



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601590
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC............... (LOGO TRƯỜNG)
TIỂU LUẬN MÔN............ ĐỀ TÀI:
“ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP, LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY” Họ và tên sinh viên: Lớp: Mã sinh viên: Giáo viên hướng dẫn: Hà Nội, 2022 1 lOMoAR cPSD| 61601590 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
NỘI DUNGCHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ
GIAI CẤP VÀ ......................................................................................................... 4
ĐẤU TRANH GIAI CẤP ........................................................................................ 4
1.1. Khái niệm giai cấp ........................................................................................ 4
1.2. Nguồn gốc, điều kiện và kết cấu xã hội giai cấp ......................................... 4
1.2.1. Nguồn gốc giai cấp ................................................................................. 4
1.2.2. Điều kiện tồn tại (và mất đi) của giai cấp ............................................. 6
1.2.3. Kết cấu giai cấp ...................................................................................... 7
1.3. Đấu tranh giai cấp ........................................................................................ 8
1.4. Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp ....... 9
1.5. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản ................. 10
1.6. Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ
nghĩa ....................................................................................................................11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
................................................................................................................................ 14 NAM HIỆN
NAY...................................................................................................142.1. Số
lượng, chất lượng và cơ cấu .................................................................................. 15
2.2. Ý thmc chính trn, đạo đmc, ko luât và tác phong lao đôq ngq ..................17
CHƯƠNG 3: GIrI PHÁP PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊT q
NAM........................................................................................................................20
KẾT LUẬN............................................................................................................24
DANH MỤC THAM KHrO................................................................................25 lOMoAR cPSD| 61601590 2 MỞ ĐẦU
Trong xã hội tồn tại nhiều thành phần giai cấp tuy nhiên giai cấp thống trị chiếm
đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình.
Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ
còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp
những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và
phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép
họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp.
Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập
với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những
giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột. Đối kháng
là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức.
Vì vậy từ giai cấp dẫn đến đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào
tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai
cấp. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát
triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.
Từ những lý do trên em quyết định làm bài tiểu luận này về đề tài: “ Lý luận của
Triết học Mác – Lênin về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Liên hệ thực tiễn
về thực trạng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”. 3 lOMoAR cPSD| 61601590
NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1.1. Khái niệm giai cấp
Quan điểm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác là cơ sở lý
luận khoa học làm sáng tỏ bản chất của quan hệ giai cấp. Năm 1919, trong tác
phẩm “Sáng kiến vĩ đại”. V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:
“Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư
liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt
lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một
chế độ kinh tế xã hội nhất định.”
1.2. Nguồn gốc, điều kiện và kết cấu xã hội giai cấp
1.2.1. Nguồn gốc giai cấp
Chúng ta nhận thấy, theo chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng đã khẳng định, sự phân
chia giai cấp xã hội thành giai cấp do các nguyên nhân cụ thể được nêu ra về kinh
tế. Theo đó, ta nhận thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay, khi xã hội ngày càng phát
triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại cũng đã giúp cho năng suất lao động của
con người được tăng lên một cách đáng kể và từ đó dẫn đến sự phân công lại lao 4 lOMoAR cPSD| 61601590
động cụ thể như lao động chân tay, lao động trí óc cùng với nhiều loại lao động khác.
Với các lực lượng lao động cụ thể này, chế độ con người làm chung ăn chung cũng
đã vì thế mà không còn thích hợp nữa mà điều này trên thực tế thì cũng đã được
thay thế cụ thể bằng các hình thức sản xuất chung của con người. Các tư liệu sản
xuất và sản phẩm được làm ra trở thành tài sản riêng thay vì trở thành một tài sản
chung như ở giai đoạn trước. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng đã xuất hiện
và nó được thay thế sở hữu cộng đồng. Chế độ tư hữu cũng đã từ đó mà ra đời dẫn
đến sự bất bình đẳng về tài sản, cũng chính bởi vì nguyên nhân đó mà xã hội phân
hóa thành các giai cấp khác nhau bao gồm giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Như vậy, thông qua phân tích được nêu cụ thể bên trên, ta nhận thấy rằng, cơ sở
hình thành trực tiếp của giai cấp đó chính là từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp được hình thành theo hai con đường cụ thể như sau:
– Đầu tiên, con đường đó chính là sự phân hoá bên trong nội bộ công xã thành
kẻ thống trị và những chủ thể là người bị trị.
