












Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC UEH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài 6:TRÌNH BÀY SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA DÂN CHỦ. PHÂN TÍCH BẢN CHẤT CỦA NỀN
DÂN CHỦ XHCN. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CỦA NỀN
DÂN CHỦ XHCN Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 6
TP Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 02 năm 2025
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Thầy Nguyễn Minh Tuấn -
giảng viên bộ môn Chủ nghĩa Khoa học Xã hội vì đã tận tình hướng dẫn và giảng dạy
kiến thức quý báu trong quá trình học tập để nhóm chúng em có thể hoàn thiện bài
một cách hoàn chỉnh nhất. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy! Tuy nhiên, do còn
nhiều hạn chế về mặt kiến thức và kinh nghiệm, nhóm chúng em rất mong Thầy có thể
bỏ qua những sai sót không tránh khỏi trong quá trình thực hiện. Một lần nữa, chúng
em xin chân thành cảm ơn Thầy và mong nhận được sự góp ý của Thầy để em có thể
hoàn thiện hơn trong tương lai.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ là một thành tựu quan trọng trong quá trình phát triển của nền văn
minh nhân loại, phản ánh quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, khái niệm dân chủ không ngừng được mở rộng và
hoàn thiện, trở thành nền tảng cho sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Trong
đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một mô hình dân chủ tiến bộ, thể hiện
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu và động lực phát triển.
Việt Nam, với tư cách là một quốc gia đi theo con đường XHCN, xác định dân
chủ XHCN vừa là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu và động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền dân chủ
XHCN không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới,
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa
và chuyển đổi số hiện nay, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ, phát huy quyền
làm chủ thực sự của nhân dân và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh
đang đặt ra nhiều yêu cầu cấp thiết. Những thách thức này đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu, đánh giá khách quan để đề xuất các định hướng phù hợp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm chúng em lựa chọn đề
tài tiểu luận với mong muốn làm rõ sự ra đời và phát triển của dân chủ qua các thời
kỳ, bản chất của nền dân chủ XHCN cũng như vai trò của nhà nước XHCN trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài tiểu luận không chỉ hệ thống hóa các khái niệm
và lý luận về dân chủ mà còn phân tích những yếu tố cốt lõi của nền dân chủ XHCN
trên các mặt chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa - xã hội. Đồng thời, nhóm sẽ đánh
giá thực trạng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các định hướng
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, góp phần củng cố nhà nước pháp quyền XHCN.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài tiểu luận nhằm làm rõ các vấn đề lý luận trọng tâm về dân chủ và nhà nước
trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với các mục tiêu sau:
- Nghiên cứu các quan niệm khác nhau về dân chủ, sự ra đời và quá trình phát
triển của nó trong lịch sử.
- Phân tích bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua việc làm rõ các
khía cạnh chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa - xã hội của nền dân chủ XHCN.
- Phân tích thực trạng và đưa ra các định hướng để xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và đường lối chính sách
về nền dân chủ. Từ đó, liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân với quá trình phát
triển nền dân chủ ở Việt Nam.
- Ngoài ra, nghiên cứu còn hướng đến việc làm phong phú cơ sở lý luận và cung
cấp luận cứ khoa học cho quá trình hoạch định chính sách xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. B. NỘI DUNG
1. Sự ra đời và phát triển của dân chủ
1.1. Quan niệm về dân chủ
Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ Từ trước Công nguyên, cách đây hàng
ngàn năm, con người đã biết hợp lực với nhau để sản xuất, để chống lại thiên tai, thú
dữ và tự tổ chức những hoạt động chung mang tính xã hội. Trong đó, họ bầu ra những
người lãnh đạo để thực thi các quy tắc chung và có quyền loại bỏ nếu những người
này không đáp ứng được lợi ích của cộng đồng. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện,
giai cấp chủ nô thành lập nhà nước và gọi đó là nhà nước dân chủ – thực chất là một
nhà nước do chủ nô kiểm soát, thống trị đa số người lao động là nô lệ. Chính trong
giai đoạn này, khái niệm "dân chủ" lần đầu tiên được sử dụng, nhưng quyền lực thực
sự lại chỉ thuộc về giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, trí thức và một số người tự do,
trong khi đại đa số nhân dân – những người bị biến thành nô lệ – không được coi là "dân".
