Tiểu luận nề văn minh Hy Lạp - Lịch sử văn minh thế giới 1 | Trường Đại Học Duy Tân
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải, có vị trí địa lý rất quan trọng trong việc giao thương giữa phương Đông và Phương Tây. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử văn minh thế giới 1(HIS 221)
Trường: Đại học Duy Tân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
NỀN VĂN MINH HY LẠP
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Phương Thảo Môn:
Lịch sử văn minh thế giới 1 Lớp: HIS 221 BL Đà Nẵng, năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN STT Họ và tên
Mã số sinh viên 1
Dương Thị Linh Nga (nhóm trưởng) 26208638581 2 Nguyễn Thị Thảo Vy 26205242098 3 Phùng Hoàng Phú Quý 26214326607 4 Trần Trọng Đạo 26211332861 5 Ngô Lê Vĩnh Toàn 26211330034 6 Võ Đình Duy 25211204478 7 Nguyễn Lê Hoài Bắc 26211342499 8 Nguyễn Đình Tín 27212180008 9 Trần Phú Quý 2321115074 10 Đào Lê Hải Triều 26211642694 11 Phạm Nguyễn Văn Tây 26211736179 12 Văn Bá Hậu 26212135290 13 Nguyễn Lê Phương 26211600794 14 Phạm Phương Nam 25211204478 15 Ngô Văn Trung 26211735999 16 Nguyễn Hoàng Trường Anh 26211334663
MỞ ĐẦU
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải, có vị trí địa lý rất
quan trọng trong việc giao thương giữa phương Đông và Phương Tây. Lãnh thổ
Hy Lạp cổ đại rộng lớn gồm 3 phần : miền Nam bán đảo Bancăng, các đảo trên
biển Êgiê và miền ven biển phía Tây Tiểu Á, trong đó quan trọng nhất làm miền
Nam bán đảo Ban căng tức là vùng lục địa Hy Lạp. Toàn bộ vùng lục địa này
Được chia thành 3 khu vực : Bắc Bộ, Trung bộ và Nam bộ, Miền bắc và miền
Trung chia cắt nhau bởi đèo Téc mô pin, nhưng cả hai đều có địa hình không
bằng phẳng với nhiều rừng núi, thung lũng, đèo chạy ngang dọc, tạo nên những
biên giới thiên nhiên tạo thành nhiều khu vực nhỏ hẹp và hầu như tách biệt nhau.
Hy Lạp cổ đại chia làm 4 thời kì:
Thời kỳ văn hóa Crete- Mycenae ( TNK III- XI TCN).
Thời kỳ Homer (XI- IX TCN).
Thời kỳ quốc gia thành bang ( TK VIII- IV TCN).
Thời kỳ Macedonia và Hy Lạp hóa ( TK VII TCN- 337 TCN). 1
I. Thời kỳ văn hóa Crete- Mycenae ( TNK III- X I I TCN). 1. Vị trí địa lý
Crete là một đảo lớn ở phía nam biển Egie, còn Mycenea là một địa danh
thuộc vùng đồng bằng Pêlôpône. Năm 1900, Actua Ivan – nhà khảo cổ học
người Anh – đã tiến hành khai quật nhiều đợt ở khu vực, theo truyền thuyết, vốn
là thành cổ Knossos thuộc đảo Crete và đã thu được nhiều hiện vật có giá trị, đặc
biệt là di tích của thành Troy ở Tiểu Á.
Vào năm 1873, Henrích Sơliman – nhà khảo cổ học người Đức – đã tới khai
quật ở khu vực Pêlôpône. Ở Mycenea, đoàn khảo cổ đã phát hiện được nhiều di
vật quý, những thành lũy xây bằng đá, nhiều mộ táng có chôn theo vàng, bạc, đồ
dùng quý báu. Năm 1885, Soliman lại phát hiện được ở Tiranh – một địa điểm
cách không xa Myxen – một cung điện lộng lẫy có tường đá bao quanh với
những bức bích họa sinh động. Văn minh Crét từ thiên kỉ III TCN tới cuối thiên
kỉ II TCN. Giai đoạn huy hoàng nhất thuộc các thế kỉ XVII, XVI, XV TCN. Văn
minh Mycenea từ cuối thiên kỉ III TCN – khi người Akêen từ phương Bắc thiên
di xuống phía nam và định cư ở Pêlôpône – đến cuối thiên kỉ II TCN. 2. Kinh tế
Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XII TCN, văn minh Mycenea cũng đạt tới giai đoạn
huy hoàng nhất. Qua các hiện vật thu được, người ta thấy ở C e r te - Mycenea,
kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi là hoạt động kinh tế chủ đạo của người Hy
Lạp. Nông sản gồm các loại lúa mì, lúa mạch, các loại đậu, rau, quả, đặc biệt là
nho và oliu. Gia súc được chăn nuôi chủ yếu là ngựa, lừa. Thủ công nghiệp cũng
tương đối phát đạt. Các di vật ở cung điện thứ nhất, thứ hai của thành Cơnôt
(văn minh Crete) cũng như ở Mycenea cho thấy rằng nhiều ngành, nghề thủ
công đã xuất hiện với các nghề : sản xuất đồ gốm, rèn, đồ trang sức, ép dầu, sản
xuất rượu… Trên cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp, hoạt động thương mại
của người Crete - Mycenea cũng thành đạt, sản phẩm thủ công được trao đổi
rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau với Nam Italia, đảo Xixin, Tiểu Á 2
Từ năm 1700- 1400 TCN, nền văn minh Crete đạt đến sự hưng thịnh. Nền
kinh tế lấy nông nghiệp làm cơ sở gồm chăn nuôi, trồng trọt và nghề thủ công
tương đối phát triển. Đây cũng là thời kỳ thống nhất quyền thống trị trên đảo
Crete và trên biển, mở rộng quan hệ kinh tế với các khu vực, và chế độ nô lệ
không ngừng phát triển. Các nô lệ cũng như nông dân đều bị bắt đi làm lao dịch,
xây dựng vương cung rất nặng nhọc. 3. Văn hóa, xã hội
Văn minh Mycenae nằm ở đồng bằng bán đảo Peloponese. Chủ nhân của
nền văn hóa Mycenae là người Akeăng. Thời kỳ huy hoàng nhất của văn hóa
Mycenae là từ thế kỷ XVI-XII TCN. Trên cơ sở công cụ đồng thau, ở Crete và
Mycenae đã xây dựng những nhà nước tương đối hùng mạnh.Cret Myxen là 1
nền văn minh của xã hội có giai cấp và nhà nước,cũng giống như văn minh
Phương Đông cổ đại,bị tàn tạ vào thiên niên kỉ II TCN một chi nhánh của người
Hy Lạp từ phía Bắc di cư xuống phía Nam. Từ năm 1194 - 1184 TCN, Mycenae
đã tấn công thành Tơroa ở T ể
i u á và đã tiêu diệt quốc gia này. Sau cuộc chiến
tranh này 80 năm tức là đến cuối thế kỷ XII TCN, người Đôniêng với vũ khí
bằng sắt từ phía Bắc tràn xuống tấn công đã tiêu diệt các quốc gia ở Mycenae
và Créte. Thời kỳ Créte- Mycenae kết thúc.
II. Thời kỳ Homer (XI- IX TCN) 1. Sơ lược
Thời kỳ Homer còn gọi là “thời địa anh hùng”. Sở dĩ gọi như vậy là vì lịch
sử Hy Lạp trong giai đoạn này được phản ánh trong hai tập sử thi “Illiad” và
“Odyssey” của Homer. Ông được coi là một trong những nhà thơ Hy Lạp cổ đại
xuất sắc nhất. Hai tác phẩm “Iliad” và “Odyssey” của ông đã có ảnh hưởng lớn
đến văn chương hiện đại phương Tây. Theo truyền thuyết thì ông bị mù và là
một người hát rong tài năng. 1
Hai tác phẩm nổi tiếng, Iliad và Odyssey, của ông được ghi chép lại chính
thức vào thế kỷ thứ 6 TCN theo lệnh của Bạo chúa (Tyrannos) Athena lúc bấy
giờ là Peisistratos. Đây là một thuật ngữ sử học chỉ giai đoạn quá độ từ nền văn
minh Mycenae sang văn minh Hy Lạp.
Nội dung sử thi Iliad và Odyssey kể lại câu chuyện liên quân Hy Lạp vây
đánh thành Troy và những sóng gió của Odyssey phải trải qua khi bị lưu lạc
ngoài biển khơi sau chiến thắng vang dội của trận chiến thành Troy và quân đội
Hy Lạp. Quốc vương thành Troy ở tây bắc Tiểu Á với sự giúp đỡ của các thiên
thần đã lừa bắt Helen, hoàng hậu nước Xpacto người đẹp nhất Hy Lạp. Để cứu
hoàng hậu, người Hy Lạp tổ chức đại quân 10 vạn người vượt biển tấn công
thành Troy. Thống soái Hy Lạp và vua Agamemnon. Cuộc chiến giữa Hy Lạp
và quân thành Troy kéo dài suốt 10 năm. Các thiên thần giúp đỡ cho cả hai bên
nhưng quan Hy Lạp vẫn không hạ nổi thành Troy. Cưới cùng Odyssey với “ kế
ngựa gỗ” cho quân Hy Lạp giả rút lui, chui vào ngựa gỗ. Quân thành Troy
không biết, quân Hy Lạp đã phá cửa thành đưa ngựa gỗ vào trong, đén đêm quân
trong ngựa gỗ mở cửa thành phối hợp với quân ngoài thành đánh bại thành Troy.
Cuộc chiến kết thúc , quân đội của Hy Lạp giành chiến thắng vẻ vang 2. Kinh tế, xã hội
Xã hội Hy Lạp thời Homer không phải là sự phát triển tiếp tục xã hội có nhà
nước thời Crete - Mycenea mà là giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy. Lúc
bấy giờ, sự phân hóa giàu nghèo tuy đã diễn ra rõ rệt, nhưng nhà nước chưa ra đời.
Thời kỳ này đã chuyển từ đồ đồng sang đồ sắt , con người đã biết sử dụng sắt
để chế tạo vũ khí, dụng cụ và đồ sinh hoạt. Trên đồng ruộng đã dùng trâu kéo
cày, thủ công nghiệp dã trở thành ngành sản xuất độc lập.
Con người thời Homer đã bắt đầu bước vào xã hội thị tộc phụ hệ, trong thị
tộc xuất hiện chế độ gia trưởng đại gia tộc. Trong thời kỳ ấy nội bộ thị tộc phát
sinh phân hóa, các tiểu gia đình tách khỏi cộng đồng gia đình của chế độ gia
trưởng. Hiện tượng phân hóa giàu nghèo giữa các thành viên công xã xuất hiện 2
ngày càng rõ. Thủ lĩnh bộ lạc và tầng lớp quý tộc thị dân tranh giành ruộng đất
bạt ngàn, vườn quả xum xuê, giếng nước trong lành, trong khi đó những người
dân nghèo không được chia đất, ra khỏi công xã , lâm vào cảnh làm thuê, tha
phương cầu thực và xuất hiện nô lệ.