– Thứ hai, những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc sẽ không bị
giết mà những tù binh đó sẽ bị biến thành nô lệ.
Chế độ chiếm hữu nô lệ được hiểu cơ bản chính là chế độ có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử thế giới, tiếp đến chính là chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các chế độ này cũng được coi là bước phát triển cuối cùng và cao nhất về xã hội có giai cấp. lOMoAR cPSD| 61601590
1.2.2. Điều kiện tồn tại (và mất đi) của giai cấp 5
Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại ở giai đoạn trước cũng giống như là
một cách tất yếu trong suốt quá trình lịch sử nhiều nghìn năm trong điều kiện cơ
bản cụ thể là: Lực lượng sản xuất của xã hội đó đã có sự phát triển tới mức xã hội
đó đã có thể tạo ra được sản phẩm thặng dư, nhưng các sản phẩm này lại chưa đạt
tới mức có thể bảo đảm để có thể thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người.
Và theo quan điểm đó, sự phát triển đầy đủ của những lực lượng sản xuất hiện đại
cũng đã có thể đạt được tới mức bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người
và điều này cũng sẽ giúp xóa bỏ sự phân chia xã hội thành các giai cấp khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đang phát triển với tốc độ rất cao,
sự phát triển nhanh chóng này cũng đã góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất
hùng mạnh và những điều kiện kinh tế cũng như những điều kiện xã hội khác để
nhằm mục đích có thể xóa bỏ giai cấp.
Chúng ta nhận thấy rằng, thực chất đối với sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất, đến một mức độ nhất định nài đó thì sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất cũng sẽ làm cho sự phân chia giai cấp của xã hội bị mất đi tính tất yếu.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy được rằng, sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất trên thực tế chỉ là một điều kiện mang tính cơ bản, nhưng thực tế thì nó cũng
sẽ không phải là duy nhất để thực hiện xã hội không giai cấp. Cần thiết phải có
thêm những điều kiện kinh tế cũng như là các điều kiện xã hội cụ thể khác, đặc
biệt là sự phát triển cao và toàn diện của con người. lOMoAR cPSD| 61601590
Các giai cấp như chúng ta đã biết nó sẽ không tự động mất đi. Chính bởi vì thế giai
cấp công nhân, nhân dân lao động sẽ có trách nhiệm cần phải tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp tự giác, có tổ chức, tiến tới để có thể giành lấy dân chủ, thiết lập
chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa vào công cụ chính 6
quyền đó để nhằm mục đích có thể cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không còn giai cấp.
1.2.3. Kết cấu giai cấp
Ta hiểu rằng, đối với mỗi kiểu xã hội thì trên thực tế cũng sẽ có kết cấu xã hội –
giai cấp riêng, mỗi kết cấu cũng sẽ gồm 02 giai cấp cơ bản, một số giai cấp không
cơ bản và tầng lớp trung gian. Khi các hình thái kinh tế cũng như xã hội này được
thay thế bằng hình thái kinh tế hay xã hội khác thì kết cấu giai cấp của xã hội cũng
sẽ bị thay đổi theo. Trong đó:
Hai giai cấp cơ bản nhất đó là hai giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn liền với phương
thức sản xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng giữa hai giai cấp này sẽ được thể
hiện sự mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất.
