lOMoARcPSD| 61164048
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài tiểu luận................................................................................4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................4
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu......................................................................4
5. Kết cấu của tiểu luận.........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................6
CHƯƠNG I. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT
SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO...................................................6
1.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo (Khổng tử và Nho giáo)....6
1.1.1. Khổng Tử.................................................................................................6
1.1.2. Quá trình phát triển của Nho giáo............................................................7
1.2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo......................................................8
1.2.1. Quan điểm về bản chất con người...........................................................8
1.2.2. Quan điểm về xã hội học.........................................................................9
1.2.3. Quan điểm về giáo dục..........................................................................10
1.2.4. Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc).................................................10
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM...........................................................11
2.1. Sự du nhập của Nho Giáo vào Việt Nam..................................................11
2.2. Ảnh hưởng của Nho Giáo ở Việt Nam......................................................13
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam.....................................13
2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam.....................................14
KẾT LUẬN............................................................................................................16
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................17
lOMoARcPSD| 61164048
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài tiểu luận
Nho giáo sinh ra từ một hội chiếm hữu lệ trên đường suy tàn, vậy, Khổng
tử đã luyến tiếc cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức. “Đạo” theo Nho gia quy
luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn vật. Đối với con người, đạo con đường
đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người,
theo quan điểm của Nho gia phải phù hợp với tính của con người lập nên. Chính
vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người
tác động vào các khu vực khác của đời sống xã hội cũng như đối với xã hội Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ n Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác
Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận
kiến trúc thượng tầng của hội vẫn sức sống dai dẳng. Việc xoá bỏ hoàn toàn
ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp
để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ qđộ cũng như sau này. vậy, việc nghiên
cứu lịch sử, giáosự tác động của Nho giáo đến thế giới quan, nhân sinh quan của
con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng
như tiến bộ, tưởng của Nho giáo đã giúp chúng ta hiểu tâm của người dân hơn
qua đó tìm được một phương cách để hướng cho họ một nhân ch chính đúng
đắn.Tóm lại, nghiên cứu Nho giáo ảnh hưởng của đến hội, con người Việt Nam
một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định ớng phát triển của
nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luậnMục tiêu
Tiểu luận nhằm làm rõ các quan điểm cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam, từ đó góp thêm tiếng nói vào việc tìm
giải pháp khai thác những giá trị tinh hoa loại bỏ những hạn chế của trong đời
sống xã hội nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ
Làm quan điểm bản của Nho giáo. Chỉ những giá trị tích cực của Nho
giáo cần được kế thừa, phê phán những hạn chế, những tàn dư của Nho giáo còn rơi rớt
lại trong đời sống xã hội Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ phương pháp logic với phương pháp lịch sử,
vận dụng các phương pháp liên ngành: thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích,
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung m một số tưởng bản của Nho giáo, những ảnh hưởng
của nó trong đời sống nước ta hiện nay.
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bảo gồm 2 chương.
lOMoARcPSD| 61164048
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT SỐ
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
1.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo (Khổng tử và Nho giáo)
1.1.1. Khổng Tử
Khổng Tử một triết gia người Trung Quốc tầm ảnh hưởng lớn. Những bài
giảng của ông đã được các môn đồ ghi chép lại trong cuốn Luận Ngữ. Khổng Tử trở
thành triết học chính thức của Trung Hoa vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Để các
quan chức triều đình có thể ra m quan thì phải vượt qua một bài thi về những tư tưởng
do Khổng Tử đề ra. Những triết lý của ông về chính quyền, trật tự xã hội, và mối quan
hệ giữa con người đã trthành nền tảng của cuộc sống văn hóa Trung Hoa cho đến
tận thế kỷ 20, vẫn giữ tầm quan trọng Đông Á, khu vực chịu nh hưởng mạnh từ
văn hóa Trung Quốc.
Khổng Tử sống ở thời nhà Chu, một thời kỳ đầy xung đột chính trị xã hội, còn
được gọi là thời Chiến quốc. Đến năm 50 tuổi, ông đã giữ nhiều chức quan nhỏ ở nước
Lỗ, nhưng do bất đồng quan điểm với các quan chức khác và bị chèn ép, ông đã từ chức
rời khỏi nước Lỗ. Sau đó, ông đi khắp các ớc chư hầu để truyền tưởng của
mình và tìm kiếm cơ hội để thực hiện lý tưởng chính trị, nhưng không thành công. Ông
đã quyết định chuyển tới nước Tề hùng mạnh, với hy vọng có thể trở thành một vị quan
triều đình. Tuy nhiên, không được ban một chức vụ nào, Khổng Tử tiếp tục du hành.