Các anh hùng sử thi của Homer thực chất là những tộc trưởng và quý tộc của
các bộ lạc, thị tộc họ lợi dụng đặc quyền của mình chiếm nhiều ruộng đất với sự
giàu có bằng hàn đàn gia súc và kho vàng, bạc. Quý tộc thị tộc trở thành chủ nô
thời sơ khai, các nô lệ tù binh. Nữ nô lệ thì đan, dệt vải, nội trợ. Nam nô lệ thì
làm ruộng, chăn thả gia súc. Chủ nô lệ coi những nô lệ là tài sản tùy ý sử dụng.
Bộ lạc Homer có 3 cơ cấu hội đồng tộc trưởng: hội đồng tộc trưởng, hội
đồng dân chúng và thủ lĩnh quân sự. Hội đồng tộc trưởng là cơ cấu mang tính
chất thường kỳ bao gồm các thủ lĩnh thi tộc có quyền lực rộng rãi. Hội đồng dân
chúng quyết định các việc lớn do hội đồng tộc trưởng thảo luận giao cho như
tuyên chiến, giảng hòa và thờ tự…Thủ lĩnh quân sự là thủ lĩnh tối cao của bộ lạc
được gọi là vua , nhưng thời gian này họ vẫn chưa trở thành kẻ thống trị tối cao
nên họ vẫn phải tự mình tham gia vào các cuộc thi gặt hái lúa, cày ruộng với mọi người.
III. Thời kì thành bang (thế kỉ VIII-IV TCN) 1. Sơ lược
Đây là thời kì ở Hy Lạp hình thành hàng trăm nhà nước nhỏ mà người ta gọi
là các thành bang. Trong hàng trăm thành bang thời đó thì quan trọng nhất là
Athen và Sparta. Rất nhiều thành bang ở Hy Lạp thời đó sồng bằng nghề công
thương nghiệp. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của văn minh Hy
Lạp. Thế kỉ V TCN, các thành bang của Hy Lạp cũng đã phải chống lại sự xâm
lược của đế quốc Ba Tư và họ đã chiến thắng. Nhưng cuối thế kỉ V TCN thế giới
Hy Lạp đã nổ ra một cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến này đã làm tất cả các thành
bang suy yếu. Nhân cơ hội đó, một thành bang ở phía bắc bán đảo Bancăng là
Makêđônia (Macedonia) đã bắt tất cả các thành bang khác phải thuần phục mình
và Makêđônia cầm đầu thế giới Hy Lạp tấn công Ba Tư. 3 2. Sparta
Sparte là một thành bang Hy Lạp được xây dựng sớm nhất trong lịch sử Hy
Lạp (ngay từ thế kỷ IX TCN). Nằm trên đồng bằng Lacôni thuộc phía Nam
Péloponèse, Sparte có lợi thế để phát triển kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi.
Đồng bằng Laconi được tạo nên bởi sông Eurotas với những cánh đồng màu mỡ,
phì nhiêu, xung quanh lại có nhiều dãy núi cao che chắn, bảo vệ. Lacôni lại là
nơi có trữ lượng sắt vào loại nhất của lục địa Hy Lạp.
Về mặt xã hội, ở Sparte có ba tập đoàn người cùng sinh sống, nhưng quyền
lợi và nghĩa vụ hoàn toàn khác nhau. Người Sparte – tức người Dorian chiến
thắng – là giai cấp cầm quyền. Họ không tham gia các hoạt động sản xuất
(không làm ruộng, không làm thợ thủ công và cũng không tham gia buôn bán).
Họ sống bằng sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người Pêriet và nô lệ Hélios
(Hilôt). Người Sparte chỉ có chức năng cai trị và tham gia vào lực lượng quân
đội (để xâm lược hoặc bảo vệ đất nước). Chính vì vậy, ở Sparte, chế độ tư hữu
không tồn tại. Toàn bộ ruộng đất, đồng cỏ và cả tập thể nô lệ Hélios đều là sở
hữu chung của những cư dân Sparte – Dorian. Nhà nước Sparte đem toàn bộ
ruộng đất chia thành khoảng 10.000 mảnh đất bằng nhau, mỗi khoảnh độ 20
hecta, cũng với số lượng người Hélios và Pêriet, cho mỗi gia đình người Đorien.
Những gia đình được phép hưởng số thu hoạch, nhưng không được quyền chiến
hữu số ruộng đó và số nô lệ canh tác, không được phép bán, chuyển nhượng vì
ruộng đất và nô lệ là sở hữu chung của Nhà nước. Ở Sparte không tồn tại chế độ
tư hữu ruộng đất và nô lệ.
Người Pêriet lúc đầu là những người Akêen chiến bại, bị nô dịch (về sau thêm
một số cư dân ở nơi khác tới Sparte sinh sống), tất cả có khoảng 30.000 người. 3. Athen
Athènes là quốc gia thành thị xuất hiện trên vùng bán đảo Attique (thuộc
Trung Hy Lạp). Đó là một vùng đồng bằng hẹp, đất đai không phì nhiêu, nhiều
đồi núi, khí hậu lại khô khan, lượng mưa hằng năm không đáng kể. Attique có
nhiều đá quý, mỏ sắt, mỏ bạc, đất sét chất lượng cao và vùng bờ biển dài với 4
nhiều vịnh và hải cảng thuận tiện cho hoạt động thương mại. Nhìn chung, thiên
nhiên xử Attique không tạo nên những điều kiện thuận lợi cần thiết cho sự phát
triển và canh tác cây lương thực, nhưng lại rất thích hợp cho sự phát triển của
một nền kinh tế công thương nghiệp và mậu dịch hàng hải.