Về bản chất, đây là một nhà nước được giai cấp tư hữu lập ra nhằm hợp pháp
hóa sự áp bức và bóc lột nhân dân lao động. Trải qua hàng nghìn năm, dù có nhiều
hình thức nhà nước và giai cấp khác nhau, nhưng quyền lực thực sự vẫn thuộc về
những nhóm thống trị. Mãi đến cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một kỷ
nguyên mới của nhân dân lao động mới thực sự bắt đầu. Họ giành được chính quyền,
sở hữu tư liệu sản xuất và thiết lập một nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm
bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Nhìn chung, từ lâu con người đã có nhu cầu
và từng bước thực hiện quyền dân chủ – đó chính là việc nhân dân thực thi quyền lực của mình trong xã hội.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ bao gồm: Thứ nhất, về
phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân
của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân - quyền dân chủ được hiểu theo
nghĩa rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước thuộc
sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà
phục vụ. Và do vậy, chỉ khi mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì khi đó,
mới có thể đảm bảo về căn bản việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách
một quyền lợi. Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị,
dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân
chủ. Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc -
nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác – Lênin kế thừa những yếu tố hợp lý từ thực tiễn và nhận thức
của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là quan điểm cho rằng dân chủ chính là quyền lực
thuộc về nhân dân. Mỗi hình thức dân chủ đều gắn liền với nhà nước và mang bản
chất của giai cấp thống trị trong xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng có nhiều mô hình
dân chủ khác nhau, bao gồm dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ vô sản. Do đó,
ngay từ khi xuất hiện, dân chủ luôn tồn tại như một phạm trù mang tính lịch sử và
chính trị. Sự ra đời của nhà nước dân chủ cũng đồng nghĩa với việc dân chủ được thể
hiện dưới dạng một hình thức nhà nước, trong đó có cơ chế bầu cử, bãi miễn các thành
viên chính quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật và công nhận rằng "quyền lực thuộc
về nhân dân". Tuy nhiên, nó cũng luôn đi đôi với hệ thống chuyên chính của giai cấp
thống trị trong xã hội. Mỗi chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp
thống trị nắm quyền, chi phối mọi lĩnh vực trong xã hội. Chính vì vậy, bản chất giai
cấp thống trị không chỉ ảnh hưởng đến dân chủ mà còn tác động đến chính trị, kinh tế,
văn hóa và đời sống xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện thực tiễn của Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm về dân chủ theo hai hướng
chính: Thứ nhất, Người xem dân chủ là một giá trị mang tính toàn cầu, thuộc về nhân
loại nói chung. Theo đó, dân chủ đồng nghĩa với việc nhân dân nắm giữ quyền làm
chủ đất nước. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ. Thứ hai, dân chủ không chỉ là một khái niệm mà còn là một thể chế chính
trị và một chế độ xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân.”
Điều này có nghĩa rằng chính quyền dân chủ là chính quyền do nhân dân làm chủ. Khi
đất nước đã trở thành một quốc gia dân chủ, thì dân chính là người làm chủ thực sự,
còn các vị trí lãnh đạo như Chủ tịch, bộ trưởng hay các quan chức khác chỉ là những
người phục vụ nhân dân, chứ không phải là những “quan cách mạng.” Như vậy, dân
chủ có thể hiểu là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là
một phạm trù chính trị gắn với các hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm
quyền; là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.
1.2. Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người, gắn liền với nhu cầu tổ
chức và quản lý xã hội. Từ thời nguyên thủy, con người đã hợp tác sản xuất, chống
thiên tai và thú dữ, hình thành những hoạt động mang tính cộng đồng. Hình thức dân
chủ đầu tiên là “dân chủ nguyên thủy” hay “dân chủ quân sự,” nơi mọi thành viên
cộng đồng tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng thông qua “Đại hội
nhân dân.” Thủ lĩnh quân sự được bầu chọn trực tiếp.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, chế độ tư hữu và giai cấp ra đời, “dân chủ
nguyên thủy” dần nhường chỗ cho “dân chủ chủ nô,” gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ.
Lúc này, chỉ giai cấp chủ nô và một số công dân tự do được tham gia chính trị, trong
khi đại đa số nô lệ bị loại khỏi đời sống chính trị. Chế độ này thực chất chỉ là dân chủ
cho thiểu số nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp cầm quyền.
