

















Preview text:
Nhó́́́m 7 Chu nghĩ̃a xa hộ̣̂ i khoa hoc 25D1POL51002502 Chie u thú́́́ 5 B1
International trade (Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh)
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG KINH DOANH KHOA KẾ TOÁN TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA CỦA
NHÀ NƯỚC XHCN. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Minh Tuấn Lớp – Khoá:
KN0001 – K49 CHIỀU THỨ 5 B1.503 Mã lớp học phần: 25D1POL51002502 Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 01 năm 2025
Học viên thực hiện: Tô Nguyễn Thành Phát 31231022342 Nguyễn Thảo Uyên 31231023407 Bùi Thị Bích Thuỷ 31231027705 Trần Thị Bảo Ngọc 31231027326 Phan Tiểu Quyên 31231023186 Đoàn Anh Thư 31231022937 1 MỤC LỤC
1. Bản chất của nhà nước Xã hội chủ nghĩa ........................................................................................ 3
2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa ..................................................................................... 5
2.1. Chức năng đối ngoại ................................................................................................................... 5
2.2. Chức năng đối nội ....................................................................................................................... 5
3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...................................................................... 6
3.1. Khái niệm ..................................................................................................................................... 6
3.2. Tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam .......... 8
3.3. Tình hình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân ..................................................................................................................................................... 9
3.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................................................ 9
3.3.2. Những hạn chế yếu kém ....................................................................................................... 11
3.3.3. Nguyên nhân hạn chế .......................................................................................................... 11
3.4. Định hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ....................................... 12
4. Sự vận dụng của bản thân sinh viên Việt Nam trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ............................................................................ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................... 17 2
1. Bản chất của nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Nhà nước XHCN ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và
nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu
nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch
sử. Tính ưu việt về mặt bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên các phương diện :
- Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công
nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị thống trị về
chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác biệt về chất so với sự
thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự
thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã
hội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp
vô sản là sự thống trị của của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng
giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội.
Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước,
Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và
lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công
việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của
nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn. 3
→ Nhà nước XHCN mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi
và tính dân tộc sâu sắc.
- Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ
sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lộ. Không giống với tất cả các nhà
nước bóc lột khác trong lịch sử đều là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp
đa số nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy
chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã
hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là “
nửa nhà nước”. Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở thành
mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm: - Sở hữu toàn dân. - Sở hữu tập thể.
Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên
trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
Nhà nước XHCN bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động
sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù
lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những
cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
- Về văn hoá – xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng
tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và những giá trị văn hoá tiên tiến, tiến
bộ của nhân loài, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân hoá giữa
các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp bình đẳng trong
việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển. 4
2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, các chức năng của nhà
nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
2.1. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại là quan hệ song phương hoặc là đa phương giữa các nước
nhằm thiết lập với quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế, tham gia vào trở thành thành
viên của các tổ chức quốc tế về tổ chức chính trị như: Liên Hợp Quốc, tổ chức kinh tế
trong khu vực ASEAN, khu vực Châu Á- Thái Bình Dương APEX, tổ chức Thế Giới
WTO… Chức năng đối ngoại liên quan đến việc tổ chức quốc tế, tham gia cá diễn đàn
quốc tế để giải quyết các vấn đề lớn mà nhân loại cùng quan tâm, như: vấn đề về nhân
quyền, dân chủ; vấn đề biến đổi khí hậu…
2.2. Chức năng đối nội
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực của nhà nước, các chức năng của
nhà nước được chia thành các chức năng: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Căn cứ vào tính chất quyền lực của nhà nước, chức năng nhà nước được chia
thành chức năng giai cấp (bạo lực, trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức, xây dựng)
+ Chức năng trấn áp, bạo lực đây là chức năng vốn có của các nhà nước. Đối
với nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc sử dụng bạo lực để đối phó với sự phản kháng,
xâm lược hay phá hoại từ kẻ thù giai cấp nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và an
toàn cho nhân dân là điều cần thiết. Tuy nhiên, chức năng này chỉ giúp duy trì sự tồn
tại mà không thể tạo ra một xã hội mới.
