



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: Văn Ngọc Khánh_ Võ Ngọc Cẩm Tú 28212304169 _28219237616 Võ Bá Lộc _28212353912 Lê Văn Quốc Hồ Thị Đan Hoài_28214934587 Thuận_27203340253 Đàm Mai Linh_29203780335
Lớp : POS 361U
Giảng viên : Th.s Nguyễn Tấn Tài 1
Đà Nẵng, ngày 24 tháng 11 năm 2023 MỤC LỤC TRANG
LỜI MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH................................................
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC..........................
1. Nguồn gốc, vai trò, và vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh.................
Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh........................................
Vị trí tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.................................................
Vai trò của đạo đức:.........................................................................
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức.............................................
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của con người..............
Hồ Chí Minh coi đạo đức là vũ khí sắc bén phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng................................................................................
Theo Hồ Chí Minh đạo đức là nhân tố làm tăng thêm sức
mạnh của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.........................................
Đạo đức cách mạng giúp cho người cán bộ chiến thắng chủ
nghĩa cá nhân.....................................................................................
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY..................
1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay....................
Nguyên nhân:................................................................................
Giải pháp:......................................................................................
2. Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh.................................................................................
KẾT LUẬN................................................................................................ 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ..................................................................
LỜI MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969), là một nhà cách mạng
và chính khách người Việt Nam. Ông là người sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, từng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945–
1969, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–
1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
từ 1956–1960, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam từ năm 1951 cho đến khi qua đời.
Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa
Marx – Lenin. Ông là nhà lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh tiến hành
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông cũng là người đã soạn thảo, đọc
bản Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và
trở thành Chủ tịch nước sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Khi tiếp nhận
chủ nghĩa Marx - Lenin, ông từ người yêu nước trở thành người cộng sản
khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Đến với chủ
nghĩa Marx - Lenin từ đòi hỏi của thực tiễn giải phóng dân tộc và con
người, từ nhu cầu chung của nhân loại về quyền dân tộc, quyền con
người, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Marx - Lenin để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và thế giới và tự
tìm ra con đường của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chủ nghĩa Marx -
Lenin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết
định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là sự vận dụng chủ nghĩa Marx - Lenin trong hoàn cảnh của Việt Nam.
Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt
nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã
được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa 3
tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại
và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức
của dân tộc,vừa thâu góp những đạo đức của thời đại, đề xuất những tư
tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới và hướng tới việc xây dựng con người mới có đủ đức, đủ tài
phục vụ đất nước và làm rạng ngời con người Việt Nam. Và lí do chúng
em chọn đề tài này là chúng em nhận thấy trong di sản của Người tư
tưởng về đạo đức chứa đựng những nét đặc sắc ngang tầm thời đại, là
kim chỉ nam xây dựng nền văn hóa mới, con người mới trong giai đoạn
đất nước ta đang đổi mới.
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nguồn gốc, vai trò, và vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh.
• Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, được
hình thành trong trường kỳ lịch sử đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức
phương Đông, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng Mác, Ăngghen,
Lênin cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà các ông để lại.
Điều này đã được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của
Người sau khi Lênin mất:” Lênin là người ‘đã nêu cho chúng ta một tấm
gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ”. "Không phải chỉ
thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu
lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và
cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và
đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì ngăn nổi" l .
Đây không phải chỉ là tình cảm của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà
còn là tình cảm của tất cả các dân tộc thuộc địa đối với Lênin vĩ đại. 4
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm,
phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho
giáo. Nếu từ đó lại cho rằng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minhlà
đạo đức Nho giáo thì hoàn toàn sai lầm. Những khái niệm, phạm trù đánh
dấu những bậc thang nhận thức của loài người. Qua các thời đại lịch sử,
những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản chung của nhân loại,
nhưng nội dung đã cớ nhiều thay đổi. Những khái niệm như trung, hiếu,
nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính ... đã có trong Nho giáo từ mấy trăm
năm trước Công nguyên; dân chủ, tự do. công bằng, bác ái đã xuất hiện
từ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. Nhưng trong hai thiên niên kỷ vừa qua, các
giai cấp, các dân tộc đã hiểu những khái niệm đó rất khác nhau, thậm chí
có những điểm trái ngược nhau. Điều đó là do những lợi ích khác nhau
của các giai cấp, các dân tộc khác nhau quy định.