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ sụp đổ, xã hội chuyển sang chế độ phong kiến với
quyền lực tập trung vào tay lãnh chúa và vua chúa. Thời kỳ này chứng kiến sự khủng
hoảng của ý thức dân chủ, khi thần quyền được sử dụng để củng cố quyền lực thống
trị. Đến cuối thế kỷ XIV, giai cấp tư sản phát triển với tư tưởng tự do và công bằng đã
mở đường cho nền dân chủ tư sản. Tuy đây là bước tiến lớn trong việc đề cao quyền
tự do và bình đẳng, nhưng dân chủ tư sản vẫn chủ yếu phục vụ thiểu số nắm giữ tư liệu sản xuất.
Đến năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, một thời đại
mới mở ra khi nhiều quốc gia bắt đầu chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Nhân dân lao động giành được quyền làm chủ nhà nước và xã hội, thiết lập nền
dân chủ vô sản, hay còn gọi là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là nền dân chủ thực sự
đặt quyền lực vào tay đại đa số nhân dân, hướng đến bảo vệ quyền lợi của tầng lớp lao
động và xây dựng một xã hội công bằng hơn. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, có ba
hình thức dân chủ chính: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa,
mỗi giai đoạn gắn với sự phát triển và biến đổi của xã hội loài người.
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ vô sản, theo V.I.Lênin, không phải là dân chủ cho tất cả mọi người mà
dành cho quần chúng lao động và bị bóc lột, nhằm phục vụ lợi ích của đa số. Trong
chủ nghĩa xã hội, dân chủ bao trùm mọi lĩnh vực, đặc biệt dân chủ kinh tế là nền tảng.
Dân chủ vô sản loại bỏ quyền dân chủ của các giai cấp đối lập, đưa quần chúng trở
thành chủ thể của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là đỉnh cao của tiến trình dân chủ,
mang ba bản chất: chính trị, kinh tế và tư tưởng – văn hóa – xã hội. Có thể hiểu dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền
dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân
chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2.1. Bản chất chính trị
Bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định bởi sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân thông qua một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản, nhằm thực
hiện quyền lực và lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn của toàn thể nhân
dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực
xã hội, thể hiện qua việc tham gia quản lý nhà nước, đóng góp ý kiến xây dựng chính
sách, pháp luật, và giới thiệu đại biểu vào các cơ quan chính quyền từ trung ương đến
địa phương. Đây là nền dân chủ vì lợi ích của đa số, mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi lợi ích đều vì nhân dân. Nền dân chủ này khác
biệt về chất so với nền dân chủ tư sản, bởi sự lãnh đạo nhất nguyên của một đảng duy
nhất, đại diện cho trí tuệ và lợi ích của toàn dân tộc, thay vì cơ chế đa nguyên và nhiều
đảng phái như trong dân chủ tư sản. Chính điều này đảm bảo quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, làm nên bản chất ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.2. Bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội dựa trên nền tảng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa
học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn biểu hiện ở sự kế thừa,
phát triển những thành tựu đạt được của nhân loại trong lịch sử, đồng thời loại bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của các chế độ kinh tế trước đó
cũng như sự áp bức bóc lột đối với nhân dân. Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế
độ phân phối lợi ích lao động và chỉ được bộc lộ đầy đủ thông qua quá trình ổn định
chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, quản lý nhà nước, phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống của toàn xã hội.
Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân
phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
Ví dụ: Nhà nước ban hành những chính sách đốc thúc công nghiệp phát triển từ trung
ương đến địa phương, tạo ra ngành nghề cho nhân dân nhằm giảm bớt tình trạng thất
nghiệp. Qua đó tạo động lực cho nhân dân cũng như tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
2.3. Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng Mác –
Lênin, phản ánh lợi ích và mục tiêu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây
không chỉ là một hệ tư tưởng chính trị mà còn là kim chỉ nam cho sự phát triển văn
hóa và xã hội, nhằm xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ, nơi con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất công. Bên cạnh việc kế thừa và phát huy những tinh hoa văn
hóa truyền thống của các dân tộc, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn tiếp thu có chọn
lọc những giá trị tiến bộ và thành tựu văn minh của nhân loại. Điều này thể hiện ở việc
tôn trọng sự đa dạng văn hóa, thúc đẩy giao lưu quốc tế, đồng thời giữ gìn bản sắc dân
tộc, tạo ra một nền văn hóa mang tính nhân văn, phục vụ con người và sự phát triển bền vững.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân không chỉ là chủ thể của quyền
lực chính trị mà còn là người làm chủ các giá trị văn hóa tinh thần. Nhà nước có trách
nhiệm tạo điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân được tiếp cận và hưởng thụ thành tựu
văn hóa, đồng thời nâng cao trình độ tri thức, phát triển toàn diện về mặt nhân cách, tư
duy và năng lực sáng tạo. Chính vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là một
chế độ chính trị mà còn là một thành tựu văn hóa quan trọng, góp phần nâng cao đời
sống tinh thần, tạo nền tảng cho sự phát triển con người và xã hội theo hướng công
bằng, tiến bộ và văn minh.