+ Chức năng tổ chức, xây dựng được xem là nền tảng và giữ vai trò quyết định
trong việc hình thành và phát triển chế độ xã hội mới. Chức năng này mang tính sáng
tạo, tập trung cải thiện trật tự từ chủ nghĩa tư bản, xây dựng các mối quan hệ kinh tế
mới và kiến thiết một xã hội mới. Nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
không chỉ là trọng tâm mà còn là mục tiêu tối thượng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
So sánh nhà nước XHCN với các chế độ nhà nước khác: 5 Nhà nước phong Nhà nước Nhà nước chủ nô kiến Nhà nước tư sản XHCN Chức
năng Chức năng đối Chức năng đối Chức năng đối nội nội nội đối nội
Chức năng củng Bảo vệ, củng cố Chức năng Chức năng bảo cố và bảo vệ chế và phát triển chính trị đảm ổn định độ sở hữu phương thức sản chính trị, an xuất phong kiến.
Chức năng kinh ninh, an toàn Chức năng đàn áp tế xã hội, bảo vệ
bằng quân sự đối Đàn áp nông dân các quyền và với sự
phản và những người Chức năng xã lợi ích cơ bản
kháng của nô lệ lao động bằng hội của công dân và các tâng lớp những phương lao động khác. Chức năng trấn tiện tàn bạo Chức năng tổ Chức áp về tư tưởng chức và quản
năng Chức năng đàn áp Nô dịch về tư lý kinh tế về tư tưởng tưởng Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa- xã hội Chức Chức
năng đối Chức năng đối năng đối ngoại ngoại Chức năng ngoại đối ngoại Chức năng tiến Tiến Chức năng tiến hành chiến Chức năng bảo hành chiến tranh xâm lược
hành chiến tranh vệ tổ quốc tranh xâm lược. xâm lược và Phòng
thủ đất chống phá các Chức năng Chức năng phòng nước
phong trào cách củng cố, mở thủ đất nước. mạng thế giới rộng quan hệ Chức năng hữu nghị và phòng thủ hợp tác với các nước
3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.1. Khái niệm
Nhà nước Pháp quyền được xem là mô hình tổ chức lí tưởng nhất của mọi thời
đại.Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ
đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của 6
thời cổ đại như Socrate (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43
Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau
này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 -
1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.
Bàn về khái niệm nhà nước pháp quyền hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác
nhau dựa trên: yếu tố nhân quyền, tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, yếu tố phân
chia quyền lực nhà nước và sự hạn chế quyền lực nhà nước hoặc nhấn mạnh tính dân
chủ thuộc về nhân dân. Tuy nhiên theo quan niệm chung nhất nhà nước pháp quyền là
nhà nước thượng tôn pháp luật, nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi
người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của
chính mình. Điều này thể hiện rằng: nhà nước pháp quyền hoạt động trên cơ sở của
hiến pháp, pháp luật, mà trong nhà nước đó tất cả công dân đều được giáo dục pháp
luật và hiểu biết pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật. Để thực hiện mục tiêu
phục vụ nhân dân thì tính nghiêm minh cho các hoạt động của cơ quan nhà nước và có
sự phân công kiểm soát lẫn nhau.
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu
ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (ngày
29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Tiếp theo là tại
các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Thể chế hoá quan điểm xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức;
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. 7
3.2. Tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh". Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ
xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ
đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau
khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi
chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm
bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và
hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện
được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc, đặc
thù của riêng mình. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với
đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới
kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”.