Cư dân sống trên bán đảo Attique là nhánh người Hy Lạp – người Dorian.
Athen được đặt theo tên của nữ thần Hy Lạp Athena. Bà là nữ thần của trí tuệ,
chiến tranh, và nền văn minh và là người bảo trợ của thành phố Athens. Dân chủ
Athen phát triển ở thành phố Athena, nước Hy Lạp cổ đại, bao gồm trung tâm
bang/thành phố Athena và vùng phụ cận vùng lãnh thổ Attica, khoảng năm 500
TCN. Dân chủ Athen là một trong những nền dân chủ đầu tiên được biết đến và
có lẽ là nền dân chủ quan trọng nhất trong thời cổ đại, vốn được coi là biểu
tượng của nền dân chủ cổ điển.
Nền dân chủ cổ điển của Athen được tổ chức với các buổi họp cộng đồng.
Người dân Athen gặp nhau định kì để bàn thảo về tình hình đất nước và đưa ra
các chính sách và các quyết định. Tất cả các vị trí công toàn thời gian được
người Athen lựa chọn thông qua rút thắm hoặc bầu cử. Việc tổ chức được thực
hiện như vậy nhằm để mọi người dân có được (ít nhất một lần trong đời) cơ hội
tham gia vào các chức vụ của nhà nước. Người Athen không bao giờ do dự khi
tham gia vào các công việc của nhà nước hay khi gánh vác trách nhiệm. Các vị
trí công quay vòng giữa tất cả các công dân và không yêu cầu chuyên môn cho
việc điều hành chính quyền. Tuy nhiên, đối với các tướng lĩnh quân sự thì đòi
hỏi phải trải qua sự đào tạo chuyên biệt. Bằng cách này, nền dân chủ Athen - đại
diện cho nền dân chủ cổ điển - đã vận hành ở Hy Lạp cổ đại.
IV. Thời kỳ Macedonia 1. Vị trí
Macedonia hoặc Macedon, là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía
bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, có diện tích là
5.200.000 km2 ( vào năm 323 TCN) và sau này trở thành quốc gia bá chủ ở Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp. 5 2. Lịch sử hình thành
Alexander Đại đế I (495-450 TCN) được coi là người đã thiết lập nên Nhà
nước của người Macedonia, Archélaus (419-399 TCN) là người kế tục hoàn
thiện và củng cố nhà nước Macedonia. Archélaus đã xây dựng thành phố Pella
thành Thủ đô tráng lệ của xứ Macedonia, thiết lập hệ thống tiền tệ, xây dựng
nhiều đường giao thông, khuyến khích sự phát triển của kinh tế công thương
nghiệp, xây dựng lực lượng quân sự…
Đến thế kỷ IV TCN, nhờ tiếp thu và học hỏi những thành tựu văn hóa, khoa
học – kỹ thuật của các quốc gia lân bang (nhất là Hy Lạp), Macedonia đã nhanh
chóng phát triển thế lực và trở thành một quốc gia hùng cường ở khu vực
Balkans, khi các quốc gia – thành bang của người Hy Lạp đã dần suy yếu.
Philippe II (359 – 336 TCN), người đặt nền móng cho sự cường thịnh của
Macedonia, đã thực hành một loạt cải cách kinh tế, xã hội và quân sự, tạo nên
một quốc gia Macedonia thống nhất, giàu mạnh về kinh tế, hùng cường về quân
sự, và có những chính sách đối ngoại khôn khéo. Philippe II đã tăng cường và
tích cực xây dựng lực lượng, dự trữ lương thảo để thực hành chính sách xâm
lược, bành trướng. Đánh chiếm Chalcidique và Thrace, Philippe II đã mở đầu
công cuộc chinh phục và thống trị các quốc gia Hy Lạp của người Macedonia.
Năm 338 TCN, Philippe II thống lĩnh một đạo quân lớn đánh thẳng xuống miền
lục địa Hy Lạp. Một lần nữa, các thành bang Hy Lạp lại liên kết với nhau để
chống trả (do Athènes và Thèbes lãnh đạo). Nhưng khác hẳn với thời gian chống
Ba Tư, các thành bang Hy Lạp, do nhiều lý do khác nhau, đã không liên kết và
chống trả thành công. Trận kịch chiến giữa Philippe II và Liên minh Hy Lạp đã
xảy ra ở Chéronée – Béotie. Liên quân các thành bang Hy Lạp đại bại: toàn bộ
chiến binh Thèbes tử trận, 1.000 binh sĩ Athènes bị giết, 2.000 binh sĩ khác bị bắt làm tù binh.
Năm 337 TCN, tại Corinth, Philippe II đã triệu tập hội nghị toàn thể các
thành bang Hy Lạp (Thành bang Sparta không tham dự) thiết lập Đồng minh
Corinth (còn gọi là Đồng minh Hy Lạp) do Macedonia chỉ huy. Về hình thức, 6
các thành bang Hy Lạp vẫn giữ được quyền độc lập, nhưng thực ra đã bị lệ
thuộc vào Macedonia (nhất là về quân sự, ngoại giao).