Bên cạnh giai cấp cơ bản trong xã hội thì sẽ là giai cấp không cơ bản, cụ thể như
trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đó có thể là những nông dân khi mà họ có ít ruộng
đất. Trong xã hội phong kiến thì đó chính là các giai cấp nô lệ và chủ nô là tàn dư
của xã hội cũ. Trong xã hội tư bản, giai cấp không cơ bản là những giai cấp địa
chủ với tư cách là tàn dư, giai cấp nông dân.
Tầng lớp trung gian được hiểu cơ bản chính là những tầng lớp trí thức làm công
việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trung gian không phải là một giai cấp và được lOMoAR cPSD| 61601590
hình thành từ những giai cấp khác nhau để nhằm mục đích có thể thực hiện việc
phục vụ những giai cấp khác nhau.
Từ những phân tích được nêu cụ thể bên trên về kết cấu giai cấp và sự biến đổi của
giai cấp cũng đã phần nào giúp cho chúng ta có thể hiểu địa vị, vai trò và thái độ
chính trị của từng giai cấp đối trong cuộc vận động lịch sử, đặc biệt như là trong
cuộc đấu tranh của thời đại ngày nay. 7
1.3. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp
và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp
bị trị không những bị chiếm đoạt về lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội
và tinh thần. Những bất công như vậy làm tất yếu nảy sinh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp.
V. I. Lênin đã định nghĩa:
Đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh này là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích
giữa quần chúng bị áp bức, vô sản, đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống
lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột.
Cuộc đấu tranh đó có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội
hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội là: Mâu thuẫn lOMoAR cPSD| 61601590
giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất
mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với
quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
1.4. Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp
Đấu tranh giai cấp được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng, thì trước 8
hết là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ,
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong một hình thái kinh tế – xã hội.
Mâu thuẫn đó bao giờ cũng được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Ví dụ: Cách mạng tư sản giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chế độ địa chủ phong
kiến, cách mạng vô sản giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, thực chất quá trình đấu tranh giai cấp khi giải quyết những mâu thuẫn cơ
bản của các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau là phương thức dẫn đến sự thay
đổi chuyến hóa các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp theo những quy luật khách quan vốn có của nó.
Đấu tranh giai cấp là một quá trình cải biến xã hội chẳng những chỉ giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn giải quyết mâu thuẫn
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cũng như nó còn có tác dụng cải tạo
bản thân các giai cấp tiến bộ và cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp, sự phát triển của các bộ phận khác nhau trong kiến trúc
thượng tầng, ví dụ như văn hóa nghệ thuật đều mang dấu ấn của quá trình đấu
tranh giai cấp và bị chi phối bởi quá trình đấu tranh giai cấp ở trong lịch sử. Đấu lOMoAR cPSD| 61601590
tranh giai cấp là một quy luật chung của xã hội có giai cấp, song lại biểu hiện mang
tính đặc thù trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp, do
địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất quyết định.
1.5. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
Mỗi thời đại lịch sử có những giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đại diện cho khuynh
hướng phát triển của thời đại đó, có nhiệm vụ đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới tiến bộ hơn. Trong thời đại ngày nay giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu 9
tranh chống lại giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản với mục đích xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mang tính tất yếu khách quan và quy luật. Bởi
vì, nó phản ánh tính mâu thuẫn “giữa một bên là tư liệu sản xuất bị tập trung trong
tay tư sản, và một bên là người sản xuất đã bị đẩy đến chỗ không còn có gì ngoài
sức lao động của họ, thế là đã có sự cách biệt dứt khóat Mâu thuẫn giữa sự sản
xuất có tính xã hội và sự chiếm hữu có tính chất tư bản chủ nghĩa biểu hiện thành
sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là một quá trình được thể hiện thông
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nhưng về cơ bản được thể hiện qua hai thời kỳ, đó là:
Giai đoạn trước khi xác lập được chính quyền nhà nước cho giai cấp vô sản. Giai
đoạn này xét về hình thức cơ bản cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản thể
hiện trong ba hình thức: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng.