Như vậy, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng sau:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Trong tất cả các hoạt động của xã
hội, pháp luật được ở vị trí tối thượng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công rõ ràng và cơ chế phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ
quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước. 8
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo đảm
quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và
công dân, giữa Nhà nước và xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị,
quyết định phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự
là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để
thực hiện thành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
3.3. Tình hình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân
3.3.1. Những kết quả đạt được
- Trong việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước:
Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy nhà nước đã dần được cơ cấu
lại theo hướng mở rộng xã hội hóa, tăng cường vai trò, trách nhiệm của cộng đồng,
Nhà nước chỉ đảm nhiệm những công việc thực sự cần thiết để đảm bảo lợi ích chung
của toàn xã hội, vì sự phát triển của toàn xã hội hoặc những gì mà mỗi cá nhân công
dân không thể tự mình giải quyết nếu thiếu sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước.
Trong mối quan hệ với công dân, bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đang
dần chuyển từ tư duy lãnh đạo, quyền uy - phục tùng sang tư duy vềnhà nước phục vụ,
cán bộ, công chức có nghĩa vụ, trách nhiệm phục vụ nhân dân, thực sự trở thành “công bộc” của nhân dân.
- Về tổ chức bộ máy nhà nước: 9
+ Quốc hội đã trở thành yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN, yếu tố quy định mối quan hệ quyền lực và pháp luật, yếu tố bảo đảm để ý chí
của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước. Có thể nói, hoạt động của Quốc hội ngày
càng được đổi mới, dân chủ, hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu
cầu và mong mỏi của các tầng lớp nhân dân.
+ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan, Chủ tịch nước
trong các nhiệm kỳ qua đã phát huy tốt vị trí, vai trò của mình trên các lĩnh vực, đóng
góp quan trọng vào thành tựu chung của đất nước.
+ Chính phủ đã có một bước đổi mới căn bản cả về tổ chức và phương thức
hoạt động, từ Chính phủ tập thể sang kết hợp giữa chế độ trách nhiệm của tập thể
Chính phủ và vai trò cá nhân của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói, hoạt động của
Chính phủ, các bộ ngày càng chuyên nghiệp hơn, công khai, minh bạch hơn góp phần
đưa đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn, vượt qua khủng hoảng kinhtế để đạt
được nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn vừa qua.
+ Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa
án trong thời gian qua đang được nghiên cứu để đổi mới, cải cách hơn, không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính”, mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án, qua đó, tăng
cường khả năng kiểm soát của tư pháp đối với hệ thống cơ quan hành chính.
- Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:
Chất lượng lãnh đạo của Đảng được nâng cao hơn, tình trạng tổ chức Đảng bao
biện làm thay Nhà nước đã có bước giảm đáng kể, việc dân chủ hoá phương thức lãnh
đạo của Đảng có bước tiến quan trọng, trong khi vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ
vững và tăng cường thì vai trò của Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể ngày càng được phát
huy. Nhờ vậy, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày càng tốt hơn. 10
3.3.2. Những hạn chế yếu kém
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ nhiều yếu kém:
- Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều
hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, nhà nước ta.
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy
đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất
đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng.
- Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có
những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương - địa
phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy,
kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng
như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và bao
biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước.
- Quốc hội mặc dù hoạt động ngày càng dân chủ và hiệu quả hơn nhưng kết
quả trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước
chưa đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân. Hoạt động của Quốc hội chưa thực sự chuyên
nghiệp, tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tuy đã được tăng lên theo từng
nhiệm kỳ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, điều kiện bảo đảm hoạt
động của đại biểu Quốc hội còn nhiều hạn chế nên chưa đáp ứng được khối lượng
công việc ngày càng nhiều, với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng.
3.3.3. Nguyên nhân hạn chế
Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ
máy nhà nước, trong đó chủ yếu là: 11
- Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển
đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việcphải
vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.
- Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây dựng
nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đổi
mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu, lãng
phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước; thiếu những biện pháp tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo
chuyểnbiến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.
- Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định
một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương
nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
- Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị.
- Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết
thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy quyền
làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cán bộ,
công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc theo hiến pháp, pháp luật.