Hồ Chí Minh sử đụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã
từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội
dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm. trù đạo đức
của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập
với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người
Việt Nam đều cảm thấy gần gũi Hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền
thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho Người thực hiện được việc
kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp thu những tinh hoa đạo đức
của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã
được đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt
Nam trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc
trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn việt
Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị 5
đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với
yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
• Vị trí tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
-Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và
đi được xa”, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
nếu không có đạo đức làm nền tảng, làm cái căn bản thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vai trò sức mạnh của đạo đức được
Hồ Chí Minh nhìn nhận trên các bình diện:
- Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng
vẻ vang. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, làm cho người Việt Nam từ nghèo
đói trở nên đủ ăn, từ đủ ăn trở nên khá, từ khá trở nên giàu và giàu thì lại
càng giàu thêm. Sự nghiệp đó rất cao cả và nhân văn, đòi hỏi phải có
những phẩm chất tương ứng.
- Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, cao thượng của xã hội,
con người. Người có đạo đức là người cao thượng; một dân tộc, mặc dầu
kinh tế còn lạc hậu, nhưng có được đạo đức cần, kiệm, liêm, chính thì vẫn
xứng đáng là một dân tộc văn minh.
- Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm
người trong mọi hoàn cảnh, không dễ bị thay đổi trước những xoay vần,
biến thiên của thời cuộc: Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục.
- Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới
giữ vững được chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc
sống. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh
đã nêu một quan điểm lớn: Phải có đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái
trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững chủ
nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cấu trúc nhân cách bao gồm hai
mặt: đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, trong 6
đó, Người xác định đạo đức, phẩm chất, hồng là gốc, là nền tảng, nhưng
điều đó không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là
gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi, không thể có mặt này,
thiếu mặt kia. Hồ Chí Minh đã nói rất rõ, có tài mà không có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội
nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng
cũng không lợi gì cho loài người. Người thực sự có trí thì bao giờ cũng cố
gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng, nghiệp vụ
để hoàn thành tốt, có hiệu quả, trong thời gian ngắn nhất mọi nhiệm vụ
được giao. Khi đã thấy rằng không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn
mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và sẵn sàng nhường bước, để họ
bước lên trước. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã nêu 23 điểm
thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu
chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với
người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ
rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
• Vai trò của đạo đức:
Về vai trò của đạo đức, Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng
giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo
đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải 7
xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Người thường nhắc lại ý của V.I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến một cách toàn diện.
Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã
hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã
hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người,
đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực
đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm
quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Về vai trò của đạo
đức, Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng giúp cho con người
vững vàng trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì
khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”;
“khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ,
chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. Đối với Đảng, tổ chức
tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật
trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý
của V.I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc và thời đại. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập
đến một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp,
tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi
phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người:
đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt
được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi
Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người
viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải 8
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. 2.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức
• Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của con người.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người,
cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, suối.
Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân.”
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng tinh thần của con người, giúp cho
con người vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách. Có đạo đức sẽ giúp
người cán bộ cách mạng không lùi bước trước khó khăn gian khổ, sẵn
sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng.
“Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, không rụt
rè, lùi bước”, “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”... Đó
cũng là biểu hiện của đạo đức cách mạng.
Đạo đức có nội hàm sức mạnh to lớn. Như Hồ Chí Minh vẫn thường nói,
đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người
cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng.
Bởi lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to
lớn, khó khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là con đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi sự
phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của
nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Nếu không có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, người cán bộ có thể mềm lòng, nản chí, xuôi tay.
Có đạo đức cách mạng sẽ giúp người cán bộ cách mạng không lùi bước
trước khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng. 9
Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là cái “gốc” của người cách mạng. Đạo
đức cách mạng giúp người cán bộ phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện hoàn
thiện bản thân trong quá trình tham gia cách mạng, lo hoàn thành nhiệm
vụ cho tốt, chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Chăm lo cái gốc, cái
nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng,
toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi con người trong xã hội.
Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối
hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và
chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có
mặt này, thiếu mặt kia.
Đức là nền tảng của tài, định hướng cho tài phát triển. Ngược lại, tài là
thành tố góp phần tạo nên đức, hoàn thiện đức. Do đó, người cán bộ cần
phải có cả hai phẩm chất này.
Như Hồ Chí Minh đã phân tích: Người có đức mà không có tài thì cũng
chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng
chẳng có ích gì cho loài người. Ngược lại, nếu người có tài mà không có
đức, thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, nhưng lãng phí,
tham ô, ăn cắp của công, như vậy, chỉ có hại cho dân cho nước, còn sự
nghiệp của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ.
Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình
độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Khi đã thấy sức không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn mình, mình
sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước. Ý nghĩa
“đức là gốc” chính là ở chỗ đó.
• Hồ Chí Minh coi đạo đức là vũ khí sắc bén phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng.
V.I.Lênin đã từng nói: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội
cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”. 10
Đạo đức chính là những phẩm chất đòi hỏi con người cần phải có để tham
gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống
hiến được nhiều nhất cho cuộc đấu tranh đó. Đạo đức là gốc, là nguồn, là
nền tảng của người cách mạng, bởi vì muốn làm cách mạng thì trước hết
con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp
công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc mình.
Cái tâm, cái đức ấy lại phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng
ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung
quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa Marx-
Lenin và đưa được chủ nghĩa Marx-Lenin vào cuộc sống.
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu
biểu về đạo đức cách mạng, như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong,
Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ... Các đồng chí đó
đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên
trên hết, trước hết, không lùi bước trước kẻ thù, dũng cảm hy sinh oanh
liệt. Các đồng chí đó đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí
công vô tư cho tất cả chúng ta học tập.
• Theo Hồ Chí Minh đạo đức là nhân tố làm tăng thêm sức
mạnh của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý
tưởng cao xa nào, mà trước hết, cụ thể và trực tiếp là ở những người
cộng sản ưu tú bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu
cho lý tưởng đó thành hiện thực. Củng cố hay làm suy giảm niềm tin của
quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội không phải ở những sai
lầm và thất bại tạm thời, mà chủ yếu là ở sự sa sút thoái hóa của những
người được mệnh danh là “những chiến sĩ tiên phong” của cách mạng.
Nhận thức được vai trò và sức mạnh của sự nêu gương, Hồ Chí Minh
thường xuyên nhắc đến tấm gương đạo đức của V.I.Lênin: “Không phải
chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần
yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ
đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu 11
Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”.
Hồ Chí Minh cho rằng, đã là cán bộ, đảng viên thì trước hết phải trở thành
một công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và
kỷ cương xã hội. Sự mực thước, nêu gương của người cán bộ, đảng viên
trước nhân dân là vô cùng cần thiết.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là theo lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đặc trưng của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là
tính nhân đạo chân chính, với phương châm “tất cả vì con người, vì hạnh
phúc của con người”. Sự thỏa mãn toàn diện và triệt để nhu cầu vật chất
và tinh thần của con người khiến lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mang giá
trị đạo đức, văn minh.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn Đảng ta “chủ nghĩa cộng sản là mục
đích cuối cùng của Đảng ta. Đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản là lẽ sống
của người đảng viên..., mỗi đảng viên nâng cao quyết tâm phấn đấu suốt
đời cho lý tưởng cộng sản..., cần luôn luôn ghi nhớ: Người cộng sản
chúng ta không được phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là: suốt đời
làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới”.
Đảng xác định mục tiêu của mình là giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, xây dựng một xã hội mới văn minh tiến bộ - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng đại diện cho lực lượng tiên
tiến, là bộ phận tinh hoa của xã hội, là một tập thể đại diện cho văn minh, tiến bộ.
Đạo đức cách mạng là gốc của Đảng cách mạng. Gốc có vững bền, nền
mới chắc. Không có đạo đức cách mạng, Đảng không có sức mạnh, 12
không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trước giai cấp và dân tộc.
Muốn biết Đảng đó như thế nào hãy nhìn vào đội ngũ đảng viên. Đảng
viên tốt, thì Đảng mạnh. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người
thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất,
trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những
người mà: “Giàu sang không thể quyến rũ/Nghèo khó không thể chuyển
lay/Uy lực không thể khuất phục”.
Đảng là một tập thể bao gồm hầu hết những đảng viên vững vàng về
chính trị, giỏi về chuyên môn, tài đức vẹn toàn, kết thành một tổ chức có
năng lực trí tuệ cao, có trình độ văn hóa, có lý luận tiên phong đủ sức
dẫn đường cho quần chúng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử.
• Đạo đức cách mạng giúp cho người cán bộ chiến thắng chủ
nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể
tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân".
