ĐẠI HỌC UEH - TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA LUẬN CHÍNH TRỊ
----- -----
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC : CHỦ NGHĨA HỘI KHOA HỌC
GVHD : Hoàng An Quốc
Sinh viên thực hiện : Phan Thị Tường An
MSSV 31191024340
Lớp Ka : KM001 - K45
Mã lớp học phần : POL510025
Phòng học : N2-404
BÀI LÀM
Câu 1: quan điểm cho rằng: “Thời đại ngày nay thời đại của cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật công nghệ hiện đại nên giai cấp công nhân không
còn khả năng cách mạng. Vai trò đó do tầng lớp trí thức đảm nhận”. Anh (chị)
đồng ý với quan điểm trên không? Giải thích tại sao?
Em không đồng ý với quan điểm trên. Để giải thích cho ý kiến của mình, em xin đưa
ra một vài luận điểm như sau.
Giai cấp công nhân - như chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm sáng tỏ - mang trên mình một
sứ mệnh lịch sử rằng đây chính giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất
cũng chính giai cấp duy nhất khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động
bị áp bức, bóc lột tiến hành cách mạng sản, thực hành cuộc cải biến cách mạng, xóa
bỏ chủ nghĩa bản, xây dựng thành công hội mới - hội hội chủ nghĩa, tiến
tới hội cộng sản chnghĩa. Sứ mệnh này được quy định bởi địa vị kinh tế - hội
khách quan của giai cấp công nhân, do sự vận động nội tại của những mâu thuẫn
bản trong lòng hội bản do yêu cầu của sự phát triển của nền sản xuất đại
công nghiệp chứ không phải do ý muốn chủ quan của ai gán ghép cho . Ngoài ra,
giai cấp công nhân còn sản phẩm của nền đại công nghiệp. Điều này dẫn đến hệ quả
rằng trong khi các giai cấp khác ngày càng tiêu vong đi cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp thì giai cấp công nhân ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng cũng
như ngày càng chứng tỏ khả năng đoàn kết, tổ chức giai cấp quần chúng nhân dân
lao động thành một lực lượng hội hùng mạnh của mình do nhân được sự rèn luyện
của nền công nghiệp hiện đại. Sự phát triển không ngừng của nền đại công nghiệp đã
đòi hỏi tạo ra những điều kiện để giai cấp công nhân không ngừng nâng cao trình
độ của mình về mọi phương diện từ học vẫn, văn hóa, tay nghề đến ý thức tổ chức kỷ
luật cũng như khả năng quản lý và điều hành sản xuất, tổ chức xã hội. Vì vậy, sản xuất
công nghiệp càng hiện đại thì năng lực lao động trí tuệ, trình độ học vấn, văn hóa của
giai cấp công nhân càng được nâng cao.
Sự thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế - xã hội ở nhiều nước do tác động mạnh mẽ của
cách mạng khoa học - kỹ thuật đã gây ra nhiều chuyển biến sâu sắc về cấuhội
cấu giai cấp, đặc biệt giai cấp ng nhân. Đặc điểm của quá trình đó giảm số
lượng công nhân truyền thống, đặc biệt công nhân trực tiếp tham gia sản xuất vật
chất. Điều này tưởng chừng khiến cho giai cấp công nhân đã không còn khả năng cách
mạng nữa bởi lẽ giai cấp công nhân ngày càng ít đi không còn nghèo khổ nữa. Tuy
vậy, không thể phủ nhận thực tế rằng một số nước bản phát triển, đời sống
công nhân đã được cải thiện đáng kể. Nhưng không phảithế mà nói họ không còn bị
bóc lột không sống trong cảnh nghèo khổ nữa. Không thể phủ nhận rằng tại chính
các nước bản phát triển, tỷ lệ công nhân nghèo khổ, thất nghiệp, chữ, thiếu nhà
ở, sống trong điều kiện bấp bênh vẫn không hề nhỏ. Theo thống của chính phủ Mỹ,
hiện nay còn hơn 60 triệu người Mỹ sống dưới mức nghèo khổ, hàng triệu người
thất nghiệp hơn 80% số này không được hương trợ cấp thấp nghiệp (1). Sự chênh
lệch giàu nghèo thể hiện qua việc những người giàu chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại
sở hữu hơn 50% của cải của cả nước. Công nhân tại Mỹ bị bóc lột nặng nề với số giờ
làm việc trung bình trong một tuần đối với công nhân nam 45 giờ, nữ 41 giờ
họ phải làm việc trong điều kiện làm việc xuống cấp đến mức tồi tệ. Các chuyên gia
của tổ chức ECOSOC ghi nhận rằng tiền lương thực tế của công nhân các ớc bản
phát triển bị giảm đi, đội quân người nghèo những bất bình đẳng trong hội tăng
lên mạnh mẽ. Hơn nữa, nói rằng giai cấp công nhân ngày càng ít về số lượng là không