Trong đó, đấu tranh chính trị là hình thức cao nhất. lOMoAR cPSD| 61601590
Giai đoạn thứ hai là sau khi đã xây dựng được chính quyền nhà nước cho giai cấp
vô sản. Giai đoạn này cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp của giai cấp vô sản vẫn
tiếp tục vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
1.6. Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phân tích
nguyên nhân cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến để
hình thành nên xã hội tư bản: “... chúng ta đã thấy rằng, những tư liệu sản xuất và
trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản hình thành, đã được tạo ra trong lòng xã hội 10
phong kiến. Những tư liệu sản xuất và trao đổi ấy, phát triển tới một trình độ nhất
định nào đó thì... tất cả những cái đó đều biến thành xiềng xích. Phải đập tan những
xiềng xích ấy... Thay vào đó là sự cạnh tranh tự do, với một chế độ xã hội và chính
trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản”.
Như vậy, sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản là tất yếu khách quan và là
bước tiến vĩ đại trong tiến trình phát triển lịch sử - xã hội và mặc dù quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã giải phóng lực lượng sản xuất. Song, thực ra đó chỉ là sự
thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp địa chủ, bằng chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thay thế phận làm thuê,
làm mướn của người nông nô cho địa chủ bằng cuộc đời làm thuê của giai cấp
công nhân cho giai cấp tư sản. Vì thế, mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và
vô sản lại tương tự như địa chủ và nông nô tiếp tục diễn ra trong lòng xã hội tư bản
chủ nghĩa. Mâu thuẫn này không thể giải quyết trong xã hội tư bản và là nguyên
nhân của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Bởi vậy: “những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến
thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản”(8). Nghĩa là, lịch sử đã lOMoAR cPSD| 61601590
tạo ra chủ nghĩa tư bản hiện đại và đến lượt nó lại trở thành vật cản của văn minh
nhân loại. Đồng thời các ông khẳng định, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tất cả các
giai cấp, các tầng lớp trung gian bị bóc lột đều đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Nhưng, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp”(9). Đây là một trong
những tư tưởng cơ bản của lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Sau này
V.I Lê-nin cũng đã khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ
nó đã làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản”. 11
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý muốn nhân tạo”, hoặc “lựa
đặt ngông cuồng” của C.Mác mà do địa vị kinh tế - xã hội khách quan quy định.
Bởi, giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích toàn
xã hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có nó mới có tính triệt để cách
mạng, tự giải phóng cho mình và giải phóng cho xã hội. Nói cách khác, giai cấp
vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Tiến trình của cuộc đấu tranh giai cấp mà C.Mác chỉ ra diễn ra theo hai bước. Trước
hết là giai cấp vô sản liên hiệp lại, thành lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho sự ra
đời chính đảng vô sản. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản, giai cấp vô sản
dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chính quyền tư sản.
Sau khi đạt được chính quyền “giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để
từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức lOMoAR cPSD| 61601590
thành giai cấp thống trị”. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm đầu đời, C. Mác chưa
thấy được tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp.
Cũng thông qua việc tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh giai cấp giai đoạn
1848 - 1851, C. Mác đã khẳng định: để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình,
giai cấp vô sản phải thực hiện cách mạng không ngừng và sự chuyên chính giai
cấp - chuyên chính vô sản, “Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không
ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất
yếu để đi đến xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những quan
hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ
xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư
tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất đó”. 12
Điều đó cho thấy, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không có
một thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước của thời kỳ quá độ này là nền chuyên
chính của giai cấp vô sản và giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác hơn là chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản.
C. Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Như vậy, qua một số các tác phẩm của mình, C. Mác đã nêu những luận điểm quan
trọng về giai cấp, đấu tranh giai cấp là: sự xuất hiện giai cấp trong xã hội là tất yếu
khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới chế độ chiếm hữu tư lOMoAR cPSD| 61601590
nhân về tư liệu sản xuất; trong xã hội có giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai
cấp; giai cấp vô sản chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi hội tụ đủ điều
kiện khách quan và chủ quan cần thiết.
