Htên
: Thị Kiều Oanh
MSSV
: 31211020981
Câu 1: Tại sao nói dân chủ nhà nước quan hệ không thể tách rời?
sinh viên Đại học UEH, các em cần làm để góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam?
1.1.
Tại sao nói dân chủ nhà nước quan hệ không thể tách rời?
Dân chủ XHCN bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với nội
hàm quan trọng nhất tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân chủ
thể người thực hiện quyền lực chung của hội. Dân chủ XHCN chế độ dân
chủ cao nhất-dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất. Tăng cường pháp chế tăng cường
quản mọi hoạt động của hội, không để một lĩnh vực nào thiếu sự điều chỉnh của
pháp luật hoặc không được pháp luật điều chỉnh; bảo đảm kỷ ơng hội thực hiện
những phép tắc nhà nước duy trì trật tự xã hội.
Sẽ là cực kỳ sai lầm và nguy hại nếu cho rằng, dân chủ đối lập với pháp chế, kỷ cương.
Dân chủ nghiên cứu góc độ nào, nhìn nhận bình diện o ng gắn chặt chẽ
tự nhiên với pháp luật; còn pháp luật nmôi sinh, điều kiện không thể thiếu để
bảo đảm, bảo vệ dân chủ được nảy sinh, nuôi dưỡng phát triển. Dân chủ vốn một
phạm trù chính trị cũng không thứ dân chủ nào tuyệt đối phi chính trị hay vượt
ra ngoài khuôn khổ pháp luật bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động thực hiện công
bằng, tiến bộ xã hội.
Thượng n pháp luật điều kiện tiên quyết để dân chđược thực hành rộng rãi
thực chất. Pháp luật của Nhà ớc Cộng hòa XHCN Việt Nam mang bản chất dân chủ.
Hiến pháp của nước Việt Nam đầu tiên được xây dựng theo những nguyên tắc dân chủ
được hiến định trong lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946: Đoàn kết toàn dân,
không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm c quyền tự do dân
chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân”. Khẳng định dân chủ,
tự do trong khuôn khổ của pháp luật cũng có nghĩa cái đích vươn tới của pháp luật
kiểu mới Việt Nam xây dựng một hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Việc nhất quán trong xem xét, giải quyết các mối quan hệ lớn dựa trên quan điểm duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và từ đòi hỏi của thực tiễn, mối quan hệ giữa thực hành
dân chủ tăng ờng pháp chế, bảo đảm kỷ ơng hội sẽ mối quan hệ quan
trọng cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn được thể hiện trong
văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây sự nhất quán quan điểm của Đảng ta, ý
nghĩa cực kỳ quan trọng bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ vững kỷ cương, pháp
luật để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trên nền tảng dân chủ tinh
thần thượng tôn pháp luật, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Bởi vậy, nơi nào hoặc ai đó quan điểm đòi tách rời hoặc tuyệt đối
hóa các mặt trong mối quan hệ giữa thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế,
bảo đảm xã hội đều trở thành quan điểm sai trái, cần bị lên án và phê phán.
1.2.
Là sinh viên Đại học UEH, các em cần làm gì để góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam?
-
Gương mẫu thực hiện và tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước.
-
Tích cực tham gia các hoạt động: Xây dựng củng cố, bảo vệ chính quyền; giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội.
-
Phê phán, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp lut
-
Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch.
-
Chủ động đề xuất ý tưởng, sáng kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật;
tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
-
Xây dựng các hình sản xuất, kinh doanh tạo việc làm; tham gia bảo vệ môi
trường và các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội.
Câu 2 :
Hãy cho biết quan niệm của bản thân về tình yêu hôn nhân tiến bộ?
Thế nào là một gia đình hạnh phúc, chia sẻ một kinh nghiệm thực tiễn.
2.1.
Hãy cho biết quan niệm của bản thân về tình yêu hôn nhân tiến bộ?
