Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Vinh

Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Vinh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: “QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA
ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY”
Học phần: Triết học
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn
Họ và tên HV: Nguyễn Thành Vương
Mã HV: 22831020100039
Lớp: CTH.K30C
Nghệ An, tháng 02 năm 2023
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu....................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................2
4. Ý nghĩa của đề tài......................................................................................................2
B. NỘI DUNG...................................................................................................................3
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người................................................3
1.1. Khái niệm về con người........................................................................................3
1.2. Bản chất con người................................................................................................4
II. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay................................7
2.1. Quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người........................................7
2.2. Giải pháp phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.................................9
C. KẾT LUẬN.................................................................................................................13
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................14
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, con người được coi nhân tố
hàng đầu quyết định đến sự phát triển nhanh, hiệu quả của nền kinh tế - hội của một
đất nước. Phát huy nhân tố con người xu hướng phát triển của thế giới, đó cũng con
đường phát triển tất yếu của Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm
đến vấn đề phát huy nhân tố con người, nhờ đó, đất nước đã có sự phát triển vượt bậc, đạt
được những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đã coi phát huy
nhân tố con người là một trong những định hướng phát triển và cụ thể hóa thành nhiệm vụ
trọng tâm Đột phá chiến lược trong những năm tới: “Phát huy nhân tố con người
chính tạo hội, điều kiện để sử dụng, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cần thiết để con người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động hoạt
động sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Với những yêu cầu cấp thiết đó, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá nguồn nhân
lực hiện tại Việt Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì, tồn tại những hạn chế nào để xây
dựng chính sách phát triển bền vững,ng cao chất lượng lao động, phát huy sức mạnh
của nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. triết học Mác - Lênin cơ sở, nền tảng để xây dựng nên
những chính sách, tầm nhìn chiến lược về nhân tố con người ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của con người với sự phát triển của quốc gia tôi đã
chọn đề tài tiểu luận: “Quan điểm triết học Mác – Lênin về con ngườisự vận dụng
sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp sưu tầm tổng hợp tài liệu: Đây phương pháp được vận dưng
nhiều nhất khi thưc hiên đề tài này. Tác giả đã tham khảo rất nhiều nguồn tài liệu như các
loai sách liên quan, các bài o, i viết trên tạp chí trên mạng internet. Từ các
nguồn tài liệu tham khảo tác giả đã trích dẫn và tổng hợp thành một bài hoàn chỉnh.
1
+ Phương pháp luận vấn đề: Đây một phương pháp cùng quan trong trong
nghiên cứu triết hoc cả với các lĩnh vưc khoa hoc khác. Với đề tài này, từ việc nghiên
cứu những quan điểm chung nhất của Triết học Mác nin về vấn đề con người. Cùng
với việc xem xét những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, tác giả phân tích đền vai trò, vị trí
của con người Việt Nam hiện nay. Cuối cùng, tác giả luận vần đề đưa ra những nhiêm vu
cụ thể cho sự phát triển con người. Tức là từ những triệt chung nhất phổ biến nhất,
tìm hiều đến những cái riêng và chi tiết của vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp duy biện chứng: Trên sở tìm hiêu những quan điểm triết hoc
Mác -Lê nin về vân để con người tôi đã vận đụng quán triệt các nguyên tắc phương
pháp luận bản của phép biện chứng dưy vật để tìm hiểu vai trò của nhân tổ con người
trong sự nghiệp nước ta, để từ đó vân dụng những quan điểm triệt học Mác -Lê nin đưa
ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phù hợp với giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong quan điểm của triết học Mác – Lênin
về vấn đề con người và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Ý nghĩa của đề tài
Ở một mức độ nhất định, tiểu luận góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về phát huy
nhân tố con người
Tiểu luận thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng hoạch
định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
2
B. NỘI DUNG
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1.1. Khái niệm về con người
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa
thực thể hội, đồng thời chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người một thực thể
“song trùng” tự nhiên hội, s kết hợp cái tự nhiên (sinh học) cái hội. Hai
yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội
và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật khoa học tự nhiên, đặc biệt học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các
loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng
“thân thể của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên tác động
của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con
người hội loài người, môi trường trao đổi vật chất giữa con người giới tự
nhiên; ngược lại, sự biến đổi hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động
trở lại môi trường t nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính mối quan hệ biện
chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau đây:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ
có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên còn nguồn gốc xã hội
của nó. Mác đã nhiều lần so sánh con người với những loài động vật bản năng gần
giống với con người. Và ông đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người mới
làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên, con người là thước đo của
vạn vật, con người biết lao động tạo ra công cụ sản xuất... Trong đó, nhân tố đầu tiên
bản nhất nhân tố lao động. Chính nhờ lao động con người có khả năng vượt
qua loài động vật để tiến hóa phát triển thành người, Đó một trong những phát hiện
mới của chủ nghĩa Mác Lênin, nhờ đó thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc
3
loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy
đủ.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của
nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hộicác quy luật xã hội. hội biến đổi thì
mỗi con người cũng do đó sự biến đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi
cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người