3.4. Định hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của xã hội, việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) tại Việt Nam trở
thành một nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ
là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là một phương thức quản lý xã
hội, bảo đảm quyền con người và quyền công dân, đồng thời thúc đẩy sự phát triển
bền vững của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trước hết, cần khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng với vai trò lãnh đạo tối cao, là lực lượng 12
chính trị duy nhất giữ vai trò quyết định trong việc định hướng và dẫn dắt thực hiện
các chính sách, pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng
không chỉ đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp mà còn đảm bảo tính hợp pháp và chính đáng nhằm tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.
Ví dụ: Trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, Đảng đã chỉ đạo việc
lắng nghe ý kiến của nhân dân, từ đó tạo ra những quy định phù hợp với thực tiễn và
nguyện vọng của người dân.
2. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước
Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước là một yếu tố then
chốt trong việc hiện thực hóa Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần thiết phải kiện toàn
tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội để đảm
bảo đây là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Song song đó cũng cần hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch, công bằng và
hiệu quả trong việc thực thi pháp luật nhằm xây dựng nền hành chính nhà nước dân
chủ, trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại hóa.
Ví dụ: Việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính công đã
giúp giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh
nghiệp, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức; Luật Doanh nghiệp
sửa đổi năm 2020 đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích
đầu tư và khởi nghiệp, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực
Xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, có năng lực là một nhiệm vụ quan trọng
không thể thiếu bởi đây là nhân tố quyết định đến sự thành công trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Đội ngũ cán bộ không chỉ cần nâng cao trình độ chính trị,
năng lực lãnh đạo, điều hành quản lí đất nước mà còn phải có phẩm chất đạo đức tốt,
trung thực và tận tâm phục vụ nhân dân. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ trong
sạch, có năng lực không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước mà còn tạo 13
dựng niềm tin trong nhân dân. Cần có các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một
cách bài bản, có chính sách đãi ngộ, khuyến khích cán bộ, công chức đồng thời xây
dựng cơ chế loại bỏ, miễn nhiệm những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm
kỷ luật, đạo đức công vụ cùng với việc thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám
sát để phát hiện và xử lý kịp thời.
Ví dụ: Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được triển khai nhằm
nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó góp phần xây
dựng một bộ máy nhà nước vững mạnh, hiệu quả.
4. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm
Chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần có các biện
pháp mạnh mẽ và đồng bộ để ngăn chặn đồng thời xây dựng các chế tài để xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm. Cùng với đó là động viên và khuyến khích toàn Đảng,
toàn dân thực hành tiết kiệm.
Ví dụ: Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) không chỉ thúc đẩy phát
triển kinh tế địa phương mà còn tạo ra cơ chế giám sát cộng đồng, từ đó hạn chế tình
trạng lãng phí và tham nhũng trong các dự án đầu tư công; Các biện pháp khác như
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng
cũng được thực hiện nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước và quyền lợi của nhân dân.
Tóm lại, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt
Nam là một quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn bộ
hệ thống chính trị _ đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng sự
tham gia tích cực của nhân dân. Qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên,
chúng ta mới có thể từng bước tiến đến mục tiêu xây dựng một Nhà nước pháp quyền
XHCN, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và phát triển bền vững đất nước.
4. Sự vận dụng của bản thân sinh viên Việt Nam trong việc góp phần xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mục tiêu
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân 14
chủ và văn minh. Trong quá trình này, sinh viên, với tư cách là lực lượng tri thức trẻ,
đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền, thông qua việc rèn luyện bản thân, nâng cao nhận thức pháp lý, tham gia vào
các hoạt động xã hội và phản biện chính sách. Việc vận dụng các kiến thức, kỹ năng
và phẩm chất của sinh viên vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là yếu tố cần thiết, không chỉ giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn tạo
dựng một nền tảng xã hội vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước.