Tình yêu hôn nhân tiến bộ phải dựa trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng được
đảm bảo về pháp lý.
-
Hôn nhân tự nguyn
+ Hôn nhân tiến bộ hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam nữ. Tình yêu khát
vọng của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng
trên sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phc gia đình sẽ bị
hạn chế.
+ Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây bước
phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “…nếu nghĩa vụ
của vợchồng phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau chẳng
phải kết hôn với nhau không được kết hôn với người khác”. Hôn nhân tự nguyện
đảm bảo cho nam nữ quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp
nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không c bỏ việc cha mẹ
quan tâm, hướng dẫn gip đỡ con cái có nhận thức đng, trách nhiệm trong việc kết
n.
+ Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam nữ
không còn nữa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên sở tình yêu mới
hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới hợp
đạo đức thôi… và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say
đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ điều hay cho cả đôi bên cũng như cho hội”. Tuy
nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, ly hôn để lại hậu quả nhất
định cho hội, cho cvợ, chông đặc biệt con cái. vậy, cần ngăn chặn những
trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những
lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
- Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bnh đẳng
+ Bản chất của tình u không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng
kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một vợ một
chồng điều kiện đảm bảo hạnh phc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật
tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
+ Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện tsớm trong lịch sử hội loài người, khi
sự thắng lợi của chế độ hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên,
trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ.
“Chế độ một vợ một chồng sinh ra tự sự tập trung nhiều của cải vào tay một người,
vào tay người đàn ông, từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của người
đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. thế, cần phải chế độ một vợ
một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng thực hiện sự
giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ
chồng. Trong đó vợ chồng đều quyền lợi nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề
của cuộc sống gia đình. Vợ chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính
đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập một số nhu cầu khác v.v.. Đồng thời
cũng sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia đình như ăn, ở,
nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng gia đình hạnh phc.
+ Quan hvợ chồng bình đẳng sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha xu
thế mẹ với con cái quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ nghĩa vụ
yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời
dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có
những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do schênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích
riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết u thuẫn trong gia đình vấn đề cần được
mọi người quan tâm, chia sẻ.
- Hôn nhân được đảm bảo về pháp
+ Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải vấn đề riêngcủa mỗi gia đình
quan hệ hội. Tình yêu giữa nam và nữ vấn đề riêng của mỗi người, hội
không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức đã đưa
quan hệ riêng bước vào quan hệ hội, thì phải sự thừa nhận của hội, điều đó
được biểu hiện bằng thủ tục pháp trong n nhân. Thực hiện thủ tục pháp trong
hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách nhiệm giữa nam nữ,
trách nhiệm của nhân với gia đình hội ngược lại. Đây cũng biện pháp
ngăn chặn những nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thảo mãn
những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phc của nhân gia đình. Thực
hiện thủ tục pháp trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn tự do ly
hôn chính đáng, ngược lại, sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ
nht.
2.2.
Thế nào một gia đình hạnh phúc, chia sẻ một kinh nghiệm thực tiễn.
Một gia đình hạnh phc được hiểu sự hài lòng của các thành viên gia đình về tổng
hòa các yếu tố khách quan, chủ quan về đời sống vật chất, sức khỏe, đời sống tinh thần,
mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ của gia đình với dòng họ, cộng đồng.
Để hiểu hơn về khái niệm “gia đình hạnh phc”, em xin được chia sẻ câu chuyện
thực tiễn đến từ chính “ngôi nhà” của nh. Rất nhiều yếu tố xoay quanh chủ thể
“hạnh phc” của một gia đình, tất nhiên gia đình của em cũng được y nên từ
chính “nền móng” ấy.
-
Đầu tiên đó chính sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Tuy ba
mẹ em đều có một công việc khá bận rộn nhưng trong những bữa ăn đơn giản hàng
ngày, những dịp lễ quan trọng, những lc con cái gặp khó khăn trong học tập,... ba mẹ
vẫn dành thời gian xuất hiện, quan tâm, chia sẻ đồng hành cùng các con không
dành thời gian quá nhiều cho công việc cá nhân.