3. Thời kỳ của Alexander đại đế
Từ năm 334 TCN đến năm 30 TCN, Alexander Đại đế của người Macedonia
tiến hành một cuộc chinh phạt vĩ đại nhất lịch sử thế giới cổ đại. Với sức mạnh
quân sự mạnh mẽ của mình, quân Alexander Đại đế tràn vào chiếm Babylon,
Suse, Persépolis – những thủ phủ quan trọng nhất của Ba Tư. Đế quốc Ba Tư
thứ Nhất diệt vong sau 200 năm tồn tại. Không dừng lại, Alexander Đại đế tiếp
tục cho quân tràn vào chiếm Erbatane – kinh đô của Vương quốc Mêdi, Parrthie,
Bactriane và tiến sâu vào vùng Trung Á. Tại Trung Á, quân Alexander Đại đế
gặp phải sự chống đối quyết liệt của cư dân địa phương, 2.000 chiến binh
Macedonia bỏ mạng. Vì vậy sau khi đã đè bẹp sự phản kháng ở vùng này,
Alexander Đại đế đã thẳng tay tàn sát cư dân: 120.000 người đã bị giết hại.
Từ Afghanistan, Alexander Đại đế Macedonia thân chinh chỉ huy quân
Macedonia tràn vào Tây Bắc Ấn Độ (vùng Pendjab) và làm chủ vùng này.
Alexander Đại đế còn định tiếp tục vượt sông Indus (sông Ấn) vào sâu trong nội
địa, nhưng vì quá mệt mỏi trên các nẻo đường chinh chiến, lại bị người Ấn
thường xuyên đột kích, quấy phá, Alexander Đại đế buộc lòng phải cho quân
Macedonia rút về nước (năm 325 TCN) sau khi đã để lại một lực lượng đồn trú tại Pendjab.
10 năm chinh chiến đầy chiến tích, bằng vũ lực, Alexander Đại đế đã thiết
lập nên một quốc gia rộng lớn, bao gồm lãnh thổ của nhiều vùng, nhiều quốc gia
có trình độ kinh tế, tổ chức chính trị khác nhau, nhiều trung tâm của thế giới cổ
đại. Biên giới phía Bắc tới tận vùng Iran, Trung Á, phía Nam xuống vùng Bắc
châu Phi, phía Tây tới bán đảo Balkans và phía Đông tiếp giáp với miền Tây
Bắc Ấn Độ.Sức mạnh quân sự của Macedonia dựa vào sức mạnh kỉ luật và vững
chãi của những bộ binh theo đội hình Phalanx và khả năng cơ động, đột phá của
những đội kị binh Hetairoi thiện chiến. Bộ binh Phalanx của Macedonia phát
triển dựa trên đội hình Phalanx của các chiến binh Hoplite Hy Lạp nhưng được 7
trang bị ngọn giáo dài hơn và luôn chiến đấu theo đội hình phối hợp với kị binh xung kích.
Alexander Đại đế đã chọn Babylon làm kinh đô của đế quốc. Để thống trị cai
quản đế quốc rộng lớn này, Alexander Đại đế đã chia đế quốc thành những trấn
(satrapes), sử dụng quan lại địa phương bên cạnh các Tổng trấn người
Macedonia, duy trì trật tự, xã hội bằng bạo lực, quân đội. Alexander Đại đế nuôi
tham vọng xâm chiếm vùng Ả rập và đã tích cực chuẩn bị, thăm dò đường thủy
dọc sông Euphrate và những điểm có thể đổ bộ lên bán đảo này, nhưng giữa lúc
đó – ngày 13 tháng 6 năm 323 TCN, Alexander Đại đế chết đột ngột vì bệnh sốt
rét ác tính, lúc đó mới 33 tuổi. Cái chết đột ngột của Alexander Đại đế đã làm
cho tình hình đế quốc Macedonia khủng hoảng, đúng như dự đoán của chính
Alexander Đại đế khi đang còn nằm trên giường bệnh: “Các tướng quân của ta
sẽ làm cho đám tang của ta đẫm máu”.
Cuộc xung đột giữa các tướng lĩnh Macedonia đã diễn ra, các nhà sử học Hy
Lạp gọi cuộc xung đột này là “Xung đột của các Diadekhos”. Những người kế
tục các tướng quân đã tôn Aride (em trai Alexander Đại đế) làm Hoàng đế,
Perdicas là Tể tướng nắm quyền nhiếp chính, nhưng thực tế là chia nhau hùng
cứ các vùng. Ptolémé ở Ai Cập, Léonide ở Syria, Philos ở Sicile, Antigonos ở
Phrygie, Nearkhos ở Lycie… Cuối cùng, đến thế kỷ III TCN, đế quốc
Macedonia bị phân liệt thành nhiều quốc gia nhỏ.
Thời kỳ lịch sử từ khi Alexander Đại đế Macedonia Đông chinh (năm 334
TCN) cho tới khi bị La Mã xâm chiếm và biến thành một tỉnh của La Mã (năm
30 TCN) được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa (Hellénisme) do người Macedonia chịu
ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp đã mang văn hóa Hy Lạp đi khắp các vùng lãnh thổ chiếm đóng.
Trong thời kỳ Hy Lạp hóa, nền văn hóa Hy Lạp được phổ biến và truyền bá
mạnh mẽ sang các nước xung quanh (kể cả những vùng đất thuộc châu Âu), tạo
nên bộ mặt phồn vinh của phương Đông, tạo nên những thành thị lớn với tư
cách là những trung tâm thương mại lớn như Antioch (Syria), Alexandria (Ai 8 Cập)…
Thời kỳ Hy Lạp hóa, những điều kiện khách quan đã tăng thêm sức sống cho
các thành bang Hy Lạp, tạo điều kiện cho Hy Lạp phục hưng lại nền kinh tế
trong thời kỳ khủng hoảng, suy thoái.
