








Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
.
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN:CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ BÀI: Bằng
kiến thức đã học, Anh (chị) hãy trả lời các yêu cầu sau:
1. Có quan điểm cho rằng: “Thời đại ngày nay là thời đại của
cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên giai
cấp công nhân không còn khả năng cách mạng. Vai trò đó do tầng
lớp tri thức đảm nhận”. Anh (chị) cố đồng ý với quan điểm trên
không? Giải thích tại sao?
2. Vì sao trong thời kỳ quá độ và trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo
vẫn tồn tại? Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Căn cứ vào quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin và từ đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam, hãy đề xuất
những giải pháp thiết thực, cụ thể, nhằm thực hiện tốt chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Giảng viên
: TS. Nguyễn Khánh Vân Môn học
: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã lớp học phần : POL510025 PHÒNG: B2-407 Họ và tên : Nguyễn Thị Thương Mã số sinh viên : 88224020049
Thành phố Hồ Chí Minh, 14 tháng 01năm2023 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Câu 1:........................................................................................................................... 1
Câu 2:........................................................................................................................... 2
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 6 MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một thuật ngữ nêu ra để mô tả các lý thuyết về
kinh tế, chính trị, xã hội do Karl Marx và ông sáng tạo. Thuật ngữ này đối lập với chủ
nghĩa xã hội không tưởng vì nó trình bày một cách có hệ thống và nêu lên được những
điều kiện và tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đó cũng là con đường chỉ rõ hiện thực dựa vào khoa học để loại bỏ tình trạng
người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã mơ
ước nhưng không thể thực hiện được.
Sau quá trình học môn Chủ nghĩa xã hội khoa học trong học kỳ vừa rồi, trong
bài tiểu luận lần này em đi vào giải quyết yêu cầu của đề bài như sau: Câu 1:
Có quan điểm cho rằng: “Thời đại ngày nay là thời đại của cuộc cách mạng
khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên giai cấp công nhân không còn khả năng
cách mạng. Vai trò đó do tầng lớp trí thức đảm nhận”. em không đồng ý với quan điểm này vì:
Với sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp công
nhân - chủ thể và là sản phẩm xã hội của nền “đại công nghiệp”, đã trở thành luận
chứng thực tiễn cho phát hiện lý luận vĩ đại của C. Mác về “sứ mệnh lịch sử toàn thế
giới của giai cấp công nhân”
C. Mác khẳng định, giai cấp công nhân là chủ thể của phương thức sản xuất
công nghiệp với các đặc tính: công cụ lao động là máy móc, năng suất lao động cao,
lao động có tính chất xã hội hóa cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho quá trình
phát triển xã hội. Chính từ quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp,
giai cấp công nhân được xác định là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội hiện đại và thông qua đó, chuẩn bị những tiền đề vật chất cho xã hội tương lai1. Về
lô-gíc, có hai nội dung lý luận cơ bản cần được chú ý ở phương diện này:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội
hiện đại bằng phương thức công nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Xã hội nào cũng tồn
tại và phát triển thông qua quá trình sản xuất và tiêu thụ của cải vật chất. Với tư cách
là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp và tham gia quá trình sản xuất, tái sản
xuất của cải vật chất, giai cấp công nhân góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển
xã hội. Thêm vào đó, tính chất xã hội hóa ngày càng tăng của sản xuất cũng làm nảy
sinh những nhân tố mang tính chất xã hội trong quá trình phát triển. Công nghiệp càng
phát triển thì tính chất xã hội hóa này ngày càng cao. Nội dung kinh tế này là yếu tố
sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với
quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội dung
kinh tế này cũng là điều kiện vật chất để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, cũng từ quá trình sản xuất công nghiệp này, những nhân tố vật chất kỹ
thuật cho sự hình thành một xã hội mới được tích lũy ngày một nhiều hơn. Cũng vì
vậy, C. Mác coi cách mạng công nghiệp cùng những yếu tố cấu thành của nó, như máy
móc, cách thức tổ chức quản lý sản xuất, trình độ cao của lao động và hợp tác lao động
công nghiệp... là “những nhà cách mạng” khiến xã hội hiện tại không thể duy trì trạng thái cũ.