chỉ tồn tại với tư cáchmột thực thể sinh vật thuần túy không thể“con người” với
đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của
nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu
lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ
từ bản tính hội của thì đều phiến diện, không triệt để nhất định cuối cùng sẽ
dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
1.2. Bản chất con người
Với quan điểm duy vật triệt để phương pháp biện chứng, C.Mác Ph.Ăngghen
đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông đã xuất phát
từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới thông qua hoạt
động vật chất của mình. Đó một động vật tính xã hội với tất cả những nội dung văn
hóa – lịch sử của nó. Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người một cách cô lập
phiến diện đặt trong mối quan hệ với tự nhiên hội. Con người sống dựa
vào tự nhiên như hết thảy mọi sinh vật khác, nhưng con người sở trở thành “người”
chính chỗ không chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen người đầu tiên đã chỉ ra
được bước chuyển biến từ vượn thành người nhờ lao động. Quá trình con người cải
tạo tự nhiên cũng quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói “lao động
sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy”.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về
bản chất con người: “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng hòa những mối
quan hệ xã hội”. Khác với quan niệm duy vật siêu hình, quan niệm duy vật biện chứng về
4
con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn giải con người từ
giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính
bản tính hội của con người phương diện bản chất nhất của con người với cách
“người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định
nghĩa con người một thực thể tự nhiên nhưng đó thực thể tự nhiên mang đặc tính
hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính
“tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên
từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,…
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất hội của con người thì sự hình
thành phát triển của con người cùng những khả ng sáng tạo lịch sử của cần phải
được tiếp cận từ giác độ phân tích giải sự hình thành phát triển của những quan
hệ xã hội của trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương diện bản tính
tự nhiên, “người da đen” vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính
trị của hội chiếm hữu lệ anh ta mới thể bị biến thành “người lệ”, còn trong
quan hệ kinh tế - chính trị hội chủ nghĩa, anh ta “người tự do”, làm chủ sáng tạo
lịch sử. Như thế, không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da
trắng, sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - hội trong những
điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng sự thay đổi
bản chất của con người. Cũng do vậy, sự giải phóng bản chất con người cần phải là hướng
vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, hội của nó, thông qua đó
có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Như vậy, không con người phi lịch sử trái lại luôn gắn với những điều kiện
hoàn cảnh lịch snhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới thể giải đúng đắn
về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của
những con người tiểu nông không thể giải từ bản tính tự nhiên của họ trái lại cần
phải được giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội
của nó, sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì
con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây biện chứng của mối
quan hệ giữa con người chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do tạo ra đồng thời
5
lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Từ đó thể thấy hạn chế bản của quan niệm duy
vật siêu hình về bản chất của con người chính chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của
hoàn cảnh lịch sử đối với con người không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con
người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác
đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người sản phẩm của
những hoàn cảnh của giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người
làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử,
chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra trong chừng
mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra chúng không
hề biết không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật,
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người thể thấy:
, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉMột
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của điều căn bản n, tính quyết
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế – xã hội của
nó.
, động lực cơ bản của sự tiến bộsự phát triển của xã hội chính là năng lựcHai là
sáng tạo lịch sử của con người, vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người,
con người chính phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ phát triển
của xã hội.
sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sửBa là,
của phải hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế hội. Trên ý
nghĩa phương pháp luận đó thể thấy: Một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc
cách mạng hội chủ nghĩa chính mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế
hội áp bức bóc lột ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
những chủ thể sáng tạo đích thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại; thông qua cuộc cách
mạng đó nó cũng có thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây
6
dựng mối quan hệ kinh tế – hội hội chủ nghĩa cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập
và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và
sáng tạo của người khác. Đó cũng chính thưc hiện triết đạo đức nhân sinh cao đẹp
nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mình vì mọi người; mọi người vì mình”.
II. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người
Do nhận thức được vai trò tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay. Đảng ta
đã đang xây dựng phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt lĩnh vực
kinh tế, phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con người
một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên
thế giới nước ta chiến lược con người một ý nghĩa hết sức quan trọng để phát
triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người, không để con
người đi lệch tư tưởng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch hướng đi đúng cho con đường đin xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác -
Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc (1945), thống
nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều mà bao nhiêu
học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay
đổi, trở thành hệ tưởng chính thống của toàn hội, thay đổi nhanh chóng đời sống
tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng hội chủ nghĩa
vừa nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các
hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày
càng tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã một đội ngũ
cán bộn hoá khoa học công nghệ với trình độluận quản tốt đồng đều trong cả
nước.
Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy nhân tố con người, đặc biệt trong thời kỳ
đổi mới, nhờ đó “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền
7
kinh tế được nâng lên Đất nước chưa bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế uy tín...
như ngày nay Những thành tựu trong phát huy nhân tố con người ở nước ta trong những
năm qua khá toàn diện, thể khái quát một số thành tựu bản như: Phát huy huy
môi trường dân chủ nhằm phát huy nhân tố con người, “thực hiện ngày càng tốt hơn
quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn hệ trọng của đất
nước… Chú trọng thực hiện n chủ sở”; Ngày càng coi trọng vấn đề phát triển toàn
diện con người, trong các chiến lược phát triển kinh tế - hội; Chăm lo đời sống nhân
dân ngày càng tốt hơn nên “Đời sống nhân dân cvề vật chất tinh thần được cải thiện
rõ rệt”...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thì vấn đề phát huy nhân tố con người cũng
còn những hạn chế nhất định, như: Hạn chế trong tạo chế nhằm phát huy nhân tố con
người, “Cơ chế chính sách... còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo được môi trường
thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân i”; Hạn chế trong giáo dục, đào tạo
nhằm phát huy nhân tố con người, “hoạt động giáo dục đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu
cầu đặt ra... Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao”, “Đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu”.
Từ thực trạng đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề cập một cách nhất quán,
sâu sắc, toàn diện về vấn đề phát huy nhân tố con người. Điều đó thể hiện tập trung
trong quan điểm chỉ đạo, định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, nhiệm vụ
trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII cả trong Đột phá chiến lược. Trong quan điểm
chỉ đạo đã khẳng định nhân tố con người quan trọng nhất, “nguồn lực con người
quan trọng nhất”, đồng thời chủ trương phát huy nhân tố con người: “phát huy dân chủ
hội chủ nghĩa... bồi dưỡng sức dân, ng cao chất lượng nguồn nhân lực… thúc đẩy đổi
mới sáng tạo”. Trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 thì vấn đề
phát huy nhân tố con người được thể hiện rất nét, như: “Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, thu hút trọng dụng nhân tài…; “Phát triển con người toàn diện...”; “bảo đảm
an ninh xã hội, an ninh con người... chú trọng nâng cao chất lượng dân số...”.
Vấn đề phát huy nhân tố con người được Đảng ta cụ thể hóa thành một trong
những nhiệm vụ trọng tâm thể hiện “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt,
Nam trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế... thực hiện tốt chính
8
sách hội, bảo đảm an ninh hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
quản phát triển hội, thực hiện tiến bộ, công bằng hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. Tiếp đó, phát huy nhân tố con người
được Đảng coi một trong những đột phá chiến lược, điều đó thể hiện: Phát triển
nguồn nhân lực nhất nguồn nhân lực chất lượng cao phát huy giá trị văn hóa, sức...
mạnh con người Việt Nam”.
Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt những thành tựu
vượt bậc, thì sự phát triển con người không chỉ sản phẩm của hệ tưởng Mác xít
ngay khi chủ nghĩa Mác các trị của các tưởng các tôn giáo, các hệ tư tưởng n
hoá bản địa đã sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, như một
hệ tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng cũng chịu sự chi
phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố
tích cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người. Do đó,
Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo
chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng hội, việc mở rộng dân chủ đối
thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về
các mặt kinh tế, văn hoá chính trị, trên thế giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình
chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Điều
đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hợp sáng
tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm
cao mới.
2.2. Giải pháp phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay
Một là, bảo đảm môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái trong lành, bền vững
cho nhân dân sinh tồn và phát triển.
Môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái vai trò đặc biệt đối với sự sinh tồn
phát triển của con người, điều này đã được C.Mác khẳng định: “Giới tự nhiên là… thân
thể
của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên” . Nhận thức sâu sắc tầm
(12)
quan trọng của môi trường đối với đời sống nhân dân, trong những năm qua, Đảng ta luôn
quan tâm đến bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau việc bảo vệ môi trường vẫn còn những hạn chế như: Ý thức
9
chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường, còn thấp. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng.
Quản nhà nước về tài nguyên, môi trường trên một số mặt còn lỏng lẻo, bất cập. Xu
hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chưa được khắc
phục. Chậm chuyển đổi cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái
tạo, năng lượng mới, tiết kiệm. Chất lượng môi trường tiếp tục xuống cấp; Các hệ sinh
thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm
.
Do vậy, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện những biện pháp cụ thể sau: Nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của hệ thống chính trị quần chúng nhân dân về tầm
quan trọng của môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái; Phải xác địnhmôi trường tự
nhiên, môi trường sinh thái cùng quan trọng bởi liên quan ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng cuộc sống của mọi thành viên hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường
sinh thái bảo vệ “ngôi nhà chung”, bảo vệ sinh kế lâu dài của nhân dân Việt Nam nói
riêng và của nhân loại nói chung; Quán triệt sâu sắc nguyên tắc, không được đánh đổi môi
trường để lấy tăng trưởng kinh tế; Hoàn thiện pháp luật về môi trường giám sát chặt
chẽ việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, kiên quyết không để xảy
ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân; Phát triển những
hình kinh tế thân thiện với môi trường như kinh tế xanh, kinh tế tiết kiệm nguyên,
nhiên vật liệu, kinh tế tuần hoàn… nhằm mục đích vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế vừa
bảo vệ bền vững môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái; Tăng cường hợp tác quốc tế
trong bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, bởi đây là vấn đề chung của nhân
loại, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quốc gia, dân tộc.