-
Yếu tố quan trọng thứ hai sự tôn trọng bnh đẳng. Ba ẹm sẽ luôn muốn tốt cho
con cái cả về vật chất, tinh thần hiện tain những dự định trong tương lai. Để tránh
gây áp lực giữa mối quan hệ v- chồng, ba mẹ - con cái thì việc tôn trong bình
đẳng luôn luôn phải được ưu tiên hàng đầu. vậy, ba mẹ của em thường rất ít khi áp
đặt suy nghĩ quyết định tương lai cho các con. Thay vào đó sẽ những sự động viên,
khích lệ, thc đẩy con theo hướng tích cực cố gắng hơn mỗi ngày để đạt được điều
tốt nhất có thể trong tương lai.
-
Đảm bảo nguồn tài chính cũng yếu tố góp vai trò không nhỏ để xây dựng cuộc
sống hạnh phc. Tài chính vững mạnh tiêu chí gip các thành viên trong gia đình
đủ điều kiện để học tập, phát triển toàn diện, thực hiện những ước mơ, dự định của
mình. Em đã được học cách tiết kiệm, sử dụng tiền đng cách từ khi còn nhỏ. Từ phía
ba mẹ, họ luôn dành ra một khoản thu nhập gửi tiết kiệm để đề phòng những trường
hợp khẩn cấp và suy xét cẩn thận trước khi chi tiêu.
còn nhiều yếu tố khác để góp phần xây dựng hạnh phc gia đình. Đạt được “hạnh
phc” tức đat được một thành tựu lớn từ sự cố gắng nhỏ của các thành viên trong
một gia đình.
Câu 3 : Em hãy bình luận về tính đa văn hóa trong hội đa dân tộc Việt
Nam hiện nay.
Việt Nam một quốc gia đa dân tộc với sự đa dạng các truyền thống, sắc thái văn hóa
khác nhau. Sự đa dạng văn hóa Việt Nam thể hiện sự đa dạng trong các hình thức
biểu đạt văn hóa như nếp sống, phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật, ẩm thực, tri thức địa
phương... Sự đa dạng, phong ph của các thực hành biểu đạt này sở quan
trọng cho sự tồn tại bền vững, giàu tính bản sắc và nhân văn của các tộc người.
Dựa trên quan điểm văn hóa vừa sự thể hiện của sự thích ứng của con người đối với
các điều kiện tồn tại của họ vừa một hệ các điều kiện mà đó con người phải thích
ứng, các nhà khoa học nhận định: Nếu coi thống nhất văn hóa từ đa dạng, muốn củng
cố sự thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa,
đây thể hiện nhất đa dạng văn hóa tộc người văn hóa địa phương (văn hóa
vùng). Sẽ không có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại dựa trên cơ
sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa.
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng đồng vốn là quy luật chung của sự phát
triển văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử, ngày nay thế
giới đang bước vào kỷ nguyên mới với sự giao lưu và hội nhập vô cùng sống động. Nó
là một động lực thc đẩy sự phát triển văn hóa và rộng hơn nữa là sự phát triển xã hội.
Mọi sự đóng kín, đoạn tuyệt hay cản trở giao lưu, sự biệt lập giữa các cộng đồng đều
làm mất đi sinh lực, sức sống thậm chí dẫn tới sự thoái hóa về mọi mặt của cộng
đồng. Thực tế các tộc người như Chứt, Thổ, các nhóm thiểu số quen gọi “Xá lá vàng”
sinh sống ở vùng ni giáp giới giữa nước ta Lào,... đã chứng minh điều đó. Ngoài ra,
bản sắc n hóa tộc người Việt Nam cũng đồng nhất với ngôn ngữ, văn hóa ý
thức tự giác, nhưng chỉ có thể biểu hiện một cách rõ ràng trong bối cảnh không gian cụ
th.