Hai lô-gíc căn bản đó đang tiếp diễn với mức độ sâu sắc và rộng lớn hơn trong
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo quan niệm của C. Mác, sở dĩ giai cấp công
1 Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa xã hội khoa học”,
Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2018, t. 3, tr. 34 - 59 1
nhân có sứ mệnh lịch sử là vì họ là giai cấp đại diện cho xu thế xã hội hóa của lực
lượng sản xuất hiện đại. Trong sản xuất công nghiệp, họ vừa là “sản phẩm của nền đại
công nghiệp”, vừa là chủ thể của quá trình này. Do gắn liền với phương thức lao động
này, giai cấp công nhân có được những phẩm chất, như tính tổ chức, kỷ luật lao động,
tinh thần hợp tác, tâm lý lao động công nghiệp... Đó là những phẩm chất cần thiết cho
một giai cấp cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay vai trò của khoa học kỹ thuật tác động vào sản xuất ngày càng lớn , do
đó đã và đang xuất hiện một đội ngũ công nhân kỹ thuật hiện đại, được tri thức hoá và
chuyên môn hoá cao. Đó là những công nhân trí thức hoá và những trí thức công nhân
hoá, họ đang điều khiển những dây chuyền sản xuất tự động, làm ra những sản phẩm
mang hàm lượng trí tuệ cao. Nhưng không phải vì thế mà nói rằng những người này đã
hoàn toàn tách ra khỏi giai cấp công nhân, biến thành trí thức. Rõ ràng, trong điều kiện
khoa học-kỹ thuật phát triển, công nhân vẫn giữ vị trí quyết định trong nền sản xuất
hiện đại. Giai cấp công nhân hiện đại không chỉ là những người lao động chân tay mà
còn có cả một bộ phận những người lao động trí óc gắn trực tiếp với quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Trí thức có vai trò rất quan trọng , trực tiếp và đi đầu trong sự nghiệp phát triển
các lýthuyết khoa học – công nghệ , khoa học quản lý , khoa học quân sự , khoa học xã
hội – nhân văn,... trong việc nâng cao dân trí trong một chế độ xã hội nhất định. Song,
tầng lớp trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng thay thế giai cấp công nhân.
Thực tế cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam cho thấy, số đông trong đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng đều xuất thân từ tầng lớp trí thức, điều đó
không phải là trí thức có vai trò lãnh đạo cách mạng. Vấn đề là ở chỗ, những trí thức
đó đã từ bỏ lập trường xuất thân của mình, tiếp thu lý luận khoa học chủ nghĩa Mác -
Lênin , giác ngộ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đứng trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân, chiến đấu cho mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công
nhân ; sức mạnh để đưa đến những thắng lợi của cuộc cách mạng là sức mạnh của giai
cấp công nhân và quần chúng lao động. Trí thức có vai trò rất to lớn trong cuộc đấu
tranh giành chính quyền và trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Vì vậy, giai cấp
công nhân cần phải có chính sách đúng đắn để thu hút đội ngũ trí thức phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp cách mạng của mình trong mỗi giai đoạn cách mạng. Đồng thời , giai
cấp công nhân phải chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức của mình, nhất là trong nền
sản xuất hiện đại trong sự nghiệp cải biến cách mạng, xây dựng xã hội mới. Trí thức
chỉ phát huy được sức mạnh của mình khi gắn với một giai cấp đại diện cho sự tiến
hóa của xã hội loài người hiện nay. Giai cấp đó là giai cấp công nhân. Câu 2:
Trong thời kỳ quá độ và trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn tồn tại vì:
Đầu tiên là về nguyên nhân nhận thức: thế giới khách quan là vô cùng tân,
nhiều hiện tượng tự nhiên đến nay con người vẫn chưa giải thích được. Do vậy tâm lý
sợ hãi, trông chờ và nhờ cậy, tin tưởng vào thần thánh…chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức
của con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo là nguyên nhân tâm lý: tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài
người, ăn sâu vào trong tiềm thức của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn
giáo lại là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo
đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của
một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá 2
tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao
về kinh tế, chính trị, xã hội… thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo
tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Sau đó là nguyên nhân chính trị, xã hội: trong các nguyên tắc tôn giáo có những
điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ… còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo
sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện
thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
Tiếp đến là nguyên nhân kinh tế: trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Sự
bất bình đẳng về kinh tế, văn hoá, xẫ hội vẫn là mọt thực tế. Đời sống vật chất của
người dân chưa cao thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu
nhiên may rủi. Điều đó làm con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào
những lực lượng siêu nhiên.
Cuối cùng là nguyên nhân văn hoá: do lợi ích đáp ứng mức độ nào đó nhu cầu
văn hoá, tinh thần, giáo dục cộng đồng, đạo đức, phong cách lối sống của người dân.
Vì vậy việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại trong đó
có đạo đức tôn giáo là cần thiết.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về đề tôn giáo: * Khái niệm
Tôn giáo là một hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sung bái một hay nhiều
vị thần linh và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy
Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động
bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức
* Bản chất tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo hiện thực khách quan,
thông qua hệ thống các biểu tượng siêu nhiên và niềm tin.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
và lịch sử xã hội xác định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự yếu thế, bất lực, bế tắc của con
người trước tự nhiên, xã hội và trước các thế lực trong đời sống.