Hai là, bảo đảm xây dựng môi trường xã hội tối ưu để người dân yên tâm sinh sống,
lao động, học tập, sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển, hoàn thiện bản thân, đồng thời
đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Không chỉ môi trường tự nhiên môi trường hội cũng vai trò đặc biệt
quan trọng đối với việc phát huy nhân tố con người. Môi trường hội sản phẩm của
hội loài người được hình thành trên sở tổng hòa các loại môi trường như: môi
trường chính trị, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa - giáo dục… sản phẩm của
cộng đồng xã hội, nhưng đồng thời môi trường xã hội lại ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình
10
hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách của mỗi nhân con người; nh hưởng đến
tính chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo của mỗi thành viên hội. Do đó, bảo đảm
môi trường xã hội tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy nhân tố con người.
Để xây dựng môi trường xã hội tốt cần xây dựng đồng bộ các loại môi trường kinh
tế, chính trị, văn hóa… theo hướng văn minh, tiến bộ, hội nhập phù hợp thực tiễn Việt
Nam.
Đối với môi trường chính trị phải dân chủ, ổn định, an toàn, an ninh để người dân
yên tâm, nỗ lực hết mình trong học tập, làm việc, sản xuất, kinh doanh. Thực tiễn thế giới
chứng minh, nước nào bất ổn về chính trị thì nhân dân bất an, nên không phát huy hết khả
năng của bản thân vào sản xuất, kinh doanh, dẫn tới kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo…
không phát triển, thậm chí còn bị tụt hậu. Ngược lại, khi kinh tế, văn hóa, giáo dục đào
tạo… không phát triển được thì không có điều kiện để phát huy nhân tố con người. Do đó,
ổn định chính trị, bảo đảm dân chủ, an toàn, an ninh cho nhân dân có vai trò hết sức quan
trọng đối với phát huy nhân tố con người. Để bảo đảm môi trường chính trị ổn định, dân
chủ, an toàn, an ninh thì phải xử kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, nhân lợi
dụng những vấn đề như dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để gây rối nội bộ, làm
mất ổn định chính trị - hội, làm phương hại đến môi trường chính trị ổn định, an ninh,
an toàn của nhân dân.
Đối với môi trường kinh tế phải thuận lợi cho người dân doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh Phải hình thành đồng bộ các loại thị trường theo hướng văn minh, hiện đại,.
hội nhập để phát huy tính tích cực, chủ động của người dân trong khởi nghiệp, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, cạnh tranh
lành mạnh, đem lại lợi ích cho dân, cho nước. Xây dựng văn hóa kinh doanh hiện đại,
nhân văn, hội nhập trên sở các bên đều lợi, đồng thời xử kịp thời, nghiêm minh
những tổ chức, nhân làm ăn phi pháp, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sản xuất,
kinh doanh nói riêng, đến môi trường kinh tế nói chung.
Đối với môi trường văn hóa - giáo dục phải lành mạnh, tiến bộ, giàu tính nhân văn,
lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, làm sức mạnh nội sinh trong phát
triển kinh tế - xã hội cũng như trong hội nhập quốc tế. Để xây dựng môi trường văn hóa -
giáo dục tốt đẹp phải tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nâng cao ý
11
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, ý thức tôn trọng chấp hành pháp luật, nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo. Đồng thời, phải ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực hội các tệ nạn hội, chống bệnh hình thức
trong giáo dục - đào tạo…
Để xây dựng môi trường hội lành mạnh, dân chủ, kỷ cương, cần tiếp tục hoàn
thiện các chế, chính sách trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến người dân, doanh
nghiệp và cả đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Trước mắt, cần tập trung
hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; cơ chế phát huy dân chủ trong hệ
thống chính trị cũng như ngoài hệ thống chính trị, đặc biệt là cơ chế phát huy dân chủ cơ
sở; chế trọng dụng người tài đức, chế bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống
hiến vì đất nước;chế tạo động lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt
nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân...
Ba là, lấy phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị làm sở, động lực
khơi dậy ý chí, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh trong các tầng lớp nhân dân.
Phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị tức là phát huy năng lực, phẩm
chất tốt đẹp, phát huy tính năng động sáng tạo, phát huy tinh thần phục vụ, cống hiến,
phát huy ý thức trách nhiệm,… của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ
thống chính trị. Phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị sẽ nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao vai trò quản lý, phục vụ, kiến tạo phát triển
của Nhà nước pháp quyền XHCN; nâng cao chất lượng, hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị -hội; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
chế độ XHCN, tạo sự đoàn kết nhất trí trong nhân dân. Trên cơ sở đó, khơi dậy ý chí, khát
vọng phát triển đất nước trong nhân dân, nhằm chủ động, tích cực, phát huy hết tiềm
năng, đem hết năng lực để khởi nghiệp, sản xuất, kinh doanh, xây dựng đất nước giàu
mạnh, hùng cường. Để khơi dậy được ý chí, khát vọng cống hiến của nhân n cho đất
nước phải luôn luôn đề cao vai trò chủ thể của nhân dân trong tất cả các chủ trương, chính
sách, kế hoạch, mục tiêu của Đảng Nhà nước, thực hiện đúng như tinh thần của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
12
hoạt động của Nhà nước đều lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu”. Làm được như vậy sẽ thống nhất giữa “ý Đảng” và “lòng Dân”, nhân
dân sẽ đặt lòng tin tuyệt đối vào Đảng Nhà nước, chủ động triển khai thực hiện thắng
lợi chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước, tích cực tham gia quản hội, phát
triển kinh tế, xây dựng văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân,
ngoại giao nhân dân.
13
C. KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm triết học của Mác Lênin về con người phát huy nguồn lực
con người là phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Toàn bộ nội dung của triết học Mác – Lênin
không nhằm mục đích nào khác ngoài việc giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà suy
cho cùng giải phóng con người, tạo phương hướng để con người tự giải phóng, hướng
tới tự do. Thực sự đã trở thành công cụ hữu hiệu hay nói khác đi đó nên tảng dựa
vào đó các dân tộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới tự giải phóng mình.
Nắm bắt vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac Lênin nói chung
triết học Mác Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật công
nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người yếu tố quyết định
của mọi sự phát triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ
và đi liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người nhân tố quyết
định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực đủ trí tuệ
nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, nhằm
thực hiện sự chuyển mình từ mộthội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của đất nước đã đi vào lịch sử suy cho cùng
cũng thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho
tới ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn khoa học của Đảng Nhà
nước, với trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo (2009), Giáo trình Những nguyên bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục Đào tạo (2008), , Nxb.Giáo trình chủ nghĩa hội khoa học
Hồng Đức, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục Đào tạo (2021), Giáo Trình Triết Học Mác - Lênin (Dành Cho
Bậc Đại Học Hệ Chuyên Lý Luận Chính Trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.2, tr.325, 324-325, 336, 338.
5. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề luận thực tiễn về chủ nghĩa hội
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Nhân Dân điện tử, Báo , ngày 16.5.2021.
15
| 1/18

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: “QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA
ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY”
Học phần: Triết học
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn
Họ và tên HV: Nguyễn Thành Vương Mã HV: 22831020100039 Lớp: CTH.K30C
Nghệ An, tháng 02 năm 2023 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu....................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................2
4. Ý nghĩa của đề tài......................................................................................................2
B. NỘI DUNG................................................................................................................... 3
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người................................................3
1.1. Khái niệm về con người........................................................................................3
1.2. Bản chất con người................................................................................................4
II. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay................................7
2.1. Quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người........................................7
2.2. Giải pháp phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.................................9
C. KẾT LUẬN.................................................................................................................13
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................14 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, con người được coi là nhân tố
hàng đầu quyết định đến sự phát triển nhanh, hiệu quả của nền kinh tế - xã hội của một
đất nước. Phát huy nhân tố con người là xu hướng phát triển của thế giới, đó cũng là con
đường phát triển tất yếu của Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm
đến vấn đề phát huy nhân tố con người, nhờ đó, đất nước đã có sự phát triển vượt bậc, đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đã coi phát huy
nhân tố con người là một trong những định hướng phát triển và cụ thể hóa thành nhiệm vụ
trọng tâm và Đột phá chiến lược trong những năm tới: “Phát huy nhân tố con người
chính là tạo cơ hội, điều kiện để sử dụng, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cần thiết để con người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động và hoạt
động sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Với những yêu cầu cấp thiết đó, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá nguồn nhân
lực hiện tại ở Việt Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì, tồn tại những hạn chế nào để xây
dựng chính sách phát triển bền vững, nâng cao chất lượng lao động, phát huy sức mạnh
của nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Và triết học Mác - Lênin là cơ sở, là nền tảng để xây dựng nên
những chính sách, tầm nhìn chiến lược về nhân tố con người ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của con người với sự phát triển của quốc gia tôi đã
chọn đề tài tiểu luận: “Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và sự vận dụng
sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp sưu tầm và tổng hợp tài liệu: Đây là phương pháp được vận dưng
nhiều nhất khi thưc hiên đề tài này. Tác giả đã tham khảo rất nhiều nguồn tài liệu như các
loai sách có liên quan, các bài báo, bài viết trên tạp chí và trên mạng internet. Từ các
nguồn tài liệu tham khảo tác giả đã trích dẫn và tổng hợp thành một bài hoàn chỉnh. 1
+ Phương pháp luận vấn đề: Đây là một phương pháp vô cùng quan trong trong
nghiên cứu triết hoc và cả với các lĩnh vưc khoa hoc khác. Với đề tài này, từ việc nghiên
cứu những quan điểm chung nhất của Triết học Mác – Lê nin về vấn đề con người. Cùng
với việc xem xét những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, tác giả phân tích đền vai trò, vị trí
của con người Việt Nam hiện nay. Cuối cùng, tác giả luận vần đề đưa ra những nhiêm vu
cụ thể cho sự phát triển con người. Tức là từ những triệt lý chung nhất và phổ biến nhất,
tìm hiều đến những cái riêng và chi tiết của vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp tư duy biện chứng: Trên cơ sở tìm hiêu những quan điểm triết hoc
Mác -Lê nin về vân để con người tôi đã vận đụng và quán triệt các nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản của phép biện chứng dưy vật để tìm hiểu vai trò của nhân tổ con người
trong sự nghiệp ở nước ta, để từ đó vân dụng những quan điểm triệt học Mác -Lê nin đưa
ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phù hợp với giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong quan điểm của triết học Mác – Lênin
về vấn đề con người và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Ý nghĩa của đề tài
Ở một mức độ nhất định, tiểu luận góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về phát huy nhân tố con người
Tiểu luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng hoạch
định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. 2 B. NỘI DUNG
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1.1. Khái niệm về con người
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa
là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể
“song trùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai
yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội
và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng
là “thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động
của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con
người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự
nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động
trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện
chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau đây:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ
có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội
của nó. Mác đã nhiều lần so sánh con người với những loài động vật có bản năng gần
giống với con người. Và ông đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người mới
làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên, con người là thước đo của
vạn vật, con người biết lao động và tạo ra công cụ sản xuất... Trong đó, nhân tố đầu tiên
và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt
qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người, Đó là một trong những phát hiện
mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc 3
loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của
nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì
mỗi con người cũng do đó mà có sự biến đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi
cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người
chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với
đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của
nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu
lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ
từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ
dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
1.2. Bản chất con người
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông đã xuất phát
từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới thông qua hoạt
động vật chất của mình. Đó là một động vật có tính xã hội với tất cả những nội dung văn
hóa – lịch sử của nó. Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người một cách cô lập
và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Con người sống dựa
vào tự nhiên như hết thảy mọi sinh vật khác, nhưng con người sở dĩ trở thành “người”
chính là ở chỗ không chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra
được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải
tạo tự nhiên cũng là quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói “lao động
sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy”.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về
bản chất con người: “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội”. Khác với quan niệm duy vật siêu hình, quan niệm duy vật biện chứng về 4
con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ
giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính
bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách
“người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định
nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã
hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là
“tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên
từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,…
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình
thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải
được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan
hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương diện bản tính
tự nhiên, “người da đen” vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính
trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới có thể bị biến thành “người nô lệ”, còn trong
quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta là “người tự do”, làm chủ và sáng tạo
lịch sử. Như thế, không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da
trắng, nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những
điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng có sự thay đổi
bản chất của con người. Cũng do vậy, sự giải phóng bản chất con người cần phải là hướng
vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua đó
có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện
hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn
về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của
những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ mà trái lại cần
phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội
của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì
con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối
quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời 5
lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Từ đó có thể thấy hạn chế cơ bản của quan niệm duy
vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của
hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con
người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác
đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của
những hoàn cảnh và của giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người
làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử,
chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng
mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không
hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật,
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người có thể thấy:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế – xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì
con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế – xã hội. Trên ý
nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy: Một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã
hội áp bức và bóc lột ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân –
những chủ thể sáng tạo đích thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại; thông qua cuộc cách
mạng đó nó cũng có thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây 6
dựng mối quan hệ kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập
và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và
sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thưc hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp
nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mình vì mọi người; mọi người vì mình”.
II. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người
Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Đảng ta
đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực
kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con người
một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên
thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát
triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người, không để con
người đi lệch tư tưởng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác -
Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc (1945), thống
nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều mà bao nhiêu
học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay
đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống
tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa
vừa nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các
hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày
càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ
cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy nhân tố con người, đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới, nhờ đó mà “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền 7
kinh tế được nâng lên Đất ...
nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
như ngày nay Những thành tựu trong phát huy nhân tố con người ở nước ta trong những
năm qua là khá toàn diện, có thể khái quát một số thành tựu cơ bản như: Phát huy huy
môi trường dân chủ nhằm phát huy nhân tố con người, “thực hiện ngày càng tốt hơn
quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất
nước… Chú trọng thực hiện dân chủ cơ sở”; Ngày càng coi trọng vấn đề phát triển toàn
diện con người, trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; Chăm lo đời sống nhân
dân ngày càng tốt hơn nên “Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt”...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thì vấn đề phát huy nhân tố con người cũng
còn những hạn chế nhất định, như: Hạn chế trong tạo cơ chế nhằm phát huy nhân tố con
người, “Cơ chế và chính sách... còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo được môi trường
thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài”; Hạn chế trong giáo dục, đào tạo
nhằm phát huy nhân tố con người, “hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu
cầu đặt ra... Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao”, “Đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu”.