Nhiều năm sau, ông dành phần còn lại của cuộc đời mình nước Lỗ để dạy về nhân
cách con người, trật tự hội, vai trò của triều đình. Những bài giảng này được các
môn đồ của ông ghi chép lại trong cuốn Luận Ngữ (còn gọi là The Analects trong tiếng
Anh).
Mặc dù những thế hệ sau tôn kính Khổng Tử như một nhà hiền triết có xuất thân
gần như thần thánh, nhưng những cuộc đối thoại trong Luận Ngữ lại cho thấy ông
một người thầy rất thông thái và thanh lịch, có mối quan tâm mãnh liệt đến hành vi ứng
xử của con người trật tự trong hội. Các chủ đề phổ biến trong bài giảng của ông
bao gồm lòng trắc ẩn đối với con người (nhân), đạo hiếu hay sự kính trọng với gia đình
(hiếu), thực hành lễ nghi (lễ), và đức hạnh (đức).
Khổng Tử nhấn mạnh rằng mỗi người trong hội đều một vai trò. Một số
người ở vị trí cao và có vai trò dẫn dắt, trong khi những người khác ở vị trí thấp hơn và
vai trò tuân theo. Ông tin rằng nếu mọi người, đặc biệt lãnh đạo những người
cao tuổi, hành xử tốt thì hội sẽ vận hành một cách đúng đắn. Khổng Tử không nhận
mình người sáng tạo ra những kiến thức cổ xưa mà chỉ người truyền lại chúng.
Trước khi mất, ông đã biên soạn lại một số tác phẩm cổ, bao gồm Ngũ kinh Kinh
Xuân Thu.
Mặc Khổng Tử không đạt được chức vụ ông mong muốn nhưng tầm ảnh
hưởng của ông đã tăng một cách đáng kể sau khi ông qua đời tuổi 72. Hai trăm năm
sau, những bài giảng của ông đã đặt nền móng quan trọng cho những người muốn ra
làm quan chức triều đình. Trong thời nhà Hán, để thể trở thành quan thì mọi người
cần phải vượt qua một kỳ thi về ởng của Khổng Tử. Các nhà triết gia sau này như
lOMoARcPSD| 61164048
Mạnh Tử Tuân Tử đã phát triển những trường phái triết học mới dựa trên các tác
phẩm của Khổng Tử.
1.1.2. Quá trình phát triển của Nho giáo
Nho giáo một học thuyết hệ thống phương pháp ràng, dạy về Nhân
đạo, tức là dạy về đạo làm người trong gia đình hội. Hệ thống của Nho giáo tuân
theo chủ nghĩa "Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể", nghĩa Trời, Đất muôn vật đều
một thể thống nhất. Phương pháp của Nho giáo phương pháp chứng luận, lấy Thiên
lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo ba điều cốt yếu: Luôn
luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa Trời và Người mối tương quan với nhau,
lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng, lấy trực giác làm công cụ để soi rọi tìm
hiểu sự vật. Nho giáo, hay còn gọi là Khổng giáo, là một hệ tư tưởng triết học, đạo đức,
và tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc và nhiều nước Đông Á. Sự
phát triển của Nho giáo kéo i hơn 2000 năm, từ thời Tây Chu cho đến hiện đại, với
nhiều biến đổi và đóng góp của các nhà tư tưởng lớn.
Nho giáo bắt nguồn từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng p của Chu Công
Đản, còn gọi Chu Công. Đến thời Xuân Thu, hội loạn lạc, Khổng Tử (tên thật
Khâu, hay Trọng Ni), người nước Lỗ (551-479 TCN), đã phát triển và hệ thống hóa các
tư tưởng của Chu Công, tích cực truyền bá những tư tưởng này. Vì vậy, Khổng Tử được
coi là người sáng lập Nho giáo, mở đường cho lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Ông
là nhà triết học, nhà chính trị nhà giáo dục nổi tiếng, đã hệ thống hóa những tri thức
và quan điểm thành học thuyết đạo đức chính trị riêng gọi là Nho giáo.
Học thuyết của Khổng Tử được hai nhà tưởng Mạnh Tử Tuân Tử hoàn
thiện phát triển. Mạnh Tử theo ớng duy tâm, còn Tuân Tử theo hướng duy vật.
Trong lịch sử sau này, dòng Khổng-Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ thời Hán, Nho
giáo được nhiều nhà tư tưởng phát triển và sử dụng theo môi trường xã hội của nó.
Từ đời Hán đến đời Thanh, Nho giáo chủ yếu được truyền bá qua các kinh điển.