Về mặt hình thức. biểu hiện: mỗi tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín
ngưỡng, các quy định kiêng cữ, cấm kỵ, các hình thức về thờ cúng, lễ bái và những cơ
sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo
* Nguồn gốc tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo:
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người
cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho
tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa nhứn sức mạnh đó. Từ đó,
họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực
trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của
sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và định
mệnh. Từ đó, họ đã thần thành hóa một số người thành những thần tượng có khả năng
chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo. 3
Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng
về kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc sâu xa của
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân mình còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều
khoa học chưa khám phá và giải thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo.
Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo
tưởng, thần thành hóa đối tượng.
Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà
dẫn đến việc ính ra tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ
hãi sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản
…. sự phá sản “đột ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt vong …, dồn họ vào
cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi
được thể hiện qua tôn giáo.
* Tính chất lịch sử của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù nó còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là
một phạm trù lịch sử. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con
người đạt tới mức độ nhất định.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tôn giáo có sự
biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi,
tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhận thức được bản chất các
hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được tự nhiên, xã hội, làm chủ
được bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con người thì tôn giáo sẽ không còn.
Tính quần chúng của tôn giáo
Tôn giáo là nơi sinh hoặt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng
nhân dân lao động. Hiện nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới.
Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của những
con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bát ái … Bởi vì, tôn giáo thường
có tính nhân văn, nhân đạo hướng thiện. Vì vậy, còn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội.
Tính chính trị của tôn giáo
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chi giai cấp, các giai
cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
Trong nội bộ tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái nhiều khi cũng
mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường là một
bộ phận của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không chỉ
ở quốc gia mà còn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện các tổ chức quốc tế của tôn
giáo với thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt, trong đó có chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rõ: đa số quần chúng đến với tôn giáo nhằm thõa mãn 4
nhu cầu tinh thần; song trên thực tế đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi
dụng để thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.
Đặc điểm tôn giáo Việt Nam
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, không
kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm
linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và
tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng
với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ
giữa người có tôn giáo và người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng,
xã, có nhóm tín đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác
hoặc với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng họ.
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người
nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư
tưởng tôn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và
con Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều
hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo
nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các tín
ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm năm tồn tại, phát
triển, văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa và trở thành một bộ phận của
văn hóa Việt Nam (dù không thuần nhất).
Bốn là, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc,
phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan
đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.
Đề xuất giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và nhà
nước Việt Nam
Một là, tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của
hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo. Trong đó, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và
Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu
hành và tín đồ các tôn giáo. Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và
thống nhất Tổ quốc. Làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ
nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ gìn và phát huy truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc
và nhân dân, tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo.
Hai là, tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị
ở cơ sở. Chú trọng thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Đổi mới nội dung, phương
thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo phù hợp với đặc điểm của đồng
bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
Ba là, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo. Trong đó, tăng cường đầu tư và
thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát
triển kinh tế - văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân 5
các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc
miền núi còn nhiều khó khăn.
Bốn là, tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo. Xây dựng và
thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đảm bảo chế độ chính
sách đối với đội ngũ làm công tác tôn giáo; quan tâm thỏa đáng việc đào tạo, bồi
dưỡng với đối tượng này. KẾT LUẬN
Có thể nói, Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những cơ sở lý luận và
phương pháp luận của nhiều khoa học xã hội chuyên ngành, đồng thời là cơ sở lý luận
giúp cho các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế xác định con đường đi, định hướng
hành động đúng đắn cho đường lối chiến lược, sách lược, chính sách phù hợp vói quy
luật phát triển khách quan. Do đó, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải
vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học. 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2014
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc các khóa từ: X -
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, 2006, 2011 và 2016
4. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (2007), NXB Bộ giáo dục
5. Nguyễn Mạnh Hưởng, Phải chăng ngày nay giai cấp công nhân không còn sứ mệnh lịch sử?, 2012
6. Nguyễn An Ninh: Để hệ giá trị của giai cấp công nhân Việt Nam trở thành hệ giá trị
của toàn xã hội, Tạp chí Triết học, tháng 5-2008
7. Thông tin Lý luận Chính trị - Bản tin của Hội đồng Lý luận Trung ương, số 40 (113), tháng 11-2011
8. ThS Nguyễn Ngọc Hương - Ban Tôn giáo Chính phủ (10/09/2021), Quan điểm của
Đảng ta về tôn giáo trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
9. Tràng An (21/07/2021), Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo 7