phản ánh
đúng quy luật giá trị, là một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản
lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã khắc phục những bất cập, 18