Những thành tựu nổi bật cần khẳng định nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện
sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa
dạng, phong ph, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của hội. Nhiều giá trị văn hoá
truyền thống di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. n
hoá trong chính trị trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích
cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu,
hợp tác hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam
đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - hội. Việc đấu
tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai
trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được ch trọng. Nhiều tấm gương sáng trong
phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống hội, củng cố niềm tin của nhân dân
đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng phát triển đất nước nói
chung.
bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chng ta cũng cần nhìn thẳng vào những hạn
chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hoá, tìm ra nguyên nhân giải pháp
để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay văn hoá
chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc chưa được quan tâm một
cách đầy đủ tương xứng với kinh tế chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực,
động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây
dựng con người chưa được xác định đng tầm, còn chiều hướng nặng về chức
năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về
hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học,
nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, tác dụng tích
cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hoá vẫn bị ô
nhiễm bởi các tệ nạn hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thvăn
hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản
văn hoá quý báu của dân tộc nguy bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lng tng, chậm trễ, nhất là trong việc
thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu cho
văn hoá chưa đng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội
ngũ cán btrực tiếp làm công tác văn hchưa đáp ứng được u cầu phát triển văn
hoá trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng văn hoá Việt Nam ra ớc ngoài
chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đng
mức biện pháp ch cực để giữ gìn, bảo vệ phát huy những giá trị văn htốt
đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản
cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn hoá", "phản văn hoá").

Preview text:

Họ và tên : Hà Thị Kiều Oanh MSSV : 31211020981
Câu 1: Tại sao nói dân chủ và nhà nước có quan hệ không thể tách rời? Là
sinh viên Đại học UEH, các em cần làm gì để góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam?
1.1. Tại sao nói dân chủ và nhà nước có quan hệ không thể tách rời?
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với nội
hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ
thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội. Dân chủ XHCN là chế độ dân
chủ cao nhất-dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất. Tăng cường pháp chế là tăng cường
quản lý mọi hoạt động của xã hội, không để một lĩnh vực nào thiếu sự điều chỉnh của
pháp luật hoặc không được pháp luật điều chỉnh; bảo đảm kỷ cương xã hội là thực hiện
những phép tắc nhà nước duy trì trật tự xã hội.
Sẽ là cực kỳ sai lầm và nguy hại nếu cho rằng, dân chủ đối lập với pháp chế, kỷ cương.
Dân chủ dù nghiên cứu ở góc độ nào, nhìn nhận ở bình diện nào cũng gắn bó chặt chẽ
và tự nhiên với pháp luật; còn pháp luật như là môi sinh, điều kiện không thể thiếu để
bảo đảm, bảo vệ dân chủ được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển. Dân chủ vốn là một
phạm trù chính trị và cũng không có thứ dân chủ nào tuyệt đối phi chính trị hay vượt
ra ngoài khuôn khổ pháp luật bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và thực hiện công
bằng, tiến bộ xã hội.
Thượng tôn pháp luật là điều kiện tiên quyết để dân chủ được thực hành rộng rãi và
thực chất. Pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mang bản chất dân chủ.
Hiến pháp của nước Việt Nam đầu tiên được xây dựng theo những nguyên tắc dân chủ
và được hiến định trong lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946: “Đoàn kết toàn dân,
không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự do dân
chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Khẳng định dân chủ,
tự do trong khuôn khổ của pháp luật cũng có nghĩa cái đích vươn tới của pháp luật
kiểu mới ở Việt Nam là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc nhất quán trong xem xét, giải quyết các mối quan hệ lớn dựa trên quan điểm duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và từ đòi hỏi của thực tiễn, mối quan hệ giữa thực hành
dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội sẽ là mối quan hệ quan
trọng cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn được thể hiện rõ trong
văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là sự nhất quán quan điểm của Đảng ta, có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ vững kỷ cương, pháp
luật để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trên nền tảng dân chủ và tinh
thần thượng tôn pháp luật, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Bởi vậy, nơi nào hoặc ai đó có quan điểm đòi tách rời hoặc tuyệt đối
hóa các mặt trong mối quan hệ giữa thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế,
bảo đảm xã hội đều trở thành quan điểm sai trái, cần bị lên án và phê phán.
