Tiểu luận luật ngân hàng hay và điểm cao nhất

Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý. Tiểu luận luật ngân hàng. Tài liẹu gồm 17trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem

lOMoARcPSD|45022245
TIẾU LUẬN LUẬT NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các
tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
Tiêu đề Trang số
Mở đầu 3
Nội dung 4
I.Khái quát hoạt động cho vay theo HDTD của TCTD 4
1. Khái niệm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ
chức tín dụng
2. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ
chức tín dụng
3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín
dụng của tổ chức tín dụng
4. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín
dụng
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay theo hợp động tín 8
dụng của TCTD
1. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng 13
2. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng 14
3. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng 15
III. Thực tiễn pháp lý về hoạt động cho vay theo hợp đồng tín 15
dụng của các TCTD
Kết luận 19
Danh mục tài liệu tham khảo 19
MỞ ĐẦU
lOMoARcPSD|45022245
Trong những năm qua, nên kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá
cao, điều này phản ánh tiềm lực của hệ thống Ngân hàng rất mạnh mẽ
các Tổ chức tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế đất nước. Đồng thời cũng phản ánh nhu cầu vốn cho nền
kinh tế nước ta là hết sức lớn. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được,
hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng những năm qua đã nảy sinh
một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu nguy cơ rủi ro thất thoát vốn
tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức tín dụng ngày càng
chồng chất. Nếu muốn một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc gia phải
hệ thống ngân hàng vững mạnh, Chính phủ phải thiết lập được hệ
thống pháp luật chặt chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống
các Tổ chức tín dụng.
Chính vậy, để thấy được rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay
theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng , em xin lựa chọn đề tài:
“Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồngn dụng của các tổ chức tín
dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý.” làm đề tài cho bài tiểu luận này.
2
lOMoARcPSD|45022245
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1. Khái niệm hoạt động cho vay
theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài
người tình trạng tạm thời thừa tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật
dân sự, hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vayviệc một người thỏa thuận
để cho người khác được sử dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất
định với điều kiện hoàn trả, dựa trên sở sự tín nhiệm của mình với
người đó.
Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31
tháng 12 năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban
hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc
cho vay của tổ chức tín dụng khách hàng vay phải được lập thành hợp
đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục
đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn
cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ
và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”.
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng một
hoạt động cho vay dựa trên hình thức phápcủa quan hệ cho vay giữa tổ
chức tín dụng với khách hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động
cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng, trong đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng
tín dụng giữa hai bên chủ thể trong quan hệ cho vay, với nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng có quyền cho vay ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho
sản xuất kinh doanh đời sống. Khi cho vay, tổ chức tín dụng phải tuân
thủ các nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay.
2. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức
tín dụng
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng luôn mang những yếu tố cấu
thành bản của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài những dấu hiệu
chung của quan hệ cho vay, hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng
của tổ chức tín dụng còn thể hiện ở những dấu hiệu có tính đặc thù sau:
lOMoARcPSD|45022245
Một là, việc cho vay của tổ chức tín dụng hoạt động nghề nghiệp kinh
doanh mang tính chức năng. Mặc dù theo luật Việt Nam hiện hành, các tổ
chức khác không phải tổ chức tín dụng cũng thể thực hiện việc cho
vay đối với khách hàng như một hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động
cho vay của tổ chức này hoàn toàn không phải nghề nghiệp kinh mang
tính chức năng như đối với các tổ chức tín dụng.
Hai là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ một nghề
kinh doanh hơn nữa còn một nghề nghiệp kinh doanh điều kiện,
thể hiện chỗ hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải vốn pháp định,
phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước
khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo luật định.
Ba là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài việc tuân thủ các quy
định chung của pháp luật về hợp đồng, còn chịu sự điều chỉnh của
pháp luật về hợp đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật
về Ngân hàng, kể cả tập quán thương mại về ngân hàng.
3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín
dụng(HĐTD) của tổ chức tín dụng (TCTD)
a) Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng:
Trong hoạt động ngân hàng thường tính rủi ro rất cao thường mang
tính chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong hội. Để
tránh những rủi ro này, các tổ chức tín dụng ngày nay thường thực hiện
việc thẩm định tín dụng với tám biện pháp thẩm định sau: tính cách người
đi vay (character), cách của người đi vay (capacity), khả năng trả nợ
(capability), dòng tiền (cashflow), vốn (capital), điều kiện hoạt động
(conditions), tài sản chung (collectability) tài sản thế chấp (collateral).
b) Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích:
Nguyên tắc này đảm bảo cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi
ro từ bên vay, đồng thời đảm bảo được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên
vay vi phạm nguyên tắc này thì bên cho vay quyền huỷ bỏ hợp đồng
và bên vay phải chịu sự điều chỉnh theo pháp luật.
c) Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo
thoả thuận:
Bên vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên
vay có thể trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn được bên
cho vay chấp thuận, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán
cả gốc và lãi theo đúng thời gian đã gia hạn.
4
lOMoARcPSD|45022245
4. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng
Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngân hàng
hiện nay, việc phân loại cho vay của TCTD có ý nghĩa quan trong cả về lý