Thời kỳ Hy Lạp hóa là thời kỳ có sự giao lưu của nền văn hóa Đông – Tây.
Văn học, nghệ thuật, khoa học – kỹ thuật… Hy Lạp đã được truyền bá và ảnh
hưởng sâu sắc tới văn hóa, lối sinh hoạt của các quốc gia phương Đông. Ngược
lại, người Hy Lạp cũng tiếp thu được nhiều thành tựu văn hóa, khoa học – kỹ
thuật của phương Đông (kể cả lối sống, cách trang phục theo kiểu Ba Tư, Ấn
Độ). Thời kỳ Hy Lạp hóa cũng là thời kỳ có sự pha trộn chủng tộc lớn trong lịch
sử nhân loại. Người Macedonia có công rất lớn trong việc đưa văn hóa Đông –
Tây trở nên gần với nhau hơn.
3. Phân cấp chính quyền dưới thời Macedonia
Dưới thời kỳ này thì đứng đầu chính quyền của Macedonia là nhà vua
(basileos). Ít nhất là từ triều đại của Philippos II trở đi, nhà vua đã được trợ giúp
bởi những người hầu hoàng gia (basilikoi paides), cận vệ (somatophylakes), các
chiến hữu (hetairoi), những người bạn (philoi), một hội đồng mà bao gồm các
thành viên của quân đội, và (trong thời kỳ Hy Lạp hóa) các quan tòa. Thiếu các
bằng chứng cho thấy mức độ chia sẻ quyền lực của mỗi một nhóm trong số này
với nhà vua hoặc là sự tồn tại của chúng đã có nền tảng trong một khuôn khổ
hiến pháp chính thức.Trước triều đại của Philippos II, thể chế duy nhất được
chứng minh bằng văn bản chứng từ đó là chế độ quân chủ.
4. Ngôn ngữ và thổ ngữ của Macedonia
Thời kỳ này thì người dân sử dụng đa ngôn ngữ nhưng .Sau khi được chấp
thuận là ngôn ngữ của triều đình dưới triều đại của Philippos II của Macedonia,
các tác giả Macedonia cổ đại đã viết những tác phẩm của mình bằng tiếng Hy
Lạp Koine, lingua franca vào giai đoạn cuối của thời kỳ Cổ Điển và ở Hy Lạp
thời kỳ Hy Lạp hóa. Bằng chứng hiếm hoi bằng văn bản chỉ ra rằng tiếng
Macedonia bản địa là một thổ ngữ của tiếng Hy Lạp tương tự như tiếng Hy Lạp 9
Thessaly và tiếng Hy Lạp tây bắc hoặc là một ngôn ngữ có họ hàng gần gũi với tiếng Hy Lạp
5. Tín ngưỡng tôn giáo Macedonia
Thời kỳ Macedonia tín ngưỡng của họ là đa thần giáo Hy Lạp và Tôn giáo
Hy Lạp hóa .Vào thế kỷ thứ 5 TCN, người Macedonia và những người Hy Lạp ở
phía nam ít nhiều đã thờ cúng cùng các vị thần trong hệ thống các vị thần Hy
Lạp (zues, nike…). Ở Macedonia, các chức vụ chính trị và tôn giáo thường đan
xen. Chẳng hạn, người đứng đầu thành phố Amphipolis cũng giữ vai trò là tư tế
của thần Asklepios, vị thần y học của người Hy Lạp; một cơ cấu tương tự cũng
đã tồn tại ở thành phố Kassandreia, tại đây vị tư tế của giáo phái tôn vinh người
sáng lập nên thành phố là Kassandros cũng là người đứng đầu trên danh nghĩa của thành phố
V. Thành tựu văn minh
Tuy xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập nhưng nhờ tiếp thu được
nhiều giá trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái
quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã có nhiều đóng góp giá trị. 1. Chữ viết, văn học
Về chữ viết, người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người
Pheenixi (Phoenicia) rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm
24 chữ cái. Từ chữ Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ
Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đã sử dụng.
Văn học Hy Lạp cổ đại thể chia ra làm ba bộ phận, chủ yếu có liên quan với
nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ. Người Hy Lạp có một hế thống thần thoại rất
phong phú để mô tả thế giới tự nhiên, nói lên kinh nghiêm cuộc sống và cả tâm
tư sâu kín của con người. Hầu như trong cuộc sống thời đó có việc gì thì đều có
thần bảo trợ, lo về công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp mãi tới nay còn 10
được nhiều môn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác, đây là một dân
tộc có một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc trên thế giới phải ghen tị. Về
sau, khi có chữ viết, kho tang thần thoại này được Hediot ( nhà thơ Hy Lạp sống
vào thế kĩ VIII TCN ) hệ thống lại trong tác phẩm Gia phả các thần.
Trong Thần phả (Theogonía) của ông. Ông mở đầu với Chaos, một thứ hư
vô. Từ thứ trống rỗng này sinh ra Gaia (Trái Đất) vài tạo vật thần thánh sơ khai
khác: Eros (Tình Yêu), Abyss (tức Tartarus), và Erebus. Không có sự trợ giúp
của phái nam nào, Gaia cho ra đời Uranus (Bầu Trời) mà về sau thụ thai với bà.