Người còn chỉ rõ, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, người cách
mạng cần phải nhận rõ có ba loại kẻ địch nguy hiểm nhất: Một là, chủ
nghĩa tư bản và bọn đế quốc phản động. Hai là, thói quen và truyền
thống lạc hậu. Ba là, chủ nghĩa cá nhân. Nó là bạn đồng hành của hai loại kẻ địch trên.
Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch khó chống nhất. Vì nó “ẩn nấp trong mình
mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để
ngóc đầu dậy”. Nó là nguyên nhân chính trong các khuyết điểm mà cán
bộ, đảng viên thường mắc. Kinh nghiệm cho thấy, chiến thắng tiêu cực ở
người khác, ở ngoài xã hội đã khó, nhưng chiến thắng tiêu cực ở chính mình còn khó hơn nhiều.
Hồ Chí Minh đã vạch ra chân tướng và biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa cá
nhân là: so bì đãi ngộ lương thấp, lương cao, quần áo đẹp, xấu; là việc gì 13
cũng chỉ lo lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của
tập thể, “miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”.
Theo Người, do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào
tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa; tham danh trục lợi, chỉ thích địa vị
quyền hành; tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng,
độc đoán chuyên quyền; xa quần chúng, xa thực tế, mắc bệnh quan liêu,
mệnh lệnh; không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.
Cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ
luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.
Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra mọi thói hư tật xấu, như: lười biếng, suy bì, kiêu
căng, kèn cựa, lãng phí, tham ô, bè phái, địa phương chủ nghĩa...
Theo Hồ Chí Minh, muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài, thì trước hết phải
đánh thắng kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân. Muốn đánh thắng kẻ
thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi cán bộ, đảng viên.
Với Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng,
nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để
che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh
cho sự nghiệp cách mạng”. Vì vậy, muốn thành người cộng sản chân
chính phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Theo Người, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải xây dựng tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, mà muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột sạch
chủ nghĩa cá nhân, phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng giúp cho người cán bộ cách
mạng chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Người cán bộ phải trải qua một
quá trình tự giác tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách 14
mạng lâu dài, gian khổ; phải trải qua thực tiễn đấu tranh chống lại chủ
nghĩa cá nhân, đạo đức cách mạng mới được củng cố bền vững.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”.
Nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1969), Hồ Chí Minh
đã viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
đăng trên báo Nhân Dân. Bài viết tập trung vào vấn đề trau dồi đạo đức
cách mạng, tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân của cán bộ, đảng viên.
Người viết: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của
Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập
thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”.
Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh có những cán bộ, đảng viên có
nhiều công lao, nhưng không chịu khó tu dưỡng rèn luyện, để mất đạo
đức cách mạng, thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng, mà còn vấp ngã, thất bại. Và nơi nào đội ngũ cán bộ mạnh, có đạo
đức cách mạng gương mẫu, năng động, thì nơi đó hoàn thành tốt nhiệm vụ.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay
Hồ Chí Minh cho rằng thế hệ trẻ là cầu nối giữa thế hệ già và trẻ, vừa
tiếp lửa cho cuộc cách mạng của những người lớn tuổi, vừa là hướng dẫn
cho thế hệ mai sau. Vì vậy, ông coi việc giáo dục đạo đức và chăm sóc
học sinh là hết sức quan trọng. Trong một lần trò chuyện với học sinh, Hồ
Chí Minh cho rằng thanh niên phải có tài và có đạo đức tốt. Một người
giỏi kinh doanh và tài chính, nhưng không có đạo đức, cuối cùng sẽ làm 15
hỏng mọi thứ. Anh ta sẽ không tạo ra bất cứ điều gì tích cực cho xã hội,
và có thể sẽ làm tổn thương xã hội. Nếu một người có đức nhưng không
có tài như Đức Phật, thì họ không gây hại gì, nhưng cũng chẳng giúp ích
được gì cho nhân loại.
Xã hội đang ngày càng phát triển và hiện đại, đất nước Việt Nam
đang trong thời kỳ đổi mới xây dựng. Để đạt được mục đích tương lai lâu
dài của đất nước thì thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cần phải chú trọng
về mặt đạo đức và học tập để góp phần xây dựng nên một Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc.