1.2. Là sinh viên Đại học UEH, các em cần làm gì để góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam?
- Gương mẫu thực hiện và tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước.
- Tích cực tham gia các hoạt động: Xây dựng củng cố, bảo vệ chính quyền; giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
- Phê phán, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật
- Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch.
- Chủ động đề xuất ý tưởng, sáng kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật;
tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
- Xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh tạo việc làm; tham gia bảo vệ môi
trường và các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội.
Câu 2 : Hãy cho biết quan niệm của bản thân về tình yêu và hôn nhân tiến bộ?
Thế nào là một gia đình hạnh phúc, chia sẻ một kinh nghiệm thực tiễn.
2.1. Hãy cho biết quan niệm của bản thân về tình yêu và hôn nhân tiến bộ?
Tình yêu và hôn nhân tiến bộ phải dựa trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng và được đảm bảo về pháp lý.
- Hôn nhân tự nguyện
+ Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là khát
vọng của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng
trên cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế.
+ Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước
phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “…nếu nghĩa vụ
của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau há chẳng
phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác”. Hôn nhân tự nguyện
là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp
nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không bác bỏ việc cha mẹ
quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hôn.
+ Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ
không còn nữa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới
hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới là hợp
đạo đức mà thôi… và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say
đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”. Tuy
nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất
định cho xã hội, cho cả vợ, chông và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những
trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những
lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
- Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
+ Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng là
kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một vợ một
chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật
tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
+ Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người, khi
có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên,
trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ.
“Chế độ một vợ một chồng sinh ra tự sự tập trung nhiều của cải vào tay một người,
vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của người
đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một vợ
một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự
giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và
chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề
của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính
đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác v.v.. Đồng thời
cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia đình như ăn, ở,
nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
+ Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha xu
thế mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ
yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời
dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có
những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích
riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được
mọi người quan tâm, chia sẻ.
- Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
+ Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình
mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội
không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa
quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó
được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong
hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ,
trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp
ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thảo mãn
những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực
hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly
hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.
2.2. Thế nào là một gia đình hạnh phúc, chia sẻ một kinh nghiệm thực tiễn.
Một gia đình hạnh phúc được hiểu là sự hài lòng của các thành viên gia đình về tổng
hòa các yếu tố khách quan, chủ quan về đời sống vật chất, sức khỏe, đời sống tinh thần,
mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ của gia đình với dòng họ, cộng đồng.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm “gia đình hạnh phúc”, em xin được chia sẻ câu chuyện
thực tiễn đến từ chính “ngôi nhà” của mình. Rất nhiều yếu tố xoay quanh chủ thể
“hạnh phúc” của một gia đình, và tất nhiên gia đình của em cũng được xây nên từ
chính “nền móng” ấy.
- Đầu tiên đó chính là sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Tuy ba
mẹ em đều có một công việc khá bận rộn nhưng trong những bữa ăn đơn giản hàng
ngày, những dịp lễ quan trọng, những lúc con cái gặp khó khăn trong học tập,... ba mẹ
vẫn dành thời gian xuất hiện, quan tâm, chia sẻ và đồng hành cùng các con mà không
dành thời gian quá nhiều cho công việc cá nhân.