Đường Thái Tông, sau khi thống nhất quốc gia, đã cho hiệu đính lại năm kinh Nho gia,
bao gồm: Dịch, Thị Thư, Tả truyện, Lễ ký, và thành lập Ngũ kinh chính nghĩa, trở thành
sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Đường Thái Tông đặc biệt coi trọng đạo
Nho, coi như "chim thêm cánh, như gặp nước, không thể thiếu được". Từ đó,
Khổng Tử luôn mối quan hệ chặt chẽ với các triều đại chính phủ, như Đường Thái
Tông đã hình dung.
Khi Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ dưới nhà Tống, hoàng đế khai
quốc Triệu Khuông Dẫn đã chtrì nghi lễ long trọng tế Khổng Tử để tôn vinh, đồng thời
chủ trì các khoa thi tiến sĩ với nội dung hoàn toàn theo Nho học. Lý học, bắt đầu từ Hàn
đời Đường phát triển qua nỗ lực của nhiều nhà tưởng như Tôn Phục, Thạch
Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trình Hạo, Trình Di, và đặc biệt là Chu Hi đời
Nam Tống, đã hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học.
học của Trình-Chu nhấn mạnh các giá trị như Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, coi
đây như "thiên lý" (lý trời). Chu Hi đã chú giải các kinh điển Nho gia như Luận Ngữ,
Mạnh Tử, các tác phẩm này trở thành sách giáo khoa bắt buộc trong khoa cử phong
kiến và tiêu chuẩn pháp định trong thi cử của chính phủ.
lOMoARcPSD| 61164048
Ngoài Lý học của Trình-Chu, còn có phái Công học của Trần Lượng, Diệp Thích
và phái Tâm học của Vương Dương Minh. Các phái này đều tôn sùng Khổng Tử và hấp
thụ một phần tư tưởng của ông, được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong
xã hội và văn hóa Trung Quốc.
Nho giáo được các sĩ đại phu tôn sùng và các vương triều đua nhau đề xướng, do
đó đã thẩm thấu vào mọi lĩnh vực giai tầng hội. Từ rất sớm, đã vượt qua biên
giới dân tộc Hán, trở thành tâm của cộng đồng dân tộc Trung Quốc sở văn
hóa của tín ngưỡng và tập tục.
Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết chính trị nhằm tổ chức hội. Quan trọng nhất
đào tạo người cai trị kiểu mẫu, gọi quân tử. Để trở thành quân tử, con người cần
"tu thân", sau đó phải "hành đạo". Đạo ở đây không chỉ đạo lý, còn là nguyên
vận hành của vũ trụ và đạo đức do Nho gia đề xướng.
Hệ tư tưởng Nho giáo, khi hình thành và phát triển, đã trở thành hình thái ý thức
của giai cấp thống trị trong hội phong kiến Trung Quốc. Đối với Nho giáo, ngũ
luân, ngũ thường tam cương những giá trị cốt lõi, với quan niệm rằng "Thiên bất
biến, đạo diệc bất biến" (Trời không thay đổi, đạo cũng không thay đổi) của Đổng Trọng
Thư, tức là tam cương ngũ thường là đạo lý vĩnh hằng.
1.2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo
1.2.1. Quan điểm về bản chất con người
Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính sẵn bất biến của con người. Đức
Khổng Tử Mạnh Tđều cho rằng bản tính con người sinh ra vốn thiện. Bản tính
"Thiện" đây tập hợp các giá trị chính trị đạo đức của con người. Xuất phát từ
quan niệm cho rằng bản tính của con người thiện, Khổng Tử đã xây dựng phạm trù
"Nhân" làm trung tâm trong triết học của ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình
thịnh trthì người cầm quyền phải có đức Nhân; một hội muốn hòa mục thì phải
nhiều người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi nguyên đạo đức bản, quy
định bản tính con người các mối quan hgiữa người với người từ trong gia tộc đến
ngoài xã hội.
Nho giáo tin vào khái niệm "thiên tính" và "nhân tính." Khổng Tử cho rằng tất cả
mọi người đều bản chất thiện ơng từ khi sinh ra. Câu nói nổi tiếng "nhân chi sơ,
tính bổn thiện" nghĩa là bản chất con người lúc đầu thiện thể hiện quan điểm này.
Tuy nhiên, để duy trì phát triển cái thiện này, cần có giáo dục sự tu dưỡng đạo đức.
Bản chất thiện của con người có thể bị che lấp bởi các yếu tố bên ngoài, do đó, giáo dục
và tu dưỡng là cách để khơi dậy và phát triển bản chất này.