Ví dụ: Nhà nước ban hành Bộ luật giáo dục, quy định mọi công dân không phân biệt
tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội,
hoàn cảnh gia đình, tuổi tác đều được bình đẳng về cơ hội học tập. Đồng thời, Nhà
nước cũng ban hành nhiều chính sách hỗ trợ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, con của
thương binh hoặc người khuyết tật.
Như vậy, dân chủ có mối quan hệ mật thiết với quyền sống của con người và là
nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng trong xã hội, đặc biệt trong
các xã hội văn minh. Dân chủ gắn liền với sự tiến bộ của xã hội và quá trình phát triển
lịch sử qua nhiều thời đại, dưới các chế độ khác nhau. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận
khác nhau về khái niệm dân chủ, nhưng nhìn chung, có thể hiểu rằng: "Dân chủ là một
giá trị xã hội, thể hiện quyền lực thuộc về nhân dân và khẳng định các quyền cơ bản của con người".
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, dân chủ chủ yếu được thực hiện thông qua nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản. Với nền tảng là tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Đảng đã đưa những lý luận đó vào thực tiễn, giúp phong trào quần chúng nâng
cao tính tự giác trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện
để họ tham gia thực hiện các quyền và lợi ích dân chủ của mình.
3. Những định hướng xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
3.1. Hiểu về nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
Dân chủ XHCN ở Việt Nam là nền dân chủ mà nhân dân làm chủ các quyền
lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền về tay nhân dân sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước
ta là nước dân chủ”. Dân chủ có nghĩa “dân là chủ” và “người dân làm chủ”, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là động lực của cách mạng.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước vẫn luôn khẳng định, dân chủ là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chế độ xã hội “do nhân dân làm chủ”. Ở
đó, quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân
là chủ và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc Đảng Cộng sản.
Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã và đang trong quá trình phát triển, song
vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần phải được cải thiện. Để làm rõ thực trạng này, chúng ta sẽ
cùng nhìn nhận các yếu tố cấu thành nền dân chủ tại Việt Nam hiện nay, bao gồm
quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia vào các quyết sách
quốc gia, và sự giám sát xã hội.
a) Quyền bầu cử và ứng cử
Quyền bầu cử và ứng cử là một trong những quyền cơ bản của công dân trong
bất kỳ nền dân chủ nào, và ở Việt Nam, quyền này được thực hiện qua các cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp. Căn cứ theo Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân:”Tính đến ngày bầu cử được công bố, công
dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu
cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội”.
b) Tự do ngôn luận và tự do báo chí
Ở Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công
dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Điều 25 Hiến pháp năm 2013
ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Quốc hội,
Chính phủ và các Bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh, giới hạn nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và sự ổn định xã hội.
c) Quyền tham gia vào các quyết sách quốc gia
Dân chủ không chỉ thể hiện qua quyền bầu cử mà còn thông qua sự tham gia
vào quá trình ra quyết định, đặc biệt là những quyết sách quan trọng ảnh hưởng đến sự
phát triển quốc gia. Tại Việt Nam, các cơ chế tham gia của người dân chủ yếu được
thực hiện qua các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện của các cấp chính quyền và các
cuộc thảo luận công khai.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang trên đà tiếp tục phát triển, song
vẫn còn tồn tại nhiều thách thức như việc mở rộng quyền tham gia của người dân và
tăng cường sự minh bạch trong các quyết sách. Hướng đến mục tiêu phát triển bền
vững, các cấp chính quyền không ngừng nỗ lực thực hiện cải cách để đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ hiện đại và tạo ra môi trường chính trị ổn định.