- Yếu tố quan trọng thứ hai là sự tôn trọng và bình đẳng. Ba ẹm sẽ luôn muốn tốt cho
con cái cả về vật chất, tinh thần hiện tain và những dự định trong tương lai. Để tránh
gây áp lực giữa mối quan hệ vợ - chồng, ba mẹ - con cái thì việc tôn trong và bình
đẳng luôn luôn phải được ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, ba mẹ của em thường rất ít khi áp
đặt suy nghĩ quyết định tương lai cho các con. Thay vào đó sẽ là những sự động viên,
khích lệ, thúc đẩy con theo hướng tích cực và cố gắng hơn mỗi ngày để đạt được điều
tốt nhất có thể trong tương lai.
- Đảm bảo nguồn tài chính cũng là yếu tố góp vai trò không nhỏ để xây dựng cuộc
sống hạnh phúc. Tài chính vững mạnh là tiêu chí giúp các thành viên trong gia đình có
đủ điều kiện để học tập, phát triển toàn diện, thực hiện những ước mơ, dự định của
mình. Em đã được học cách tiết kiệm, sử dụng tiền đúng cách từ khi còn nhỏ. Từ phía
ba mẹ, họ luôn dành ra một khoản thu nhập gửi tiết kiệm để đề phòng những trường
hợp khẩn cấp và suy xét cẩn thận trước khi chi tiêu.
Và còn nhiều yếu tố khác để góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình. Đạt được “hạnh
phúc” tức là đat được một thành tựu lớn từ sự cố gắng nhỏ của các thành viên trong một gia đình.
Câu 3 : Em hãy bình luận về tính đa văn hóa trong xã hội đa dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với sự đa dạng các truyền thống, sắc thái văn hóa
khác nhau. Sự đa dạng văn hóa ở Việt Nam thể hiện ở sự đa dạng trong các hình thức
biểu đạt văn hóa như nếp sống, phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật, ẩm thực, tri thức địa
phương... Sự đa dạng, phong phú của các thực hành và biểu đạt này là cơ sở quan
trọng cho sự tồn tại bền vững, giàu tính bản sắc và nhân văn của các tộc người.
Dựa trên quan điểm văn hóa vừa là sự thể hiện của sự thích ứng của con người đối với
các điều kiện tồn tại của họ vừa là một hệ các điều kiện mà ở đó con người phải thích
ứng, các nhà khoa học nhận định: Nếu coi thống nhất văn hóa từ đa dạng, muốn củng
cố sự thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa, mà
ở đây thể hiện rõ nhất là đa dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương (văn hóa
vùng). Sẽ không có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại dựa trên cơ
sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa.
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng đồng vốn là quy luật chung của sự phát
triển văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử, ngày nay thế
giới đang bước vào kỷ nguyên mới với sự giao lưu và hội nhập vô cùng sống động. Nó
là một động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa và rộng hơn nữa là sự phát triển xã hội.
Mọi sự đóng kín, đoạn tuyệt hay cản trở giao lưu, sự biệt lập giữa các cộng đồng đều
làm mất đi sinh lực, sức sống và thậm chí dẫn tới sự thoái hóa về mọi mặt của cộng
đồng. Thực tế các tộc người như Chứt, Thổ, các nhóm thiểu số quen gọi là “Xá lá vàng”
sinh sống ở vùng núi giáp giới giữa nước ta và Lào,... đã chứng minh điều đó. Ngoài ra,
bản sắc văn hóa tộc người ở Việt Nam cũng đồng nhất với ngôn ngữ, văn hóa và ý
thức tự giác, nhưng chỉ có thể biểu hiện một cách rõ ràng trong bối cảnh không gian cụ thể.
Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện
và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa
dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá
truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn
hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích
cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu,
hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam
đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu
tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai
trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong
phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân
đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.
bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào những hạn
chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hoá, tìm ra nguyên nhân và giải pháp
để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá
chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một
cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực,
động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây
dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức
năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về
hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học,
nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích
cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hoá vẫn bị ô
nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn
hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản
văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc
thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho
văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn
hoá trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài
chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng
mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá tốt
đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản
cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn hoá", "phản văn hoá").