luận thực tiễn .Điều đó thể hiện chỗ ,dựa vào kết quả phân loại cho
vay các nhà làm luật thể xây dựng thành những quy chế cho vay
phù hợp với hoạt động thực tiễn nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng.
đây, em xin đưa ra một số hình thức cho vay căn cứ vào những tiêu chí
sau đây:
a) Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn:
- Cho vay ngắn hạn: hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng
đối vớikhách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là
đến một năm. Hình thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn u động
của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về
tiêu dùng của khách hàng trong một thời hạn ngắn.
- Cho vay trung dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn
vớithời gian thỏa thuận ttrên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng
hình thức này để thỏa mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh
doanh, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở,
phương tiện đi lại…
b) Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:
- Cho vay bảo đảm bằng tài sản: hình thức cho vay trong đó
nghĩavụ trả nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của
người thứ ba. Việc cho vay này phải được bảo đảm dưới hình thứckết
cả hai loại hợp đồng, bao gồm hợp đồng tín dụng hợp đồng bảo đảm
tiền vay (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp
luật cũng cho các bên thể thỏa thuận lập một hợp đồng nên trong
trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm tiền vay được xem một bộ
phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài sản.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong
đónghĩa vụ hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể,
xác định của khách hàng vay hoặc của người thứ ba. Thông thường các
bên chỉ giao kết một hợp đồng duy nhất hợp đồng tín dụng. Trong
trường hợp tổ chức tín dụng cho vay bảo đảm bằng tín chấp thì vẫn
phải xác lập một văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín của mình gửi
cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay thể được tổ chức tín dụng
chấp nhận cho vay.
c) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết
sốtiền vay sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của
lOMoARcPSD|45022245
mình. Nếu bên vay vi phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên
cho vay có quyền áp dụng các chế tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng
vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn…
- Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được
sửdụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm
đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào
mục đích học tập…
c) Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng TCTD làm thủ
tụcvay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. TCTD áp dụng phương
thức cho vay này khi khách hàng vay nhu cầu vay vốn không thường
xuyên. Mỗi lần nhu cầu vay vốn, khách hàng lập hồ vay vốn theo
quy định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng
đượcáp dụng đối với khách hàng vay nhu cầu vay vốn thường xuyên
và có đặc điểm sản xuất
kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay
từng lần
Căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn
của khách hàng, tài sản bảo đảm tiền vay, TCTD khách hàng xác định
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian nhất
định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực
hiệncác dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án
đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Theo phương thức này, một nhóm TCTD cùng
thựchiện cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của
khách hàng; trong đó, một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp. Cho
vay hợp vốn được thực hiện theo quy chế này và quy chế đồng tài trợ của
các TCTD do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
vàthoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để
trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành sử dụng thẻ tín dụng:
TCTDchấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi
hạn mức tín dụng để thanh toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ rút tiền
mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt đại của TCTD.
Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo
6
lOMoARcPSD|45022245
quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước về phát hành sử dụng
thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo
sẵnsàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định để đầu cho dự án. TCTD khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu
lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức trả phí hco hạn mức tín dụng dự
phòng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: việc cho vay TCTD thoả
thuậnbằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài
khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính
phủ Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán.
II.PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Khái niệm: Hợp đồng tín dụng sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ
chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, nhân)
nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của
pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản
vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng trong một thời hạn nhất
định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó (tiền gốc) lãi
vay sau một thời gian nhất định.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản. Nội dung
hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên vay sử
dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn
trả dựa trên sự tín nhiệm.
Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện
luật định, còn bên vay thể tổ chức, nhân đủ điều kiện vay vốn
do pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng
tiền, bao gồm tiền mặt và bút tệ.
Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho
vay. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
Về chế thực hiện quyền nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay
của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm sở
tiền đề cho việc thực hiện quyền nghĩa vụ của bên vay. Chủ thể của
hợp đồng tín dụng a. Bên cho vay:
lOMoARcPSD|45022245
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở
thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều
kiện sau:
Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
người đại diện đủ năng lực thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín
dụng với khách hàng.
Đối với tổ chức không phải tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành
chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn
các điều kiện như giấy phép hoạt động ngân hàng,giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt
động ngân hàng giấy chứng nhận đăng kinh doanh của loại tổ chức
này phải ghi hoạt động cho vay hoạt động ngân hàng đươc phép
thực hiện.
b. Bên vay:
Bên vay tổ chức, nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên
tắc, những điều kiện này tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi
vay trong mọi hợp đồng tín dụng):
- Bên vay phải năng lực pháp luật năng lực hành vi dân sự. Đối
vớitổ chức pháp nhân hay không phải pháp nhân thì phải người
đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó
khi ký kết hợp đồng tín dụng.
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này
chỉ tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các
bên thoả thuận rõ trong hợp đồng tín dụng):
Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
Bên vay tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản của
người thứ ba trên sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng
bảo lãnh.
Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng một quá trình mang tính chất kỹ thuật
nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc
giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: hành vi pháp do một bên thực
hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể
hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
8
lOMoARcPSD|45022245
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng các tổ chức,
nhân nhu cầu vay vốn văn bản đề nghị chính đơn xin vay, được
gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng
tài chính hay phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi
cho tổ chức tín dụng để xem xét, thẩm định được coi như bằng chứng
đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng Việt Nam trong những năm gần
đây cho thấy, nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín
dụng lại chính tổ chức tín dụng chứ không phải khách hàng, nhằm
tăng cường khả năng cạnh tranh mở rộng thị trường tín dụng. Những
tổ chức tín dụng đã từng đi tiên phong trong việc lựa chọn phương thức
này chính các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề
nghị thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, nhân
khả năng tài chính mạnh, uy tín trên thương trường nhu cầu vay
vốn thường xuyên (gọi những khách hàng tiềm năng) tổ chức tín
dụng lựa chọn bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức
tín dụng) thường đưa ra những điều kiện tính chất tổng quát nhất kèm
theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy
nhiên, do một thư chào mời thể không nhất thiết phải một văn bản
dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời
hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế
mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành.
Thẩm định hồ tín dụng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín
dụng:
Thẩm định hồ tín dụng: tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ
pháp do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay
vốn đối với bên vay, trên sở đó quyết định cho vay hay không. Do
tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay
đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt
để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định ràng trách
nhiệm nhân trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định khâu
quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ tín dụng của khách hàng,
bên cho vay toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho
vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo
cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ
chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực
hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
lOMoARcPSD|45022245
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: hành vi pháp do bên
nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho
bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo
đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ giá trị
như một lời tuyên bố đồng ý kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho
việc giao kết hợp đồng giữa các bên. nghĩa việc giao kết hợp đồng
tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn
thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao gồm
các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi)
người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp
đồng tín dụng.
Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây giai đoạn cuối
cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín
dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản
của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi kết thúc khi đại diện
của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
Hình thức của hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín
dụng đều phải được kết bằng văn bản thì mới giá trị pháp lý. Sở
pháp luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng
chứngcụ thể cho việc thực hiện hợp đồng giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
- Việc kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự
công bốcông khai, chính thức về mối quan hệ pháp giữa những người
lập ước để cho người thứ ba biết về việc lập ước đó những
phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết.
- Việc kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới thể khiến cho
cáccơ quan trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt
hơn. Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao
gồm văn bản viết văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập
thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi
giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử được coi giá trị
pháp như văn bản hợp đồng viết giá trị chứng cứ trong quá trình
giao dịch.
Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên
có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và
phù hợp với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các
10
lOMoARcPSD|45022245
bên, đồng thời cũng làm phát sinh những quyền nghĩa vụ pháp
bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp
đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên
cần ghi trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể bên vay
phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải
thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp
đồng tín dụng đáo hạn.
Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi trong hợp
đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu
kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự
liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn
sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây một điều khoản
rất quan trọng liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn lãi cho
vay. thế, các bên phải thỏa thuận ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả
dần hàng tháng (trả góp) hay trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo
hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các
bên cũng thể dự liệu trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho
phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên
cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều
khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo
sự an toàn về vốn cho người đầu là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh
trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu
lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên đảm bảo
cho đồng vốn đầu được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép
trong thời gian sử dụng vốn, các bênquyền thỏa thuận lại về mục đích
sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời điều kiện sử dụng vốn đã
thay đổi.
Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng n dụng. Đây điều
khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên quyền thỏa thuận về
biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con ¬đường thương lượng, hòa giải
hoặc lựa chọn quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu
trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, nghĩa các bên
không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh
lOMoARcPSD|45022245
chấp phát sinh từ hợp đồng n dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định
của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng
tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên thể thỏa thuận một
điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc
lập thành một hợp đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
1. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
a) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn địa điểm cho
kháchhàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay trả nợ của
kháchhàng.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả
tiềnphạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). b) Quyền nghĩa vụ của bên
vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp của tổ chức tín dụng khi
ký kết,thực hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không căn cứ
hoặccác vi phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng
thỏathuận trong hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả đúng mục đích đã thỏa
thuậntrong hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp
đồngtín dụng và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
2. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng
a) Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải đủ năng lực pháp luật
năng lực hành vi dân sự
Mục đích nội dung của HĐTD không trái pháp luật đạo đức hội.
sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và tự do ý chí.
Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân
hàng.
b) Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD điểm mốc thời gian kể từ
đó quyền nghĩa vụ pháp của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát
sinh. Trên thực tế, pháp luật của từng nước những quy định rất khác
nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD. Còn Việt Nam, theo
12
lOMoARcPSD|45022245
Đ405 BLDS 2005 ta thể giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của
HĐTD thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản của hợp
đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD.
c) Sự hiệu của HĐTD các nguyên tắc xử hậu quả hiệuTrên
nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện
hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi hiệu
sự hiệu này, về thuyết thể được nhìn nhận trạng thái tuyệt
đối (đương nhiên vô hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái hiệu (tuyệt đối hoặc
tương đối) của các giao dịch pháp nói chung giao dịch thương mại
của ngân hàng nói riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:
HĐTD bị coi hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung, hình thức của
hợp đồng vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội và
phương hại đến lợi ích chung. Hậu quả pháp xảy ra là: Hợp đồng
không phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm kết; các bên phải phục hồi
tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp đồng.
HĐTD bị coi hiệu tương đối khi chủ thể tham gia ko năng
lực hành vi dân sự hoặc hợp đồng kết không sự t nguyện đồng
thuận giữa các bênkết. Hậu quả pháp lý xảy ra cũng giống như đối với
HĐTD vô hiệu tuyệt đối.
3.Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
a)Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
Trước khi đề cập đến các loại trách nhiệm pháp phát sinh do việc vi
phạm HĐTD ta tìm hiểu thế nào là vi phạm HĐTD và 1 hành vi phải thỏa
mãn điều kiện gì thì được coi là vi phạm hợp đồng.
Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố
ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa
mãn các điều kiện:
Người thực hiện hành vi phải các bên tham gia HĐTD.
Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền
lợi ích chung của toàn hội hoặc của tổ chức, nhân khác. Tùy
thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp
phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp
đồng nên không cần phải chứng minh thiệt hại vật chất xảy ra. Loại
lOMoARcPSD|45022245
trách nhiệm này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp
luật.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có
thiệt hại vật chất thực tế xác định được chứng minh bởi bên bị vi
phạm. Số tiền bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua
phán quyết của cơ quan tài phán có thẩm quyền.
b) Tranh chấp phát sinh từ HĐTD và cơ chế giải quyết tranh chấp - Tranh
chấp phát sinh từ HĐTD tình trạng pháp của quan hệ HĐTD, trong
đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những
quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng chế thương lượng hoặc hòa
giảiqua trung gian.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán.
III.THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động cho vay theo HĐTD của
các TCTD đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, thực
tế hoạt động cho vay của ngân hàng cho thấy, đã phát sinh nhiều bất cập
trong các chính sách của Nhà nước, thực tiễn pháp về hoạt động này
vẫn còn tồn tại không ít những vấn đề bất cập.
Thứ nhất, một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt
động tín dụng ngân hàng. Điều 126 Luật TCTD 2010 hay Điều 19 của
Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm theo Quyết định
1627/2011/QĐ NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 quy định về những
trường hợp không được cho vay. Quy định này còn hơi cứng nhắc, nếu họ
tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp pháp muốn
sử dụng để cầm cố thế chấp tại ngân hàng họ đang quản hoặc làm việc
thì việc cho vay đối với những đối tượng này không mất an toàn,
miễn họ sử dụng vốn vay một cách đúng quy định. Ngân hàng cho
khách hàng vay dựa trên những phương án khả thi, tài sản bảo đảm thì tại
sao những người này đủ tiêu chuẩn lại không cho vay. Quy định này đã
phần nào loại bỏ một bộ phân không nhỏ những khách hàng có tiềm năng
của ngân hàng.
Thứ hai, quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều
bất cập. Khoản 1 Điều 18 của Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm
theo Quyết định số 1627/2011/QĐ NHNN quy định “Tổng nợ cho
vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự của tổ
chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn
vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức nhân”. Trên thực tế,
14
lOMoARcPSD|45022245
khoảng thời gian cần thiết từ khi tổ chức tín dụng đề nghị qua Ngân hàng
Nhà nước lên tới Chính phủ đến khi quyết định được phép cho vay
thường kéo dài vài tháng, làm lỡ nhiều hội kinh doanh không phù
hợp với cải cách hành chính hiện nay.
Thứ ba, một số quy định về chế bảo đảm tiền vay xử tài sản bảo
đảm tiền vay chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép
được sử dụng tài sản bảo đảm tài sản hình thành trong tương lai. Tuy
nhiên, do tài sản trong tương lai nên không thể chắc chắn rằng tài sản
đó được hình thành để cho ngân hàng xử lý, lại mất mát nếu xảy ra
tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các quy định
pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ phận pháp luật khác
liên quan như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật hợp đồng,
pháp luật về giải quyết tranh chấp… nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử tài sản bảo đảm tiền
vay. Các khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực hiện thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng còn
gây khó khăn cho chính các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm
định phê duyệt các khoản vay bảo đảm. Điều này làm cho tỉ lệ nợ
quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao, nhất trong giao đoạn
hiện nay, khi mạng lưới tín dụng đang được mở rộng.
Thứ tư, các quy định khống chế lãi suất trần không phù hợp. Tại Điều 476
Bộ Luật dân sự quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng
không được vượt quá 150% lãi suấtbản do Ngân hàng Nhà nước công
bố đối với loại cho vay tương ứng”. Theo phân tích của hiệp hội ngân
hàng Việt Nam, quy định này không phù hợp bởi các do sau: - Một là,
việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua biện pháp can
thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế
sự chủ động linh hoạt của các tổ chức tín dụng trong vấn đề huy động
vốn cho vay, lãi suất hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của
thị trường.
- Hai là, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức đánh đồng lãi suất
củacác loại hình tín dụng mỗi loại hình tín dụng mức độ rủi ro
khác nhau, chi phí khác nhau, vậy lãi suất cho vay khác nhau. Chính
sách lãi suất trần cứng nhắc làm cho các ngân hàng rất khó đa dạng hóa
các sản phẩm dịch vụ, mặt khác, cũng làm hạn chế sự phát triển của các
dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng bán lẻ, tín dụng
tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của tổ chức tín dụng hiện đại.
- Ba là, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị
trườngtiền tệ, ngân hàng nhà nước đã các công cụ để kiểm soát như
lOMoARcPSD|45022245
lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở
điều hành khối lượng tiền cung ứng không cần giải pháp hành chính
cứng nhắc như Điều 476 Bộ luật dân sự quy định.
- Bốn là, Nghị quyết số 23/2008/NQ QH12 ngày 6/11/2008 của
Quốchội khóa XII, kỳ họp thứ tư, trong đó cho phép Các tổ chức tín
dụng điều hành lãi suất cho vay trên sở lãi suất bản của Ngân
hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật được phép cho vay theo
lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả
cao.” Để thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 30/2008/NQ CP ngày 11/12/2008 về những biện
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “
Tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận…”
vậy, để thực hiện thành công các giải pháp kích cầu của Chính phủ, đã
đến lúc cần thiết phải cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay
theo lãi suất thỏa thuậnđể góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các
loại hình dịch vụ, n dụng, kích thích sản xuất mở rộng thị trường
tiêu thụ trong nước phát triển.
- Năm là, vấn đề nợ quá hạn và nợ xấu:
+ Nợ quá hạn: Trong nền kinh tế thị trường, các TCTD thu lợi chủ yếu từ
các khoản cho vay với khách hàng, nhưng những khoản cho vay này lại
rất dễ gặp những rủi ro dẫn đến những khoản nợ quá hạn ngày càng lớn.
Hiện nay, nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại bị coi vấn đề bức
xúc phức tạp chất trong hoạt động cho vay của các TCTD. Những
khoản nợ quá hạn khổng lồ hiện tại ngành ngân hàng đang phải gánh
chịu đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh toán, giảm số tiên dự
trữ vốn của các TCTD. Chính “tảng băng” về nợ quá hạn đang lặng lẽ
nhấn chìm các TCTD vào vòng xoáy nợ nần các TCTD vẫn “không
hề hay biết”.Nợ quá hạn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của
các TCTD, tới các doanh nghiệp sử dụng vốn kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế.vậy, việc tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng
nợ quá hạn, đảm bảo việc thực hiện nợ tín dụng đã trở thành một đòi hỏi
cấp thiết, cần giải quyết không chỉ cho ngành ngân hàng còn cho cả
các cơ quan hữu quan.
+ Nợ xấu: Theo thống của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của các Tổ
chức tín dụng xu hướng tăng nhanh từ năm 2008 tới nay. Tính đến
ngày 25-10-2012, Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ xấu của toàn bộ nền
kinh tế địa chỉ tại hệ thống ngân hàng ước khoảng 8,6% (cao hơn khá
nhiều so với các quy định của Basel 2%) trên tổng nợ được cho từ
2,5 triệu tỷ đồng đến 2,8 triệu tỷ đồng. Trong đó, hơn 85% nợ tài sản
16
lOMoARcPSD|45022245
bảo đảm bằng bất động sản giá trị (theo định giá ban đầu) vào khoảng
135% khoản nợ xấu. Hệ quả nợ xấu của các TCTD không ngừng tăng
lên, trở thành “điểm nghẽn” của nền kinh tế đất nước, cản trở sự lưu
thông dòng vốn tín dụng. Song, thực tiễn cho thấy việc giải quyết vấn đề
này đang gặp phải rất nhiều khó khăn, trong đó có rào cản từ chính khuôn
khổ pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm.
lOMoARcPSD|45022245
KẾT LUẬN
Từ những phân tích, đánh giá trên. Nhìn chung, bên cạnh những mặt tích
cực trong pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng, thì vẫn còn tồn tại những hạn chế thể gây ra những rủi ro cho
các tổ chức tín dụng. Vấn đề đặt ra cần phải hoàn thiện hơn hệ thống
pháp luật để đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng, nói rộng
ra sự an toàn cho hệ thống tài chính nước nhà. Trước những biến động
của nền tài chính thế giới ít nhiều sẽ ảnhởng đến tài chính trong nước
sự điều chỉnh liên tục mức lãi suất bản của ngân hàng nhà nước sẽ
ảnh hưởng mạnh đến chính sách cho vay của các tổ chức tín dụng thì
pháp luật điều chỉnh hoạt động hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
cần thiết phải hoàn thiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, Giáo trình
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Ngân Hàng Việt Nam”, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội – 2012.
Luật các Tổ chức tín dụng 2010.
Quyếết đ nh sốế: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 c aị
Thốếng đốếng ngân hàng nhà nước, Vếề vi c ban hành Quy
chếế cho vay c aệ ủ t ch c tn d ng đốếi v i khách hàng.ổ ứ ụ ớ
18
| 1/18