Điều kiện khách quan là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền
đại công nghiệp, quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Điều kiện chủ quan
là giai cấp vô sản phải tập hợp được liên minh đông đủ lực lượng, liên minh với
nông dân và tiểu tư sản, xây dựng chính Đảng Cộng sản, có hệ tư tưởng tiến bộ
của mình và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thực hiện cách mạng không ngừng. Sau khi cách mạng thắng lợi, giai cấp vô sản
phải đập tan nhà nước tư sản, thành lập nhà nước vô sản và thực hiện nền chuyên
chính vô sản trong nhà nước vô sản ở thời kỳ quá độ. 13 14 CHƯ ƠN G 2: THỰ C TRẠ NG PHÁ T TRI ỂN GIA I CẤP CÔN G lOMoAR cPSD| 61601590 NHÂ N VIỆ T NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng, chất lượng và cơ cấu
Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu. Theo số liêux thống kê, tính đến cuối năm
2013 tổng số công nhân lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900 người (chiếm 12,8% dân số, 21,7%
lực lượng lao động xã hội). Trong đó, có 1.660.200 công nhân làm việc trong doanh
nghiệp nhà nước; 6.854.800 công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và
3.050.900 công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.Công nhân
trong doanh nghiêpx ngoài nhà nước và doanh nghiêpx có vốn đầu tư nước ngoài
phát triển nhanh, ngược lại, công nhân trong doanh nghiêp nhà nướcx ngày càng giảm về số lượng.
Về trình đôx học vấn và trình đôx chuyên môn nghề nghiêp, có x 70,2% tổng số công
nhân có trình đôx trung học phổ thông, 26,8% có trình đôx trung học cơ sở và 3,1%
có trình đôx tiểu học. Công nhân có trình đôx trung cấp chiếm 17,9%, trình đô x cao
đẳng chiếm 6,6%, trình đô đại học chiếmx 17,4%, công nhân được đào tạo tại doanh nghiêp chiếm 48%.x
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất
câp. “Sự phát triển của giai x cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công lOMoAR cPSD| 61601590 15
nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân,
chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.
Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
đông.x Để hướng đến môtx nền sản xuất công nghiêpx hiênx đại, số lượng giai cấp
công nhân lao đôngx công nghiêpx chỉ chiếm gần 22% lực lượng lao động xã hội là hết sức khiêm tốn.
Trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp đã ảnh hưởng không tốt đến việc
tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2014 về chất lượng lao đôngx được
tính theo thang điểm 10, thì chất lượng lao đôngx Viêtx Nam chỉ đạt 3,79 điểm,
xếp thứ 11/12 nước Châu ~ tham gia xếp hạng của WB. Trong khi Hàn Quốc đạt
6,91 điểm, •n Đô là 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm, x Thái Lan 4,94 điểm...