3.2. Định hướng xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định việc xây dựng chế độ dân
chủ phải được coi là một nhiệm vụ lâu dài và cần phải thực hiện với tinh thần cách
mạng, không chỉ nhằm bảo vệ bản chất của chế độ mà còn thúc đẩy sự tiến bộ xã hội,
bởi dân chủ thể hiện bản chất của chế độ ta. Ngoài ra, đây còn là mục tiêu, động lực
của sự phát triển đất nước. Những định hướng góp phần xây dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam như sau:
a) Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời tăng
cường pháp chế và đảm bảo kỷ cương xã hội trong mọi hoạt động.
Bên cạnh đó, các cấp lãnh đạo tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện mô hình tổ chức
bộ máy hệ thống chính trị, đảm bảo vận hành hiệu quả cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ". Đảng và Nhà nước không ngừng ban hành các
chủ trương, chính sách, và pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý vững chắc, tôn
trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, giúp nhân dân thực sự trở thành chủ
thể và được làm chủ.
b) Tăng cường xây dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là nền tảng bảo vệ quyền lợi của
nhân dân mà còn là công cụ để thực thi quyền lực của nhà nước một cách hiệu quả,
công bằng và minh bạch. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
đó, chính phủ chủ trương không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, đẩy mạnh cải cách
hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính.
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của người dân, đặc biệt là
quyền tham gia vào quá trình xây dựng chính quyền, lựa chọn những người đại diện
cho mình, cũng như quyền sở hữu tài sản hợp pháp, từ đó tạo ra môi trường công
bằng, minh bạch và tôn trọng quyền lợi của mọi công dân.
c) Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hỗ trợ lẫn nhau bởi cả hai đều xuất phát từ bản chất và mục tiêu chung là vì lợi ích
của nhân dân, do nhân dân. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, trong khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo
vệ quyền lợi và sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng đất nước.
Nhà nước nỗ lực hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ để nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển bền vững, phát huy vai
trò của kinh tế nhà nước và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, hình
thành các tập đoàn kinh tế mạnh, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, nâng cao khả
năng cạnh tranh quốc tế.
Công bằng xã hội được đảm bảo trong mỗi chính sách phát triển, kết hợp
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục và giải quyết vấn đề xã
hội. Thể chế phân phối phải hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, lao động và doanh
nghiệp, tạo động lực phát triển bền vững và bảo vệ lợi ích quốc gia.
d) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tham nhũng và tệ nạn xã hội
Quyền lãnh đạo của Đảng và quyền lực nhà nước được nhân dân ủy quyền,
và lạm dụng quyền lực, tham nhũng là xâm phạm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo tầm nhìn đến năm 2045, nhà nước sẽ hoàn thiện các quy định về quyền giám
sát của nhân dân, xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo nhân dân có quyền giám sát
trực tiếp hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức, cơ
quan Đảng, Nhà nước. Đồng thời, cần thể chế hóa vai trò của nhân dân trong việc
kiểm tra, giám sát các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, và phát hiện, đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm tính minh bạch và công bằng trong quản lý và điều hành.
3.3. Liên hệ thực tiễn với nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam không ngừng hoàn thiện, thể hiện rõ qua sự
phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN, quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền và việc mở rộng quyền dân chủ của nhân dân. Những chủ trương, chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước đã giúp nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời tạo điều kiện để người dân tham gia nhiều hơn vào quản lý đất nước.
3.3.1. Kinh tế thị trường định hướng XHCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình phát triển đặc thù của Việt
Nam, kết hợp giữa các yếu tố của kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước
nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng, ổn định và phát triển bền vững. Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng xác định rõ vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế, trong đó
doanh nghiệp được coi là trung tâm, còn Nhà nước giữ vai trò quản lý và điều tiết
thông qua hệ thống chính sách phù hợp. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2021-2030 nhấn mạnh mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng
thời chủ động hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa
năm 2017 đã tạo điều kiện thuận lợi cho khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, giúp nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Nhờ những chính sách đổi mới
từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
được nâng cao, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm cho hàng triệu lao động.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), với sự góp mặt của nhiều tập đoàn lớn như Samsung, Intel, LG. Dù
vậy, các doanh nghiệp nước ngoài vẫn phải tuân thủ các quy định về thuế, lao động và
môi trường do Nhà nước đề ra. Sau đại dịch COVID-19, Chính phủ đã triển khai các
gói hỗ trợ tài chính, miễn giảm thuế nhằm giúp doanh nghiệp trong nước phục hồi sản
xuất, duy trì việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đẩy mạnh
phát triển kinh tế số với sự bùng nổ của thương mại điện tử và các phương thức thanh
toán không tiền mặt như Shopee, VNPay, MoMo. Những thành tựu này đã góp phần
đưa GDP năm 2023 lên hơn 430 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ
4 Đông Nam Á. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 3%, môi trường kinh
doanh được cải thiện đáng kể, thể hiện qua việc Việt Nam xếp hạng 70/190 quốc gia
theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới.