Preview text:

TIẾU LUẬN LUẬT NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI: Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý.

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2021

MỤC LỤC

Tiêu đề Trang số

Mở đầu 3

Nội dung 4

I.Khái quát hoạt động cho vay theo HDTD của TCTD 4

  1. Khái niệm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ

chức tín dụng

  1. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ

chức tín dụng

  1. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín

dụng của tổ chức tín dụng

  1. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín

dụng

II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay theo hợp động tín 8

dụng của TCTD

  1. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng 13
  2. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng 14
  3. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng 15

III. Thực tiễn pháp lý về hoạt động cho vay theo hợp đồng tín 15

dụng của các TCTD

Kết luận 19

Danh mục tài liệu tham khảo 19

MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, nên kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá cao, điều này phản ánh tiềm lực của hệ thống Ngân hàng rất mạnh mẽ và các Tổ chức tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời cũng phản ánh nhu cầu vốn cho nền kinh tế nước ta là hết sức lớn. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng những năm qua đã nảy sinh một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu nguy cơ rủi ro thất thoát vốn tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức tín dụng ngày càng chồng chất. Nếu muốn có một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc gia phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh, Chính phủ phải thiết lập được hệ thống pháp luật chặt chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống các Tổ chức tín dụng.

Chính vì vậy, để thấy được rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng , em xin lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý.” làm đề tài cho bài tiểu luận này.

NỘI DUNG

I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1. Khái niệm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng

Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự, hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người khác được sử dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.

Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”.

Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng là một hoạt động cho vay dựa trên hình thức pháp lí của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng, trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng tín dụng giữa hai bên chủ thể trong quan hệ cho vay, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng có quyền cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Khi cho vay, tổ chức tín dụng phải tuân thủ các nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay.

2. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng

Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng luôn mang những yếu tố cấu thành cơ bản của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay, hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện ở những dấu hiệu có tính đặc thù sau:

Một là, việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh mang tính chức năng. Mặc dù theo luật Việt Nam hiện hành, các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn toàn không phải là nghề nghiệp kinh mang tính chức năng như đối với các tổ chức tín dụng.

Hai là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một nghề kinh doanh mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện, thể hiện ở chỗ hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định, phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo luật định.

Ba là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài việc tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng, nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể cả tập quán thương mại về ngân hàng.

3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng(HĐTD) của tổ chức tín dụng (TCTD)

a) Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng: Trong hoạt động ngân hàng thường có tính rủi ro rất cao và thường mang tính chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Để tránh những rủi ro này, các tổ chức tín dụng ngày nay thường thực hiện việc thẩm định tín dụng với tám biện pháp thẩm định sau: tính cách người đi vay (character), tư cách của người đi vay (capacity), khả năng trả nợ (capability), dòng tiền (cashflow), vốn (capital), điều kiện hoạt động (conditions), tài sản chung (collectability) và tài sản thế chấp (collateral). b) Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích:

Nguyên tắc này đảm bảo cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro từ bên vay, đồng thời đảm bảo được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi phạm nguyên tắc này thì bên cho vay có quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải chịu sự điều chỉnh theo pháp luật.

c) Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận:

Bên vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên vay có thể trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và được bên cho vay chấp thuận, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo đúng thời gian đã gia hạn.

4. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng

Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngân hàng hiện nay, việc phân loại cho vay của TCTD có ý nghĩa quan trong cả về lý luận và thực tiễn .Điều đó thể hiện ở chỗ ,dựa vào kết quả phân loại cho vay mà các nhà làm luật có thể xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Ở đây, em xin đưa ra một số hình thức cho vay căn cứ vào những tiêu chí sau đây:

a) Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn:

  • Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối vớikhách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là đến một năm. Hình thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong một thời hạn ngắn.
  • Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là vớithời gian thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức này để thỏa mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại…

b) Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:

  • Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩavụ trả nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba. Việc cho vay này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng, bao gồm hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa thuận lập một hợp đồng nên trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm tiền vay được xem là một bộ phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài sản.
  • Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đónghĩa vụ hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định của khách hàng vay hoặc của người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết một hợp đồng duy nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay có bảo đảm bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín của mình và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể được tổ chức tín dụng chấp nhận cho vay.

c) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:

  • Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết sốtiền vay sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu bên vay vi phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp dụng các chế tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn…
  • Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sửdụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập…

c) Căn cứ vào phương thức cho vay:

  • Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và TCTD làm thủ tụcvay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. TCTD áp dụng phương thức cho vay này khi khách hàng vay có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo quy định.
  • Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng đượcáp dụng đối với khách hàng vay có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có đặc điểm sản xuất

– kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần

Căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tài sản bảo đảm tiền vay, TCTD và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh.

  • Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiệncác dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
  • Cho vay hợp vốn: Theo phương thức này, một nhóm TCTD cùng thựchiện cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các TCTD do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành.
  • Cho vay trả góp: Khi vay, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định vàthoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
  • Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: TCTDchấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của TCTD. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
  • Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sẵnsàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án. TCTD và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức trả phí hco hạn mức tín dụng dự phòng.
  • Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuậnbằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

II.PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng

Khái niệm: Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.

Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:

Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản. Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên vay sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm.

Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện luật định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt và bút tệ.

Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn. Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Chủ thể của hợp đồng tín dụng a. Bên cho vay:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:

Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.

Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.

Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.

Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.

Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện.

b. Bên vay:

Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp đồng tín dụng):

  • Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối vớitổ chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng.
  • Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.

Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận rõ trong hợp đồng tín dụng):

Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.

Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.

Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.

Giao kết hợp đồng tín dụng

Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:

Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.

Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng.

Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là tổ chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành.

Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:

Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.

Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.

Hình thức của hợp đồng tín dụng

Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:

  • Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứngcụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
  • Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bốcông khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết.
  • Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho cáccơ quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn. Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.

Nội dung của hợp đồng tín dụng

Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.

Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:

Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.

Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.

Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.

Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.

Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con ¬đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.

1. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng

a) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:

  • Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho kháchhàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
  • Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của kháchhàng.
  • Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiềnphạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). b) Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
  • Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết,thực hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
  • Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặccác vi phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
  • Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏathuận trong hợp đồng tín dụng.
  • Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuậntrong hợp đồng tín dụng.
  • Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồngtín dụng và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).

2. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng

  1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng

Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự

Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật đạo đức và xã hội. Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tự do ý chí.

Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân hàng.

  1. Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD

Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên thực tế, pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD.

  1. Sự vô hiệu của HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệuTrên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).

Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương đối) của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:

HĐTD bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung, hình thức của hợp đồng vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội và phương hại đến lợi ích chung. Hậu quả pháp lý xảy ra là: Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm kí kết; các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp đồng.

HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia HĐ ko có năng lực hành vi dân sự hoặc hợp đồng kí kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa các bên kí kết. Hậu quả pháp lý xảy ra cũng giống như đối với HĐTD vô hiệu tuyệt đối.

3.Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD

a)Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD

Trước khi đề cập đến các loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm HĐTD ta tìm hiểu thế nào là vi phạm HĐTD và 1 hành vi phải thỏa mãn điều kiện gì thì được coi là vi phạm hợp đồng.

Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều kiện:

Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD. Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.

Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.

Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác. Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:

Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài phán có thẩm quyền.

b) Tranh chấp phát sinh từ HĐTD và cơ chế giải quyết tranh chấp - Tranh chấp phát sinh từ HĐTD là tình trạng pháp lý của quan hệ HĐTD, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD.

  • Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế thương lượng hoặc hòa giảiqua trung gian.
  • Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán.

III.THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động cho vay theo HĐTD của các TCTD đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho vay của ngân hàng cho thấy, đã phát sinh nhiều bất cập trong các chính sách của Nhà nước, thực tiễn pháp lý về hoạt động này vẫn còn tồn tại không ít những vấn đề bất cập.

Thứ nhất, một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín dụng ngân hàng. Điều 126 Luật TCTD 2010 hay Điều 19 của Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm theo Quyết định 1627/2011/QĐ – NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 quy định về những trường hợp không được cho vay. Quy định này còn hơi cứng nhắc, nếu họ có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp pháp và muốn sử dụng để cầm cố thế chấp tại ngân hàng họ đang quản lý hoặc làm việc thì việc cho vay đối với những đối tượng này không có gì mất an toàn, miễn là họ sử dụng vốn vay một cách đúng quy định. Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên những phương án khả thi, tài sản bảo đảm thì tại sao những người này đủ tiêu chuẩn lại không cho vay. Quy định này đã phần nào loại bỏ một bộ phân không nhỏ những khách hàng có tiềm năng của ngân hàng.

Thứ hai, quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều bất cập. Khoản 1 Điều 18 của Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2011/QĐ – NHNN quy định “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân”. Trên thực tế, khoảng thời gian cần thiết từ khi tổ chức tín dụng đề nghị qua Ngân hàng Nhà nước lên tới Chính phủ đến khi có quyết định được phép cho vay thường kéo dài vài tháng, làm lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không phù hợp với cải cách hành chính hiện nay.