đúng với thực tế. Tuy số lượng công nhân truyền thống giảm đi, đội ngũ công nhân
“áo trắng” công nhân “áo vàng” lại ngày càng tăng tỷ lệ giai cấp công nhân so
với tổng số dân đang ng lên. Trong nền sản xuất hiện đại, đội ngũ công nhân được tri
thức hóa ngày càng chiếm số đông giai cấp công nhân trong từng nước trên
phạm vi thế giới ngày càng phát triển về lượng tăng lên về chất trên nhiều phương
diện. Tuy vậy, điều quyết định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trước hết do
họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến chứ không phải tình trạng nghèo khổ của
họ hay do số lượng ít hay nhiều. Mặc dù số lượng cần thiết, nhưng trên thực tế sức
mạnh của giai cấp công nhân lớn hơn nhiều so với slượng của nó nếu giải cấp công
nhân thống nhất được nội bộ giai cấp mình thực hiện được sự liên minh chặt chẽ
với quần chúng lao động. Vậy phải chăng do ngày nay khoa học đã trở thành lực ợng
sản xuất trực tiếp mà trí thức đã hòa nhập o giai cấp công nhân đang trở thành
lực lượng nòng cốt lãnh đạo các giai cấp, các tầng lớp khác đấu tranh chống giai cấp
sản? Trí thức có vai trò rất quan trọng, tực tiếp và đi đầu trong sự nghiệp phát triển các
thuyết khoa học - công nghệ, khoa học quản lý, khoa học quân sự, khoa học hội -
nhân văn, trong việc nâng cao dân trí trong một chế độ xã hội nhất định. Song, tầng
lớp trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng thay thế cho giai cấp công
nhân. Thực tế cách mạng thế giới cách mạng Việt Nam cho thấy, số đông trong đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng đều xuất thân từ tầng lớp trí thức, điều đó
không phải trí trức do vai trò lãnh đạo cách mạng; vấn đchỗ, những trí thức đó
đã từ bỏ lập trường của mình, tiếp thu luận khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, giác ng
sứ mệnh của giai cấp công nhân, đứng trên lập trường quan điểm của giai cấp công
nhân chiến đấu cho mục tiêu, tưởng của giai cấp công nhân; sức mạnh để đưa
đến những thắng lợi của cuộc cách mạng là sức mạnh của giai cấp công nhân và quần
chúng lao động.
u 2:
Thời kỳ quá độ là gì? Pn tích tính tất yếu và đặc điểm
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Dựa trên snào
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Việt Nam quá độ lên
chủ nghĩa hội b qua chế độ tư bản chủ nga?
Thời kỳ quá độ:
Là thời kỳ “chuyển biến” từ xã hội cũ (tư bản hoặc tiền tư bản) lên xã hội mới - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, thời kỳ này n thể được xem thời kỳ “cải biến
cách mạng” với nhiều yếu tố tồn tại đan xen giữa cũ và mới.
Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội:
Lịch sử hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - hội phát
triển từ thấp đến cao: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu lệ, phong kiến, bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tếhội khác, hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa sự khác biệt về chất. Do đó, từ hội tư bản chủ nghĩa
(hoặc tiền bản) lên hội công sản chủ nghĩa tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá
độ nhằm thích ứng với sự khác biệt đó.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội:
Đặc điểm bản của thời kỳ này chính sự cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để hội
bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, hội, xây dựng
từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần cho chủ nghĩa xã hội.
- Lĩnh vực kinh tế: Tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tương ứng với nhiều hình thức sở
hữu, phân phối khác nhau thành phần đối lập: kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng
hóa nhỏ, kinh tế bản, kinh tế bản nnước, kinh tế hội chnghĩa. Trong đó,
kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.
- Lĩnh vực chính trị: Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước hội chủ nghĩa nền
dân chủ hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh. Tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong điều kiện mới.