Từ sự kết hợp này mà sinh ra trước hết các Titan - 6 nam: Coeus, Crius, Cronus,
Hyperion, Iapetus, và Oceanus; và 6 nữ: Mnemosyne, Phoebe, Rhea, Theia,
Themis, và Tethys. Sau khi Cronus được sinh ra, Gaia và Uranus quyết định
không sinh thêm Titan nào nữa. Thế hệ con tiếp theo của Gaia-Uranus là các
quỷ khổng lồ một mắt Cyclops và Hecatonchires hay những Kẻ Trăm Tay, tất cả
chúng bị ném vào Địa ngục Tartarus bởi Uranus. Điều này làm Gaia giận dữ.
Cronus bị Gaia thuyết phục giết cha mình. Khi Cronus bắt đầu chém Uranus,
ông ta nguyền rủa Cronos rằng một ngày nào đó, con trai của chính hắn sẽ soán
ngôi hắn. Lúc đầu ông không tin nhưng sau khi đã giết cha mình, Cronus bắt đầu
thấy sợ lời nguyền của Uranus. Sau đó, Cronus trở thành người cai trị các Titan,
rồi lấy Rhea, tức chị gái, làm vợ và các Titan khác trở thành triều đình của ông
ta. Từ những giọt máu và tinh dịch của Uranus rơi xuống đất sinh ra các nữ thần
phục thù Erinyes, những gã khổng lồ Gigantes với nửa thân dưới là rắn (tiếng
Anh gọi là Giants, bọn khổng lồ), khiên giáp sáng ngời và các vị tiên nữ của cây
Tần bì Meliae. Từ tinh hoàn của Uranus rơi xuống biển, nữ thần ái tình và sắc
đẹp Aphrodite được sinh ra từ những bọt biển (Aphrodite mang nghĩa là "sinh ra từ bọt biển").
Khi Rhea sinh con, ông lập tức nuốt đứa con đó vào bụng. Rhea ghét điều
này và lừa ông bằng cách giấu Zeus và quấn một hòn đá trong chiếc khăn tã, thứ
mà Cronus nuốt. Khi Zeus đủ lớn, ông cho Cronus uống một thứ thuốc mê khiến
ông ta nôn mửa, tuôn những đứa trẻ khác của Rhea ra ngoài cùng với hòn đá, 11
vốn nằm trong dạ dày Cronus bấy lâu. Zeus sau đó đương đầu với Cronus trong
một cuộc chiến kéo dài mười năm tranh ngôi chúa tể các vị thần, thường được
gọi là cuộc chiến với các Titan (Τιτανομαχία, Titanomachía) do phần lớn các
Titan tham chiến ở phe Cronus. Cuối cùng, với sự giúp đỡ của các Cyclops (mà
Zeus giải phóng từ Tartarus), Zeus và các anh chị em đã chiến thắng, trong khi
Cronus và các Titan bị quẳng xuống giam ở Tartarus. Zeus lấy chị gái của mình
là Hera và 6 anh chị em chia nhau cai quản thế giới. Ai cũng cho mình là có
công lớn nhất nên đều muốn được cai trị bầu trời (đỉnh Olympia), Zeus bèn chọn
cách rút thăm và có sau đó: Poseidon cai quản biển cả, Zeus là bầu trời, không
may cho Hades, ông phải cai quản địa ngục.
Các vị thần đỉnh Olympus giành quyền thống trị sau khi Zeus lãnh đạo trong
trận chiến với các Titan và giành chiến thắng. Mười hai vị thần trên đỉnh
Olympus bao gồm các vị thần:
Zeus (thần bầu trời và sấm sét) là vua của các vị thần và là người cai quản đỉnh Olympus.
Hera là nữ thần hôn nhân và gia đình, bà là nữ hoàng của các vị thần.
Poseidon là anh của Zeus và là em của Hades. Ông là chúa tể của biển
cả, động đất và ngựa.
Demeter là nữ thần của nông nghiệp, thiên nhiên, mùa màng. Biểu
tượng của sự sung túc.
Athena được biết đến là thần chiến tranh chính nghĩa. Ngoài ra,
Athena cũng là nữ thần của nghề thủ công mỹ nghệ, trí tuệ.
Hestia thuộc dòng dõi Titan và là nữ thần của bếp lửa. Tuy nhiên, sau
này, Dionysus đã thế chỗ của Hestia trong hệ thống 12 vị thần trên đỉnh Olympus.
Apollo – thần ánh sáng, tri thức và nghệ thuật.
Artemis (nữ thần săn bắn) – con gái của Zeus và Leto, em song sinh của Apollo. 12
Ares trong thần thoại Hy Lạp là vị thần của chiến tranh. Thần Ares
được người La Mã cổ đại xem như là thần Mars.
Aphrodite là nữ thần của tình yêu và sắc đẹp.
Hephaestus – thần thợ rèn và là thợ thủ công của các vị thần.
Hemes là người đưa tin của các thần. Ông cũng là thần thương nghiệp và trộm cắp 2. Sử học
Từ thế kỉ VIII-VI TCN, lịch sử Hy Lạp chỉ được truyền lại bằng truyền
thuyết và sử thi. Đến thế kỉ V TCN lịch sử ở Hy Lạp mở trở thành một bộ môn
riêng biệt . Các nhà viết sử tiêu biểu của Hy Lạp thời đó là Hêrôđôt (Herodotus)
với cuốn lịch sử chiến tranh Hy-Ba, Tuyxiđit (Thuycudides) cuốn lịch sử chiến tranh Plôpônedơ.