- Sinh viên và trách nhiệm nâng cao nhận thức pháp luật
Sinh viên có thể tham gia vào các chương trình giáo dục pháp luật, tổ chức các
buổi tọa đàm, hội thảo, hoặc viết bài tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông
để nâng cao nhận thức cho người dân về quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong xã hội.
Đồng thời, việc tuân thủ pháp luật không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của
mỗi công dân. Bản thân các sinh viên, trong quá trình học tập và nghiên cứu pháp lý,
cần thể hiện tinh thần tự giác tuân thủ pháp luật và làm gương mẫu cho cộng đồng.
- Sinh viên tham gia nghiên cứu và đề xuất cải cách pháp lý
Môi trường học thuật tại các trường đại học là nơi sinh viên tiếp cận các kiến
thức pháp lý hiện đại và quốc tế. Với phương pháp nghiên cứu khoa học, sinh viên có
thể đưa ra những ý tưởng mới mẻ về cải cách hệ thống pháp luật trong nước, nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế.
Sinh viên có thể tham gia vào các dự án nghiên cứu khoa học, viết bài nghiên
cứu, tham luận, hoặc thậm chí hợp tác với các chuyên gia để đưa ra những giải pháp
cải cách pháp lý, cải thiện hiệu quả của các cơ quan công quyền và hệ thống tư pháp.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các mô hình pháp quyền từ các quốc gia khác
cũng giúp sinh viên phát triển những giải pháp sáng tạo, áp dụng phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
- Sinh viên trong các hoạt động xã hội và chính trị
Thông qua việc tham gia các tổ chức chính trị – xã hội như Đoàn Thanh niên,
Hội Sinh viên, các nhóm tình nguyện, sinh viên có thể trực tiếp tham gia vào các
chương trình phát triển cộng đồng, bảo vệ quyền lợi của người dân và tham gia vào
các hoạt động phản biện chính sách. Những hoạt động này góp phần thúc đẩy sự thay
đổi tích cực trong xã hội, xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh và công bằng.
- Sinh viên và việc thực thi trách nhiệm công dân 15
Sinh viên, ngoài việc học tập, cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với
cộng đồng và xã hội. Việc thực hiện trách nhiệm công dân không chỉ dừng lại ở việc
tuân thủ pháp luật mà còn bao gồm các hành động tích cực như tham gia đấu tranh
chống tham nhũng, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi của những đối tượng yếu thế
trong xã hội, và thúc đẩy sự công bằng trong các hoạt động xã hội.
Bằng việc thực hiện các nghĩa vụ công dân, sinh viên không chỉ thể hiện sự
cam kết với pháp luật mà còn tạo ra những tác động tích cực đến xã hội, góp phần
hình thành một hệ thống pháp quyền vững mạnh, nơi quyền và lợi ích hợp pháp của
mọi người dân được bảo vệ.
- Rèn luyện phẩm chất và đạo đức của sinh viên trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Cuối cùng, phẩm chất đạo đức của sinh viên là một yếu tố then chốt trong việc
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Sinh viên cần phát triển những phẩm
chất như trung thực, công bằng, tôn trọng pháp luật, và trách nhiệm trong việc thực
hiện nghĩa vụ công dân. Những phẩm chất này sẽ giúp sinh viên không chỉ trong việc
học tập mà còn trong công tác, hoạt động xã hội, và trong các vai trò lãnh đạo tương lai.
Như vậy, sinh viên Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua việc nâng cao
nhận thức pháp lý, tham gia nghiên cứu và đề xuất cải cách pháp lý, tham gia vào các
hoạt động xã hội và chính trị, thực thi trách nhiệm công dân và rèn luyện phẩm chất
đạo đức, sinh viên không chỉ góp phần vào việc củng cố nền pháp quyền của đất nước
mà còn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhà nước pháp quyền
không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là thành quả của sự cống hiến, nỗ lực và trách
nhiệm của toàn thể công dân, trong đó có sinh viên – những chủ nhân tương lai của đất nước. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (UEH – 2023)
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị). Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Giải pháp xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (2021), Tạp chí tổ chức nhà nước. 17