- Lĩnh vực tưởng - văn hóa: Trong thời kỳ này, vấn còn tồn tại những tàn của
nền văn hóa cũ, tưởng lạc hậu. Tuy nhiên, giai cấp công nhân thông qua Đảng
cộng sản, từng bước nh thành phát triển nền văn hóa mới hội chủ nghĩa, tiếp
thu giá trị tinh hóa của các nền văn hóa trên thế giới.
- Lĩnh vực hội: Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần, thời kỳ này tồn tại
nhiều giai - tầnghội cùng tồn tại sự khác biệt. Đây thời kỳ đấu tranh xóa bỏ
tàn dư của xã hội cũ, thực hiện công bằng xã hội.
Các sở để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Việt Nam quá độ lên chủ
nghĩa hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng đắn về học thuyết chủ nghĩa Mác -
Lênin sau nhiều năm nghiên cứu, thảo luận một cách khoa học n chủ. Để thể
tiến hành công cuộc đổi mới, quá độ lên chủ nghĩa hội một cách thực tế khách
quan nhất, Đảng ta đã nghiên cứu và đưa ra kết luận về những giá trị bền vững của chủ
nghĩa Mác - Lênin rằng đây một hệ giá trị bao gồm các nguyên , các học thuyết lý
luận nền tảng như: Học thuyết hình thái kinh tế - hội, học thuyết cách mạng hội,
về Đảng kiểu mới và nhà nước kiểu mới, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân vấn đề thời đại. Qua đó ta thấy được sự trưởng thành trong nhận thức sự
chính đáng khi đưa ra quyết định quá độ cũng như hiểu được cốt lõi của thời này
chính là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa. Đó là những vấn
đề chủ yếu nổi bật nhất. Thực tế cho thấy trong quá khứ, chúng ta đã lúc rơi vào
giản đơn, giáo điều trong nhận thức về chủ nghĩa Mác Lênin, gây ra nhiều hậu quả
khôn lường. Từ đó, để sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm, Đảng ta đã chú trọng hơn
vào việc nâng cao nhận thức đi vào sửa sai trong hoạt động thực tiễn. Với nền tảng
tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta đã vận dụng các sở luận làm kim chỉ
nam cho mọi hành động cách mạng. Cùng với một hệ động lực, bao gồm các loại động
lực vật chấttinh thần, các động lực bên trong và các động lực bên ngoài, Đảng ta
thể khẳng định rằng quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa sự
lựa chọn duy nhất đúng, khoa học và phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan cảu
cách mạng Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, nhân dân phù hợp với
quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình chủ nghĩahội khoa học
2. Vũ Văn Phúc (2009): Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. https://www.bls.gov/opub/reports/working-poor/2018/home.htm

Preview text:

ĐẠI HỌC UEH - TRƯỜNG KINH DOANH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ----- -----
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC GVHD : Hoàng An Quốc
Sinh viên thực hiện : Phan Thị Tường An MSSV 31191024340 Lớp – Khóa : KM001 - K45
Mã lớp học phần : POL510025 Phòng học : N2-404 BÀI LÀM
Câu 1: Có quan điểm cho rằng: “Thời đại ngày nay là thời đại của cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên giai cấp công nhân không
còn khả năng cách mạng. Vai trò đó do tầng lớp trí thức đảm nhận”. Anh (chị) có
đồng ý với quan điểm trên không? Giải thích tại sao?

Em không đồng ý với quan điểm trên. Để giải thích cho ý kiến của mình, em xin đưa
ra một vài luận điểm như sau.
Giai cấp công nhân - như chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm sáng tỏ - mang trên mình một
sứ mệnh lịch sử rằng đây chính là giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất và
cũng chính là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động
bị áp bức, bóc lột tiến hành cách mạng vô sản, thực hành cuộc cải biến cách mạng, xóa
bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến
tới xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh này được quy định bởi địa vị kinh tế - xã hội
khách quan của giai cấp công nhân, do sự vận động nội tại của những mâu thuẫn cơ
bản trong lòng xã hội tư bản và do yêu cầu của sự phát triển của nền sản xuất đại
công nghiệp chứ không phải do ý muốn chủ quan của ai gán ghép cho nó
. Ngoài ra,
giai cấp công nhân còn là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Điều này dẫn đến hệ quả
rằng trong khi các giai cấp khác ngày càng tiêu vong đi cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp thì giai cấp công nhân ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng cũng
như ngày càng chứng tỏ khả năng đoàn kết, tổ chức giai cấp và quần chúng nhân dân
lao động thành một lực lượng xã hội hùng mạnh của mình do nhân được sự rèn luyện
của nền công nghiệp hiện đại. Sự phát triển không ngừng của nền đại công nghiệp đã
đòi hỏi và tạo ra những điều kiện để giai cấp công nhân không ngừng nâng cao trình
độ của mình về mọi phương diện từ học vẫn, văn hóa, tay nghề đến ý thức tổ chức kỷ
luật cũng như khả năng quản lý và điều hành sản xuất, tổ chức xã hội. Vì vậy, sản xuất
công nghiệp càng hiện đại thì năng lực lao động trí tuệ, trình độ học vấn, văn hóa của
giai cấp công nhân càng được nâng cao.