Còn theo kết quả khảo sát của Tổ chức Lao đôngx quốc tế (ILO) vào tháng 9 năm
2014, năng suất lao đôngx của công nhân Viêtx Nam thuôcx vào nhóm thấp nhất
của khu vực, chỉ bằng 1/5 lao đôngx của công nhân Malaysia, 2/5 Thái Lan, 1/15
Singapore, 1/11 Nhâtx Bản, 1/10 Hàn Quốc. Trong số các nước ASEAN, năng suất
lao đông của công nhân Vx iêt Nam chỉ cao hơn Campuchia và Lào.x
Theo Bôx Kế hoạch và Đầu tư, với tốc đôx tăng năng suất lao ng đôxnhư hiên
xnay, thì phải đến năm 2038 năng suất lao đôngx của công nhân Viêtx Nam mới
bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái Lan, do đó, chúng
ta cần có đối sách để nâng cao chất lượng nhân lực, góp phần nâng cao năng suất
lao đôngx trong quá trình cạnh tranh thời hôix nhâp.Nếux không có kế hoạch đón lOMoAR cPSD| 61601590
nhânx và đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao đôngx
khi các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam đi vào sản xuất. 16
Hiên xnay, “Chất lượng, hiêu xquả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu,
nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiêp. x Hê xthống giáo dục và đào tạo
thiếu liên thông giữa các trình đôx và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn
năngx lý thuyết, nhƒ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học,
sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao đông”.x
Nguồn lực lao đông x qua đào tạo của nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, hê xquả là tỷ
lê x thất nghiêpx của những người đã qua đào tạo ngày càng cao. Trong số 10,77
triêux người lao đông đã qua đào tạo có chứng chỉ, văn bằng hiêx n nayx ,
thì trình đô đại họcx trở lên có 4,47 triêux người (chiếm 41,51%), trình đôx cao đẳng
có 1,61 triêu xngười (chiếm 14,99%), trình đôx trung cấp 2,92 triêu xngười (chiếm
27,11%), trình đôx sơ cấp có 1,77 triêux người (chiếm 16,39%). Theo đó, trình đô x
đại học/cao đẳng/trung cấp/sơ cấp tương ứng theo tỷ lê:x 1/0,35/0,65/0,4. Điều này
cảnh báo về sự mất cân đối trong cơ cấu lao đông qua đào tạo giữa các bâx c ở nước ta. x
Theo Bản tin câpx nhâtx thị trường lao đôngx của quý I năm 2016, từ quý III năm
2015 đến quý I năm 2016 số lao đôngx có trình đôx cao đẳng, đại học trở lên thất
nghiêpx tăng rất nhanh, từ 199,4 nghìn người lên 225 nghìn người, chiếm 20% số
lao đôngx thất nghiêp.x Ngoài ra còn có 114 nghìn người có trình đô x đại học trở
lên lao đôngx giản đơn ở những lĩnh vực sản xuất không cần trình đô.x Nguy cơ
này được dự báo là sẽ còn gia tăng khi Viêtx Nam hôix nhâp xCôngx đồng kinh tế ASEAN (AEC). lOMoAR cPSD| 61601590
Trong điều kiênx thế giới đã bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, sản phẩm
lao đông x được tạo ra với hàm lượng chất xám ngày càng cao, tính cạnh tranh
trong quá trình tham gia vào chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu ngày càng được đẩy
mạnh, thì vai trò của nguồn nhân lực, mà trực tiếp là người công nhân lao đôngx
sẽ đóng vai trò quyết định. 17
Trong thời gian tới, quá trình quốc tế hóa sản xuất với sự phân công và hợp tác lao
đông x diễn ra ngày càng sâu rông x giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
Khi chúng ta thực hiênx đầy đủ các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), các Hiêp xđịnh Thương mại tự do thế hê mới, x đăc biêx t xHiêp
xđịnh đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và AEC đi vào thực chất, những rào
cản về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học công nghê, thị trường
lao đôx ng được gỡ bỏ, thì sựx cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt.
Hiênx ASEAN đã có Hiêp xđịnh về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa thuânx
công nhânx lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề của cơ quan chính thức đối với 8 ngành
nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều
tra viên và du lịch. Viêcx công nhânx trình đôx lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ là môt
x trong những điều kiênx rất quan trọng trong viêcx thực hiênx dịch chuyển lao
đôngx giữa Viêtx Nam với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, theo dự báo của ILO,
khi tham gia AEC, số viêc làm của x Viêt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025.x
Nhưng trình đôx phát triển không đồng đều dẫn đến viêc xlao đôngx có tay nghề
chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Những lao
đôngx được chứng nhânx về trình đô,x kỹ năng sẽ được di chuyển tự do hơn. Đây
sẽ là thách thức cho Viêtx Nam, vì số lượng công nhân lành nghề ở nước ta còn lOMoAR cPSD| 61601590
khiêm tốn, buôcx phải chấp nhânx nguồn lao đôngx di cư đến từ các nước khác có trình đô x
cao hơn. Thời gian tới, nếu trình đô của công nhân nước x ta không được cải thiên
đểx đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.