3.3.2. Nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những nội dung quan trọng trong
quá trình đổi mới ở Việt Nam, được thể hiện qua việc xây dựng hệ thống pháp luật
đầy đủ, minh bạch và đảm bảo quyền con người. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định
mạnh mẽ quyền con người và quyền công dân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xây
dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cải cách hành chính
cũng là một nhiệm vụ trọng tâm, thể hiện qua Đề án 06 về chính phủ điện tử, giúp đơn
giản hóa các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đồng thời, công
tác phòng, chống tham nhũng cũng được đẩy mạnh với việc ban hành Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2018 và triển khai chiến dịch “đốt lò,” xử lý nghiêm các sai
phạm trong bộ máy nhà nước.
Những năm gần đây, Việt Nam đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ vào quản lý
hành chính công, thể hiện qua việc triển khai căn cước công dân gắn chip, đăng ký hộ
khẩu trực tuyến, giúp người dân tiếp cận dịch vụ công nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Công tác phòng, chống tham nhũng cũng đạt nhiều kết quả đáng chú ý, với hàng loạt
vụ án lớn như Việt Á, AIC được đưa ra xét xử, góp phần minh bạch hóa quản lý công
và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Việc bảo vệ quyền lợi công
dân cũng được chú trọng, thể hiện qua Luật An ninh mạng nhằm đảm bảo an toàn
thông tin cá nhân, ngăn chặn các hành vi lợi dụng không gian mạng để lan truyền tin
giả. Những kết quả này đã góp phần nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, thể hiện qua
việc hơn 95% thủ tục hành chính cấp độ 3, 4 được thực hiện trực tuyến, nhiều cán bộ
cao cấp bị xử lý do tham nhũng, và chỉ số PAPI của Việt Nam liên tục tăng, phản ánh
sự hài lòng của người dân đối với các chính sách quản lý công.
3.3.3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ XHCN ở Việt Nam tiếp tục được mở rộng thông qua việc ban hành
các quy định về dân chủ ở cơ sở, tăng cường giám sát, đối thoại giữa chính quyền và
nhân dân. Nghị định 59/2019/NĐ-CP được ban hành nhằm khuyến khích sự tham gia
của người dân vào quá trình quản lý nhà nước, giúp nâng cao hiệu quả giám sát và
phản biện xã hội. Quốc hội cũng đổi mới phương thức hoạt động, công khai các phiên
họp, chất vấn trên truyền hình, tạo điều kiện cho người dân theo dõi và đóng góp ý
kiến. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng hỗ trợ phát triển các tổ chức xã hội dân sự, bảo vệ
quyền lợi của người lao động và các nhóm yếu thế trong xã hội.
Thực tế cho thấy, nhiều địa phương đã triển khai các mô hình đối thoại trực
tiếp giữa chính quyền và nhân dân, tiêu biểu như chương trình “Dân hỏi - Chính
quyền trả lời” tại TP.HCM, giúp giải quyết kịp thời các vướng mắc trong đời sống.
Quốc hội cũng tăng cường tiếp xúc cử tri, tạo điều kiện để người dân phản ánh những
vấn đề còn bất cập trong xã hội. Đồng thời, các tổ chức từ thiện, nhóm thiện nguyện
phát triển mạnh mẽ, góp phần hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là trong giai đoạn dịch
COVID-19. Những hoạt động này cho thấy người dân ngày càng có vai trò quan trọng
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, thể hiện qua tỷ lệ cử tri tham gia bầu
cử luôn duy trì ở mức cao, trên 95%.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền dân chủ XHCN ở Việt
Nam vẫn còn một số thách thức cần khắc phục. Tình trạng quan liêu, tham nhũng,
lãng phí vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước. Cơ
chế giám sát, phản hồi ý kiến của người dân chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt trong các
lĩnh vực như đất đai, môi trường. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương
mẫu, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với chính quyền.