Sự thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế - xã hội ở nhiều nước do tác động mạnh mẽ của
cách mạng khoa học - kỹ thuật đã gây ra nhiều chuyển biến sâu sắc về cơ cấu xã hội và
cơ cấu giai cấp, đặc biệt là giai cấp công nhân. Đặc điểm của quá trình đó là giảm số
lượng công nhân truyền thống, đặc biệt là công nhân trực tiếp tham gia sản xuất vật
chất. Điều này tưởng chừng khiến cho giai cấp công nhân đã không còn khả năng cách
mạng nữa bởi lẽ giai cấp công nhân ngày càng ít đi và không còn nghèo khổ nữa. Tuy
vậy, dù không thể phủ nhận thực tế rằng ở một số nước tư bản phát triển, đời sống
công nhân đã được cải thiện đáng kể. Nhưng không phải vì thế mà nói họ không còn bị
bóc lột và không sống trong cảnh nghèo khổ nữa. Không thể phủ nhận rằng tại chính
các nước tư bản phát triển, tỷ lệ công nhân nghèo khổ, thất nghiệp, mù chữ, thiếu nhà
ở, sống trong điều kiện bấp bênh vẫn không hề nhỏ. Theo thống kê của chính phủ Mỹ,
hiện nay còn hơn 60 triệu người Mỹ sống dưới mức nghèo khổ, có hàng triệu người
thất nghiệp và hơn 80% số này không được hương trợ cấp thấp nghiệp (1). Sự chênh
lệch giàu nghèo thể hiện qua việc những người giàu có chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại
sở hữu hơn 50% của cải của cả nước. Công nhân tại Mỹ bị bóc lột nặng nề với số giờ
làm việc trung bình trong một tuần đối với công nhân nam là 45 giờ, nữ là 41 giờ và
họ phải làm việc trong điều kiện làm việc xuống cấp đến mức tồi tệ. Các chuyên gia
của tổ chức ECOSOC ghi nhận rằng tiền lương thực tế của công nhân các nước tư bản
phát triển bị giảm đi, đội quân người nghèo và những bất bình đẳng trong xã hội tăng
lên mạnh mẽ. Hơn nữa, nói rằng giai cấp công nhân ngày càng ít về số lượng là không
đúng với thực tế. Tuy số lượng công nhân truyền thống có giảm đi, đội ngũ công nhân
“áo trắng” và công nhân “áo vàng” lại ngày càng tăng và tỷ lệ giai cấp công nhân so
với tổng số dân đang tăng lên. Trong nền sản xuất hiện đại, đội ngũ công nhân được tri
thức hóa ngày càng chiếm số đông và giai cấp công nhân trong từng nước và trên
phạm vi thế giới ngày càng phát triển về lượng và tăng lên về chất trên nhiều phương
diện. Tuy vậy, điều quyết định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trước hết là do
họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến chứ không phải ở tình trạng nghèo khổ của
họ hay do số lượng ít hay nhiều. Mặc dù số lượng là cần thiết, nhưng trên thực tế sức
mạnh của giai cấp công nhân lớn hơn nhiều so với số lượng của nó nếu giải cấp công
nhân thống nhất được nội bộ giai cấp mình và thực hiện được sự liên minh chặt chẽ
với quần chúng lao động. Vậy phải chăng do ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp mà trí thức đã hòa nhập vào giai cấp công nhân và nó đang trở thành
lực lượng nòng cốt lãnh đạo các giai cấp, các tầng lớp khác đấu tranh chống giai cấp tư
sản? Trí thức có vai trò rất quan trọng, tực tiếp và đi đầu trong sự nghiệp phát triển các
lý thuyết khoa học - công nghệ, khoa học quản lý, khoa học quân sự, khoa học xã hội -
nhân văn, … trong việc nâng cao dân trí trong một chế độ xã hội nhất định. Song, tầng
lớp trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng thay thế cho giai cấp công
nhân. Thực tế cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam cho thấy, số đông trong đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng đều xuất thân từ tầng lớp trí thức, điều đó
không phải là trí trức do vai trò lãnh đạo cách mạng; vấn đề ở chỗ, những trí thức đó
đã từ bỏ lập trường của mình, tiếp thu lý luận khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, giác ngộ
sứ mệnh của giai cấp công nhân, đứng trên lập trường quan điểm của giai cấp công
nhân và chiến đấu cho mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân; sức mạnh để đưa
đến những thắng lợi của cuộc cách mạng là sức mạnh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động
.