Tuy nhiên, trên thực tế thế hệ sinh viên có thực sự sống nghiêm
chỉnh, chấp hành pháp luật và tôn trọng truyền thống văn hóa dân tộc
hay là đang sống một lối sống thiếu lành mạnh và văn hóa? Một thực
trạng đáng lo ngại ngày nay đó chính là chỉ một số ít sinh viên thực sự có
hứng thú với học tập, say mê cống hiến cho xã hội và góp phần xây dựng
đất nước. Các sinh viên này thường xuyên tham gia các hoạt động tình
nguyện, chính trị - xã hội. Còn lại nhóm đông đảo sinh viên thể hiện lối
sống hiện đại, tiêu xài hoang phí vào những thú vui vô bổ và có hại cho
thế hệ tương lai. Nhóm lớn sinh viên này bị ảnh hưởng bởi môi trường
sống, mạng xã hội và những tác động tiêu cực đến từ bản thân họ. Nhóm
còn lại chỉ là số ít sinh viên thực sự có hứng thú với học tập, say mê cống
hiến cho xã hội và góp phần xây dựng đất nước. • Nguyên nhân:
Phần lớn nguyên nhân đến từ phía gia đình. Những nhóm sinh viên
này nảy sinh những hành động và ý nghĩ bốc đồng do thiếu sự quan tâm
từ gia đình. Tất nhiên không thể đổ lỗi của thế hệ sinh viên ngày nay lên
gia đình họ, bởi lẽ xuất phát điểm của mỗi người là không giống nhau,
cách giáo dục của mỗi người lại càng khác nhau. Tuy nhiên, gia đình
cũng có một phần trách nhiệm nhỏ về hành động và lối sống của con em.
Đặc biệt đối với những gia đình với yêu chiều con trẻ, các bạn dần làm
quen với lối sống quá thoải mái từ nhỏ và hình thành lối sống buông thả khi trưởng thành 16
Nguyên do thứ hai không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng của
công nghệ. Ngày nay, đi cùng với sự phát triển của các thiết bị thông
minh và internet là sự lan truyền thông tin cực kỳ mạnh mẽ, tốc độ lan
truyền nhanh hơn tốc độ xác thực thông tin và kiểm chứng thông tin. Các
bạn trẻ ngày càng phụ thuộc vào điện thoại, mạng xã hội để chia sẻ
những thông tin vô bổ, thậm chí là có hại cho tư tưởng và hành động.
Tình trạng các bạn trẻ học theo những xu hướng xấu trên mạng xã hội
cũng không còn là điều xa lạ.
Một nguyên nhân nữa là do tình trạng thiếu hiểu biết về luật pháp
của các thanh niên. Trên thực tế cho thấy rằng, chỉ một phần nhỏ sinh
viên am hiểu về luật nên số còn lại do thiếu hiểu biết nên coi thường sự
nghiêm khắc của pháp luật Việt Nam. Các bạn chưa đủ hiểu biết về pháp
luật để nhận thức được mức nghiêm trọng của vấn đề mặc dù đã trên 18
tuổi. Rất nhiều câu chuyện về tình trạng xô xát, buôn bán ma túy, vi
phạm luật giao thông… xảy ra ở lứa tuổi các bạn sinh viên
Cuối cùng, do ảnh hưởng từ môi trường sống. Tình trạng quấy rối xã
hội ngày càng gia tăng và chưa có một giải pháp nào để thực sự chấm
dứt những điều này. Các bạn sinh viên sinh sống trong các môi trường có
sự tác động của văn hóa đồi trụy, phim ảnh không lành mạnh và sự phổ
biến của tệ nạn ma túy, rượu bia, cờ bạc… ngày càng có lối sống thực dụng và tiêu cực hơn. • Giải pháp:
Một là gia đình phải cải thiện cách giáo dục cổ hũ trọng nam kinh
nữ, định hướng văn hóa trong tư tưởng cho con em ngay từ khi còn nhỏ.
Khi người chưa thành niên biết sống phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
xã hội thì sẽ có cơ hội phát triển bản thân trong tương lai. Bởi giáo dục từ
gia đình có vai trò vô cùng quan trọng trong cách hình thành đạo đức, lối
sống văn hóa khi con người trưởng thành
Hai là, địa phương và nhà trường cần tổ chức các biện pháp quản lý
khoa học, chặt chẽ đối với sinh viên. Phổ biến các ứng dụng tích cực từ
công nghệ. Siết chặt các nội dung vô bổ và đồi trụy trên mạng nhằm hạn 17
chế sự tác động tiêu cực cho người trực tiếp tiếp nhận thông tin – sinh viên.