3.4. Liên hệ bản thân
Là một công dân sống trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chúng em nhận thức rõ rằng
mình không chỉ được hưởng các quyền lợi mà còn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
đối với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trước hết, chúng em được đảm bảo quyền tự do
học tập, bày tỏ ý kiến, tham gia vào các hoạt động xã hội, cũng như tiếp cận những
chính sách hỗ trợ giáo dục công bằng. Điều này giúp tạo cơ hội phát triển bản thân,
nâng cao trình độ học vấn và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước. Bên
cạnh đó, chúng em cũng ý thức được rằng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là
quyền lợi mà còn đi kèm với trách nhiệm. Là sinh viên, chúng em cần tuân thủ pháp
luật, thực hiện tốt nghĩa vụ học tập, rèn luyện đạo đức, đồng thời tích cực tham gia các
phong trào, hoạt động của trường và xã hội. Chúng em tin rằng việc tôn trọng và thực
hiện đúng các quy định của Nhà nước, cũng như đóng góp ý kiến để cải thiện chất
lượng giáo dục và các chính sách, chính là cách mà chúng em thể hiện vai trò của
mình trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chúng em cũng mong muốn nền dân chủ
ngày càng được phát huy mạnh mẽ hơn, giúp mọi công dân có thể tham gia đóng góp
ý kiến, xây dựng đất nước trên tinh thần công bằng, dân chủ và văn minh. C. KẾT LUẬN
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục,
phản ánh quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây không chỉ là một nguyên tắc chính trị mà còn là nền tảng quan trọng giúp đất
nước phát triển bền vững, đảm bảo sự công bằng, ổn định và tiến bộ trong xã hội.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong
việc xây dựng và củng cố nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền, đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo
và mở rộng các cơ hội phát triển cho mọi tầng lớp trong xã hội. Việc mở rộng dân chủ
trong đời sống chính trị – xã hội thể hiện qua việc tạo điều kiện để người dân tham gia
đóng góp ý kiến vào các chính sách quan trọng, giám sát hoạt động của chính quyền,
và thực hiện quyền bầu cử, ứng cử một cách dân chủ. Những điều này đã giúp củng cố
niềm tin của nhân dân vào chế độ, khẳng định bản chất ưu việt của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa so với các mô hình khác.
Tuy nhiên, để tiếp tục xây dựng một nền dân chủ vững mạnh, Việt Nam cần
không ngừng đổi mới và hoàn thiện các cơ chế nhằm đảm bảo sự công khai, minh
bạch trong quản lý nhà nước. Điều này đòi hỏi chính quyền các cấp phải nâng cao
trách nhiệm giải trình, công bố thông tin đầy đủ và kịp thời để người dân có thể giám
sát, phản biện một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, việc tăng cường các kênh đối thoại
trực tiếp giữa chính quyền và nhân dân cũng là một yếu tố quan trọng giúp lắng nghe
ý kiến đa chiều, điều chỉnh chính sách phù hợp với thực tiễn.
Ngoài ra, cần phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong quá trình xây dựng
và phát triển đất nước. Điều này không chỉ dừng lại ở việc thực hiện quyền bầu cử hay
tham gia góp ý mà còn bao gồm cả việc nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm
công dân và ý thức tự giác trong việc bảo vệ, củng cố nền dân chủ. Khi mỗi người dân
đều chủ động đóng góp vào sự phát triển chung, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới
thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển toàn diện của đất nước.
Tóm lại, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là một mô hình
cố định mà là một quá trình phát triển liên tục, đòi hỏi sự đổi mới và hoàn thiện không
ngừng. Bằng việc kết hợp giữa phát triển kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền và
mở rộng dân chủ, Việt Nam có thể tiếp tục khẳng định vị thế của mình và tạo ra một
xã hội công bằng, văn minh, nơi nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2018
2. Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Chủ nghĩa Xã hội khoa học do khoa Lý luận
chính trị thuộc Đại học Kinh tế TP.HCM
3. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam 4. Tạp chí cộng sản 5. Tạp chí mặt trận