Câu 2: Thời kỳ quá độ là gì? Phân tích tính tất yếu và đặc điểm
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dựa trên cơ sở nào
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Việt Nam quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa?

Thời kỳ quá độ:
Là thời kỳ “chuyển biến” từ xã hội cũ (tư bản hoặc tiền tư bản) lên xã hội mới - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, thời kỳ này còn có thể được xem là thời kỳ “cải biến
cách mạng” với nhiều yếu tố tồn tại đan xen giữa cũ và mới.
Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội phát
triển từ thấp đến cao: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã hội khác, hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất. Do đó, từ xã hội tư bản chủ nghĩa
(hoặc tiền tư bản) lên xã hội công sản chủ nghĩa tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá
độ nhằm thích ứng với sự khác biệt đó.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ này chính là sự cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội
tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng
từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần cho chủ nghĩa xã hội.
- Lĩnh vực kinh tế: Tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tương ứng với nhiều hình thức sở
hữu, phân phối khác nhau và có thành phần đối lập: kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng
hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.
- Lĩnh vực chính trị: Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh. Tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong điều kiện mới.
- Lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: Trong thời kỳ này, vấn còn tồn tại những tàn dư của
nền văn hóa cũ, tư tưởng cũ lạc hậu. Tuy nhiên, giai cấp công nhân thông qua Đảng
cộng sản, từng bước hình thành và phát triển nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp
thu giá trị tinh hóa của các nền văn hóa trên thế giới.
- Lĩnh vực xã hội: Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần, thời kỳ này tồn tại
nhiều giai - tầng xã hội cùng tồn tại và có sự khác biệt. Đây là thời kỳ đấu tranh xóa bỏ
tàn dư của xã hội cũ, thực hiện công bằng xã hội.
Các cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Việt Nam quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức đúng đắn về học thuyết chủ nghĩa Mác -
Lênin sau nhiều năm nghiên cứu, thảo luận một cách khoa học và dân chủ. Để có thể
tiến hành công cuộc đổi mới, quá độ lên chủ nghĩa xã hội một cách thực tế và khách
quan nhất, Đảng ta đã nghiên cứu và đưa ra kết luận về những giá trị bền vững của chủ
nghĩa Mác - Lênin rằng đây là một hệ giá trị bao gồm các nguyên lý, các học thuyết lý
luận nền tảng như: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết cách mạng xã hội,
về Đảng kiểu mới và nhà nước kiểu mới, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân và vấn đề thời đại. Qua đó ta thấy được sự trưởng thành trong nhận thức và sự
chính đáng khi đưa ra quyết định quá độ cũng như hiểu rõ được cốt lõi của thời kì này
chính là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là những vấn
đề chủ yếu nổi bật nhất. Thực tế cho thấy trong quá khứ, chúng ta đã có lúc rơi vào
giản đơn, giáo điều trong nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, gây ra nhiều hậu quả
khôn lường. Từ đó, để sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm, Đảng ta đã chú trọng hơn
vào việc nâng cao nhận thức và đi vào sửa sai trong hoạt động thực tiễn. Với nền tảng
tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta đã vận dụng các cơ sở lý luận làm kim chỉ
nam cho mọi hành động cách mạng. Cùng với một hệ động lực, bao gồm các loại động
lực vật chất và tinh thần, các động lực bên trong và các động lực bên ngoài, Đảng ta có
thể khẳng định rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự
lựa chọn duy nhất đúng, khoa học và phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan cảu
cách mạng Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, nhân dân và phù hợp với
quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
2. Vũ Văn Phúc (2009): Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. https://www.bls.gov/opub/reports/working-poor/2018/home.htm