Từ thực trạng đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề cập một cách nhất quán,
sâu sắc, toàn diện về vấn đề phát huy nhân tố con người. Điều đó thể hiện tập trung
trong quan điểm chỉ đạo, định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, nhiệm vụ
trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và cả trong Đột phá chiến lược. Trong quan điểm
chỉ đạo đã khẳng định nhân tố con người là quan trọng nhất, “nguồn lực con người là
quan trọng nhất”, đồng thời chủ trương phát huy nhân tố con người: “phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa... bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… thúc đẩy đổi
mới sáng tạo”. Trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 thì vấn đề
phát huy nhân tố con người được thể hiện rất rõ nét, như: “Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, thu hút trọng dụng nhân tài…; “Phát triển con người toàn diện...”; “bảo đảm
an ninh xã hội, an ninh con người... chú trọng nâng cao chất lượng dân số...”.
Vấn đề phát huy nhân tố con người được Đảng ta cụ thể hóa thành một trong
những nhiệm vụ trọng tâm ,thể hiện “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế... thực hiện tốt chính 8
sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. Tiếp đó, phát huy nhân tố con người
được Đảng coi là một trong những đột phá chiến lược, điều đó thể hiện: “Phát triển
nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... phát
huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam”.
Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt những thành tựu
vượt bậc, thì sự phát triển con người không chỉ là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác xít vì
ngay khi chủ nghĩa Mác mà các trị của các tư tưởng các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn
hoá bản địa đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó như một
hệ tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng nó cũng chịu sự chi
phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố
tích cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người. Do đó,
Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc mở rộng dân chủ đối
thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về
các mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, trên thế giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình
chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Điều
đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng
tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
2.2. Giải pháp phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay
Một là, bảo đảm môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái trong lành, bền vững
cho nhân dân sinh tồn và phát triển.
Môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái có vai trò đặc biệt đối với sự sinh tồn và
phát triển của con người, điều này đã được C.Mác khẳng định: “Giới tự nhiên là… thân
thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên”(12). Nhận thức sâu sắc tầm
quan trọng của môi trường đối với đời sống nhân dân, trong những năm qua, Đảng ta luôn
quan tâm đến bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà việc bảo vệ môi trường vẫn còn những hạn chế như: Ý thức 9
chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường, còn thấp. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng.
Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường trên một số mặt còn lỏng lẻo, bất cập. Xu
hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chưa được khắc
phục. Chậm chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái
tạo, năng lượng mới, tiết kiệm. Chất lượng môi trường tiếp tục xuống cấp; Các hệ sinh
thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm.
Do vậy, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện những biện pháp cụ thể sau: Nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân về tầm
quan trọng của môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái; Phải xác định rõ môi trường tự
nhiên, môi trường sinh thái vô cùng quan trọng bởi liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng cuộc sống của mọi thành viên xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường
sinh thái là bảo vệ “ngôi nhà chung”, bảo vệ sinh kế lâu dài của nhân dân Việt Nam nói
riêng và của nhân loại nói chung; Quán triệt sâu sắc nguyên tắc, không được đánh đổi môi
trường để lấy tăng trưởng kinh tế; Hoàn thiện pháp luật về môi trường và giám sát chặt
chẽ việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, kiên quyết không để xảy
ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân; Phát triển những
mô hình kinh tế thân thiện với môi trường như kinh tế xanh, kinh tế tiết kiệm nguyên,
nhiên vật liệu, kinh tế tuần hoàn… nhằm mục đích vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế vừa
bảo vệ bền vững môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái; Tăng cường hợp tác quốc tế
trong bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, bởi đây là vấn đề chung của nhân
loại, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quốc gia, dân tộc.
Hai là, bảo đảm xây dựng môi trường xã hội tối ưu để người dân yên tâm sinh sống,
lao động, học tập, sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển, hoàn thiện bản thân, đồng thời
đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Không chỉ có môi trường tự nhiên mà môi trường xã hội cũng có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với việc phát huy nhân tố con người. Môi trường xã hội là sản phẩm của
xã hội loài người được hình thành trên cơ sở tổng hòa các loại môi trường như: môi
trường chính trị, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa - giáo dục… Là sản phẩm của
cộng đồng xã hội, nhưng đồng thời môi trường xã hội lại ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình 10
hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân con người; ảnh hưởng đến
tính chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo của mỗi thành viên xã hội. Do đó, bảo đảm
môi trường xã hội tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy nhân tố con người.