3. Kiến trúc, điêu khắc
Những công trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại không hùng vĩ như của Ai Cập
cổ đại nhưng nó lại nổi bật ở sư thanh thoát, hài hòa. Các công trình kiến trúc ở
Hy Lạp cổ đại thường xây dụng trên những nền móng hình chữ nhật với những
dãy cột đá tròn ở bốn mặt. Qua nhiều thế kỉ, người Hy Lạp cổ đại đã hình thành
ra ba kiểu cột mà ngày nay người ta vẫn thể hiện trong trường phái cổ điển. Kiểu
Doric ( thế kỉ VII TCN ), trên cùng là nhữn
g phiến đá vuông giản dị không có
trang trí, kiểu Ionic ( thế kỉ V TCN ) cột đá tròn thon hơn, có những cong ở bốn
góc phiến đá hình vuông như hai lọc cọc uống, kiểu Corinth ( thế kỉ IV TCN )
có những cành lá dưới những đường cong, thường cao hơn và bệ đỡ cầu kì hơn.
Các công trình kiến trúc tiêu biểu thời bây giờ là đền Parthenon ở Athen đền
thờ thần Zeus ở núi Olympia, đền thờ nữa thần Athena, các nhà điêu khắc ở Hy
Lạp cổ đại như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng lực sĩ ném dĩa, tượng nữ
thần Athena, tượng thần Hermet… Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như
Phidias, Miron, Polykleitos,… 13 4. Khoa học tự nhiên
Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà
đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit ( Euclide), người đưa ra các
tiên đề hình học đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp. Pitago ( Pythagoras ), ông
đã chứng minh định lí mang tên ông cà ngay từ thế kỉ C TCN ông đưa ra giả
thuyết trái đất hình cầu. Talét ( Thales ), người đã đưa ra tỉ lệ t ứ h c ( Định lí Talét
). Đặc biệt là Acsimet ( Archimede ), người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra
giường cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật
đó trong long chất lỏng ( lực đẩy Acsimet ). 5. Triết học
Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường
phái triết học duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà
triết học nổi tiếng như: Talét (Thales), Hêraclit ( Heracleitus), Đêmôcrit (
Democitus)… Đại diện cho trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platôn, Arixtôt.
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ
VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được
xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát của
triết học châu Âu sau này. Alfred Whitehead nhận xét rằng "triết học phương tây
thực ra chỉ là một loạt các chú thích cho Plato". Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
tập trung vào hai chủ đề chính. Thứ nhất là mối liên hệ giữa nguyên nhân và hệ
quả, hay nói cách khác, tìm câu trả lời cho câu hỏi phải chăng các sự vật hiện
tượng vận động theo một chuỗi nguyên nhân-hệ quả tất yếu khách quan hay chỉ
là sự trùng hợp, tình cờ ngẫu nhiên. Thứ hai là bản chất và khởi thủy của thế
giới tồn tại. Những đại diện tiêu biểu nhất của nền triết học này là Socrates, Plato, Aristotle và Epicurus
Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh cao của văn minh Hy Lạp, với các
đặc trưng cơ bản sau đây: 14
Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần.
Toàn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó.
Thế giới quan triết học Hy Lap - La Mã thời cổ đại là sự phong phú và đa dạng
của các quan niệm Triết học.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới
việc xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".
Ngoài ra, triết học Hy Lạp cũng rất coi trọng vấn đề con người.
6. Luật pháp và tổ chức nhà nước
Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật cà
cách tổ chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại. Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành
trên cở sở sự tan rã của xã hội thị tộc, Nhà nước dân chủ nô ở Hy Lạp ngày càng
được hoàn thiện qua những cải cách của Xôlông ( Solon ), Clisten ( Clisthenes) và Pêliclêt (Pericles).
Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Đracông (Dracon), bộ luật
này có những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau
này, nhờ những cải cách của Xôlông, Clisten, luật pháp Hy Lạp ngày càng mang
tính dân chủ hơn ( nhưng cũng chỉ công dân tự do mới hưởng, nô lệ thì không).
7. Thành tựu y học Hy Lạp cổ
Sinh năm 460 TCN tại đảo Cos vùng biển Aegeum, Hippocrates là con trai
một người làm thuốc, được cha truyền cho những kiến thức về y tế, sau đó tiếp
tục học ở Athena và nhiều thành phố khác trong vùng. Ông hành nghề trên đảo
Cos và nổi tiếng từ đó. 15
Hippocrates đã mở ra một kỷ nguyên mới cho y học, xem bệnh tật như một hiện
tượng thiên nhiên, có thể chữa trị dựa vào quan sát lâm sàng tỉ mỉ cũng như căn
cứ vào các triệu chứng của bênh. Cụ thể là ông nhìn nước da, quan sát mắt bệnh
nhân, chú ý họ có bị sốt hoặc lạnh hay không. 8. Các thành tựu khác
Hy Lạp cổ đại còn để lại cho thế giới những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, đặc trưng:
Kịch: Kịch Hy Lạp có hai loại: bi kịch và hài kịch, có những nhà soạn
kịch nổi tiếng như: Etsin, Xôphốc, Ơripit.
Kiến trúc: đền Páctênông, đền Dớt ở Ơlempi, các đền thờ ở mốt số thành
phố Hy Lạp trên đảo Xixin; các công trình kiến trúc ở La Mã nổi tiếng
nhất là đền Păngtêông, rạp hát, các khải hoàn môn.
Điêu khắc: lực sĩ ném đĩa, nữ thần Atêna, người chỉ huy chiến đấu, người
cầm giáo, nữ chiến sĩ Amadông bị thương”, thần Hêra… 16