2.2. Ý thmc chính trn, đạo đmc, ko luât và tác phong lao đôq ngq
Hiênx nay, tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất nhỏ
còn in đậm trong một bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa, trong quá
trình phát triển, giai cấp công nhân thường xuyên tiếp nhận những thành phần mới, 18
phần lớn là từ nông dân, họ còn trẻ tuổi đời, ý thức lập trường giai cấp còn hạn
chế. Vì vâyx, “Công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ
giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động”.
Dưới tác đôngx của hôix nhâpx quốc tế, giai cấp công nhân nước ta năng động, chủ
động hơn, cố gắng nâng cao năng lực, hướng tới hiệu quả công việc ngày càng cao
hơn. Nhưng mătx khác, môtx bôx phận công nhân nước ta bị phai nhạt giá trị đạo
đức truyền thống, xa rời lý tưởng cách mạng.
Kết quả môt cuôx c khảo sátx về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiên nay
chox thấy: công nhân có lối sống buông thả, thực dụng chiếm 27,9%; 22% ích kỷ,
chủ nghĩa cá nhân; 13,6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18,7% có biểu hiên suy
thoáix đạo đức, lối sống; 12,9% có thái đôx bi quan, chán đời; 20,3% vô cảm trước
bất công; 25,5% ứng xử, giao tiếp kém; 8,1% trụy lạc; 29,4% đua đòi, lãng phí.
Những kết quả khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luâtx lao đôngx
như: không sử dụng thiết bị bảo hô x lao đôngx (45,2%); đi muôn,x về sớm (24,8%); lOMoAR cPSD| 61601590
lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%); không hoàn thành
định mức công viêc (25,6%); không chấp hành kỷ luâx t lao đôx ng (19,3%) .x
Điều này gây ảnh hưởng đến doanh nghiêp và hìnhx ảnh người công nhân Viêt
Namx trong quá trình hôix nhâpx quốc tế.Nhiều công nhân coi công việc tại nhà
máy, xí nghiệp như là một cách mưu sinh, chứ chưa phải là một nghề nghiệp; họ
chưa coi đó là một sự nghiệp, không ý thức được vị trí và vai trò của giai cấp mình.
Qua khảo sát, chỉ có 23,5% tự hào là công nhân; 54,4% bằng lòng với vị trí hiênx
tại; 4,5% cảm thấy thân phânx làm thuê bị coi rẻ; 9% chẳng thích thú gì với thân phânx của mình.
Theo môt cuôx c khảo sát gần đây đối với x công nhân ba miền (Bắc, Trung, Nam)
cho thấy, hầu hết công nhân không nhânx mình thuôcx giai cấp lãnh đạo xã hôi,x họ chỉ 19
nhânx mình là những người làm công ăn lương, cố gắng làm tốt công viêcx để tăng
thêm thu nhâpx nhằm cải thiênx cuôcx sống. Không ít công nhân làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tâm lý làm thuê. Họ chỉ chú trọng
đến “công việc”, làm tròn phận sự, thụ động và ít chú trọng đến các lĩnh vực chính
trị xã hội, coi những hoạt động đó là của ban chuyên trách. Do nhânx thức như
vâyx, nên có “một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham
gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội” .
Khi được hỏi vì sao không muốn vào Đảng, thì kết quả khảo sát nhânx được là:
34,6% vì kỷ luâtx nghiêm của Đảng; 38,1% vì phải đóng đảng phí; 18,7% vì sợ bị
phân biêtx đối xử; 17,9% vì không có lợi ích cá nhân; 16,6% vì ngại phấn đấu r…n
luyên;x 15,1% vì ngại học lý luân,x nghị quyết của Đảng; 12,1% vì mất nhiều thời gian hôi họp.x