Để xây dựng môi trường xã hội tốt cần xây dựng đồng bộ các loại môi trường kinh
tế, chính trị, văn hóa… theo hướng văn minh, tiến bộ, hội nhập và phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Đối với môi trường chính trị phải dân chủ, ổn định, an toàn, an ninh để người dân
yên tâm, nỗ lực hết mình trong học tập, làm việc, sản xuất, kinh doanh. Thực tiễn thế giới
chứng minh, nước nào bất ổn về chính trị thì nhân dân bất an, nên không phát huy hết khả
năng của bản thân vào sản xuất, kinh doanh, dẫn tới kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo…
không phát triển, thậm chí còn bị tụt hậu. Ngược lại, khi kinh tế, văn hóa, giáo dục đào
tạo… không phát triển được thì không có điều kiện để phát huy nhân tố con người. Do đó,
ổn định chính trị, bảo đảm dân chủ, an toàn, an ninh cho nhân dân có vai trò hết sức quan
trọng đối với phát huy nhân tố con người. Để bảo đảm môi trường chính trị ổn định, dân
chủ, an toàn, an ninh thì phải xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi
dụng những vấn đề như dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để gây rối nội bộ, làm
mất ổn định chính trị - xã hội, làm phương hại đến môi trường chính trị ổn định, an ninh, an toàn của nhân dân.
Đối với môi trường kinh tế phải
thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh Phải .
hình thành đồng bộ các loại thị trường theo hướng văn minh, hiện đại,
hội nhập để phát huy tính tích cực, chủ động của người dân trong khởi nghiệp, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, cạnh tranh
lành mạnh, đem lại lợi ích cho dân, cho nước. Xây dựng văn hóa kinh doanh hiện đại,
nhân văn, hội nhập trên cơ sở các bên đều có lợi, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh
những tổ chức, cá nhân làm ăn phi pháp, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sản xuất,
kinh doanh nói riêng, đến môi trường kinh tế nói chung.
Đối với môi trường văn hóa - giáo dục phải lành mạnh, tiến bộ, giàu tính nhân văn,
lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, làm sức mạnh nội sinh trong phát
triển kinh tế - xã hội cũng như trong hội nhập quốc tế. Để xây dựng môi trường văn hóa -
giáo dục tốt đẹp phải tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nâng cao ý 11
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, ý thức tôn trọng chấp hành pháp luật, nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo. Đồng thời, phải ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội, chống bệnh hình thức
trong giáo dục - đào tạo…
Để xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, dân chủ, kỷ cương, cần tiếp tục hoàn
thiện các cơ chế, chính sách trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến người dân, doanh
nghiệp và cả đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Trước mắt, cần tập trung
hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; cơ chế phát huy dân chủ trong hệ
thống chính trị cũng như ngoài hệ thống chính trị, đặc biệt là cơ chế phát huy dân chủ cơ
sở; cơ chế trọng dụng người tài đức, cơ chế bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống
hiến vì đất nước; cơ chế tạo động lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt
nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân...
Ba là, lấy phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị làm cơ sở, động lực
khơi dậy ý chí, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh trong các tầng lớp nhân dân.
Phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị tức là phát huy năng lực, phẩm
chất tốt đẹp, phát huy tính năng động sáng tạo, phát huy tinh thần phục vụ, cống hiến,
phát huy ý thức trách nhiệm,… của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ
thống chính trị. Phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị sẽ nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao vai trò quản lý, phục vụ, kiến tạo phát triển
của Nhà nước pháp quyền XHCN; nâng cao chất lượng, hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
chế độ XHCN, tạo sự đoàn kết nhất trí trong nhân dân. Trên cơ sở đó, khơi dậy ý chí, khát
vọng phát triển đất nước trong nhân dân, nhằm chủ động, tích cực, phát huy hết tiềm
năng, đem hết năng lực để khởi nghiệp, sản xuất, kinh doanh, xây dựng đất nước giàu
mạnh, hùng cường. Để khơi dậy được ý chí, khát vọng cống hiến của nhân dân cho đất
nước phải luôn luôn đề cao vai trò chủ thể của nhân dân trong tất cả các chủ trương, chính
sách, kế hoạch, mục tiêu của Đảng và Nhà nước, thực hiện đúng như tinh thần của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và 12
hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu”. Làm được như vậy sẽ thống nhất giữa “ý Đảng” và “lòng Dân”, nhân
dân sẽ đặt lòng tin tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước, chủ động triển khai thực hiện thắng
lợi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực tham gia quản lý xã hội, phát
triển kinh tế, xây dựng văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân. 13 C. KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm triết học của Mác – Lênin về con người và phát huy nguồn lực
con người là phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Toàn bộ nội dung của triết học Mác – Lênin
không nhằm mục đích nào khác ngoài việc giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà suy
cho cùng là giải phóng con người, tạo phương hướng để con người tự giải phóng, hướng
tới tự do. Thực sự đã trở thành công cụ hữu hiệu hay nói khác đi đó là nên tảng mà dựa
vào đó các dân tộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới tự giải phóng mình.
Nắm bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung và
triết học Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật công
nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định
của mọi sự phát triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ
và đi liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân tố quyết
định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và
nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, nhằm
thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của đất nước đã đi vào lịch sử suy cho cùng
cũng là thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho
tới ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng và Nhà
nước, với trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo Trình Triết Học Mác - Lênin (Dành Cho
Bậc Đại Học Hệ Chuyên Lý Luận Chính Trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.2, tr.325, 324-325, 336, 338.
5. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 16.5.2021. 15