Ba là, tăng cường phổ biến luật pháp Việt Nam nhằm răn đe các
hành vi xấu trong tương lai của các sinh viên. Các buổi ngoại khóa về
phòng chống ma túy – tệ nạn xã hội cần được tổ chức một cách rộng rãi
và thường xuyên hơn để giúp sinh viên củng cố được kiến thức và tác hại
của các hành vi gây rối xã hội
Bốn là, cải thiện tình trạng an ninh xã hội hơn ở các khu dân cư. Các
cư dân cần có ý thức hơn về tầm ảnh hưởng về hành động của mình.
Năm là, mỗi sinh viên cần có nhận thức về hành vi của mình. Các
bạn đều đã trên 18 tuổi, cần có ý thức rõ để nhận biết mức độ nghiêm
trọng của các hành vi bốc đồng và nông nỗi. Mỗi sinh viên cần nên có
trách nhiệm đối với bản thân và xã hội, có nghĩa vụ đóng góp xây dựng xã hội
Nói tóm lại, việc xây dựng một thế hệ trẻ có tài và có đức không chỉ
là trách nhiệm của cá nhân mà còn là trách nhiệm của gia đình và toàn
xã hội. Mỗi cá nhân đều phải tự cố gắng học hỏi, trau dồi và tuyên truyền
những điều hay việc tốt. Làm theo lời Bác Hồ dạy: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
2. Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng, việc tu dưỡng đạo đức mỗi cá
nhân, mỗi còn người có vai trò vô cùng quan trọng đặc biệt là đối với thế
hệ trẻ vì họ là là là "người chủ tương lai của nước nhà". Người cũng đã
từng khẳng định "Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức
ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã
hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì,
nhưng cũng không lợi gì cho loài người". Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo 18
dục về những kiến thức cần thiết, nên song song chú trọng phát triển và
rèn luyện đạo đức cho con em nhiều hơn.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi
người chúng ta cần làm tốt các mặt sau đây:
Một là, mỗi sinh viên phải làm theo mục tiêu lý tưởng của Đảng,
của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh dân giàu, nước mạnh.
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” đề cao đức tính của đời sống mới, là phẩm chất chủ chốt của đạo đức
cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ưa chuộng phong cách sống giản
dị, trong sạch và công bằng; chán ghét lối sống xa hoa và cầu kỳ. Có thể
thấy rõ đức tính của Người qua hình ảnh bộ ka ki, đôi dép lốp…
+ Cần cù lao động, học tập với tinh thần sẵn sàng và cống hiến dâng
cao; đẩy mạnh chất lượng lao động và học lập một cách có hiệu quả
+ Tiết kiệm tài sản của cá nhân và tập thể. Đây cũng là một biểu hiện
của sự biết quý trọng công sức lao động của bản thân và xã hội.
+ Kiên quyết không theo và phục tùng chủ nghĩa cá nhân, không để cho
lợi ích cá nhân chi phối mà chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích
cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công
+ Luôn luôn chính trực để bảo vệ công lý, sống theo quan điểm của Đảng
và Nhà nước; dứt khoát không chạy theo các con số thành tích hay lợi lộc
mà có những hành động bao che, mất công bằng trong đời sống.
+ Thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là lối sống loại trừ
tất cả những biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống. Lời nói phải đi đôi với
việc làm, sống phải có lý tưởng kiên quyết lên án kẻ lười biếng, phung
phí, không liêm chính để việc tư xen vào việc công.
Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
+ Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật
và kỷ cương trong tổ chức và tập thể 19
+ Mỗi cán bộ, đảng viên cần có trách nhiệm với nhân dân, phải gần dân
để thấu hiểu nỗi khổ của dân, phải học dân cách sống và cách làm việc
cần cù siêng năng. Tuyệt đối nói không với thái độ thờ ơ, lãnh đạm trước
những nỗi khổ của nhân dân.
+ “Phải nghiêm khắc với chính mình”, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải tự
biết phê bình và khắc phục lỗi của bản thân mình. Phê bình để thấy được
những hạn chế của bản thân trong lối xây dựng con người và ttoor chức,
khắc phục để giúp nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, mỗi người phải tự biết
giới hạn của bản thân mà không nên chạy theo những đấu đá, lời xu nịnh tâng bốc nhau.
Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. cần
phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự kết hợp từ nhân tố giáo dục và nhân tố rèn luyện của sinh viên
đem lại hiệu quả cho phong trào “Học và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Không chỉ riêng thuộc phần trách nhiệm của cha mẹ, thầy
cô và các cán bộ quản lý mà còn là trách nhiệm của chính bản thân của mỗi học sinh sinh viên. 20