Thứ ba, một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép được sử dụng tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, do là tài sản trong tương lai nên không thể chắc chắn rằng tài sản đó được hình thành để cho ngân hàng xử lý, bù lại mất mát nếu xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ phận pháp luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Các khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực hiện thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng mà còn gây khó khăn cho chính các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm định và phê duyệt các khoản vay có bảo đảm. Điều này làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao, nhất là trong giao đoạn hiện nay, khi mạng lưới tín dụng đang được mở rộng.

Thứ tư, các quy định khống chế lãi suất trần không phù hợp. Tại Điều 476 Bộ Luật dân sự quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Theo phân tích của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, quy định này không phù hợp bởi các lý do sau: - Một là, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là biện pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của các tổ chức tín dụng trong vấn đề huy động vốn và cho vay, vì lãi suất hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường.

  • Hai là, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất củacác loại hình tín dụng vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác nhau. Chính sách lãi suất trần cứng nhắc làm cho các ngân hàng rất khó đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, mặt khác, cũng làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của tổ chức tín dụng hiện đại.
  • Ba là, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trườngtiền tệ, ngân hàng nhà nước đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà không cần giải pháp hành chính cứng nhắc như Điều 476 Bộ luật dân sự quy định.
  • Bốn là, Nghị quyết số 23/2008/NQ – QH12 ngày 6/11/2008 của Quốchội khóa XII, kỳ họp thứ tư, trong đó cho phép “ Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao.” Để thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ – CP ngày 11/12/2008 về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “ Tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận…” Vì vậy, để thực hiện thành công các giải pháp kích cầu của Chính phủ, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuậnđể góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển.
  • Năm là, vấn đề nợ quá hạn và nợ xấu:

+ Nợ quá hạn: Trong nền kinh tế thị trường, các TCTD thu lợi chủ yếu từ các khoản cho vay với khách hàng, nhưng những khoản cho vay này lại rất dễ gặp những rủi ro dẫn đến những khoản nợ quá hạn ngày càng lớn. Hiện nay, nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại bị coi là vấn đề bức xúc và phức tạp chất trong hoạt động cho vay của các TCTD. Những khoản nợ quá hạn khổng lồ mà hiện tại ngành ngân hàng đang phải gánh chịu đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh toán, giảm số tiên dự trữ và vốn của các TCTD. Chính “tảng băng” về nợ quá hạn đang lặng lẽ nhấn chìm các TCTD vào vòng xoáy nợ nần mà các TCTD vẫn “không hề hay biết”.Nợ quá hạn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các TCTD, tới các doanh nghiệp sử dụng vốn và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng nợ quá hạn, đảm bảo việc thực hiện nợ tín dụng đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết, cần giải quyết không chỉ cho ngành ngân hàng mà còn cho cả các cơ quan hữu quan.

+ Nợ xấu: Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của các Tổ chức tín dụng có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008 tới nay. Tính đến ngày 25-10-2012, Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ xấu của toàn bộ nền kinh tế có địa chỉ tại hệ thống ngân hàng ước khoảng 8,6% (cao hơn khá nhiều so với các quy định của Basel là 2%) trên tổng dư nợ được cho từ 2,5 triệu tỷ đồng đến 2,8 triệu tỷ đồng. Trong đó, hơn 85% nợ có tài sản bảo đảm bằng bất động sản có giá trị (theo định giá ban đầu) vào khoảng 135% khoản nợ xấu. Hệ quả là nợ xấu của các TCTD không ngừng tăng lên, trở thành “điểm nghẽn” của nền kinh tế đất nước, cản trở sự lưu thông dòng vốn tín dụng. Song, thực tiễn cho thấy việc giải quyết vấn đề này đang gặp phải rất nhiều khó khăn, trong đó có rào cản từ chính khuôn khổ pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm.

KẾT LUẬN

Từ những phân tích, đánh giá trên. Nhìn chung, bên cạnh những mặt tích cực trong pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thì vẫn còn tồn tại những hạn chế có thể gây ra những rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Vấn đề đặt ra là cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật để đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng, nói rộng ra là sự an toàn cho hệ thống tài chính nước nhà. Trước những biến động của nền tài chính thế giới ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến tài chính trong nước và sự điều chỉnh liên tục mức lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước sẽ ảnh hưởng mạnh đến chính sách cho vay của các tổ chức tín dụng thì pháp luật điều chỉnh hoạt động hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng cần thiết phải hoàn thiện.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách, Giáo trình

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Ngân Hàng Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội – 2012.

Luật các Tổ chức tín dụng 2010.

Quyếết đ nh sốế: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 c aị ủ Thốếng đốếng ngân hàng nhà nước, Vếề vi c ban hành Quy chếế cho vay c aệ ủ t ch c tn d ng đốếi v i khách hàng.ổ ứ ụ ớ