Khái niệm "nhân" một trong những yếu tố cốt lõi của Nho giáo, thường được
dịch là "nhân từ" hoặc "lòng nhân ái." Khổng Tử coi nhân cơ sở của tất cả các phẩm
chất đạo đức và là mục tiêu cao nhất của con người. Nhân ái được hiểu là sự đồng cảm,
quan tâm và yêu thương người khác, cũng như sự tôn trọng lẫn nhau và lòng từ bi. Theo
Khổng Tử, một người có nhân là người sống vì lợi ích của người khác và biết cách điều
chỉnh hành vi của mình để không gây hại cho người khác.
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân gốc đạo đức của con người, thì theo ông,
để trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác phải "hiểu biết
mệnh trời" để sống "thuận mệnh". Ông viết: "Không biết mệnh trời thì không lấy gì làm
lOMoARcPSD| 61164048
quân tử", nhưng ông kêu gọi mọi người trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên trong
chính bản thân mỗi người, đừng trông chờ o trời đất quỷ thần: ạo người chưa biết
thì làm sao biết được đạo quỷ thần". Con người cần phải tập trung toàn phần vào sự nỗ
lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, đúng với lương tâm; còn việc thành bại như thế
nào, lúc đó mới tại ý trời.
Trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người vốn
bản tính thiện, thì Tuân Tử đưa ra lý luận rằng bản tính con người ác: "Tình người là
ác, thiện là do người làm ra". Nhưng trong quan điểm này cũng có những yếu tố hợp lý
như việc hành vi đạo đức của con người là do thói quen mà thành, phẩm chất con người
là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập, giáo dục lâu ngày mà nên.
Từ đó, ông cho rằng có thể giáo dục, cải hóa con người từ ác thành thiện. Nếu ra sức tu
dưỡng đạo đức thì bất cứ ai cũng có thể đạt được địa vị "người quân tử". Tuân Tử đề
cao khả năng vai trò của con người, khẳng định rằng trời không thể quyết định vận
mệnh của con người. Ông cho rằng con người không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một
cách bị động mà phải vận dụng tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự nhiên
mà sáng tạo ra của cải, sản vật để phục vụ cho đời sống.
Nho giáo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu ỡng bản thân. Khổng Tử
cho rằng con người cần phải học hỏi và tự rèn luyện để phát triển đạo đức và trí tuệ. Tu
dưỡng bản thân sở để thực hiện các nguyên tắc nhân lễ trong cuộc sống hàng
ngày. Qtrình tu dưỡng này không chỉ giúp nhân trở nên tốt đẹp hơn, còn góp
phần vào sự phát triển và hài hòa của xã hội.
Như vậy, Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy
nét đẹp của con người và tin tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo dục con
người. Tuy nhiên, quan niệm về Nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp ràng; ông
cho rằng chỉ người quân tử, tức kẻ cai trị, mới được đức Nhân, còn người tiểu
nhân, tức nhân dân lao động, không thể được đức Nhân. Đạo Nhân chỉ đạo của
người quân tử, tức giai cấp thống trị. Khổng Tử cho rằng tiểu nhân và quân tử hai loại
người đối lập nhau, không chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức
đây chính điểm hạn chế tạo bởi lập trường giai cấp trong quan điểm của Khổng Tử.
1.2.2. Quan điểm về xã hội học
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội bởi vì
khi giải quyết những vấn đề hội. Nho giáo hình thái ý thức của giai cấp thống trị
trong hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với thì “ngũ luân, ngũ thường, hay tam
cương ngũ thường” là những cái tuyệt đối, bao gồm:
Quan hệ vua - tôi
Quan hệ cha - con
Quan hệ chồng - vợ
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia
đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm tới
những quan hệ nền tảng của hội quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình đây mang
tính chất tông tộc, dòng họ. hội trị hay loạn trước hết thể hiện chỗ giữ vững
được ba quan hệ ấy hay không:
“Xã hội là tam cương - tam cương là quốc gia.
lOMoARcPSD| 61164048
Mỗi cương thay đổi xã hội loạn”.
vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện hội đại đồng thì phải chấn
chỉnh lại ba quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại ba quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo
dục đạo đức làm cứu cánh.
1.2.3. Quan điểm về giáo dục
Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. ởng cao nhất
của đức Không Từ cũng như các tác giả sau này của Nho giáo xây dựng một hội
"Đại đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên
nền tảng của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an
hoà được đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội.
Để thực hiện hội lý tưởng, hội đại đồng, hội an hoà trên, Nho giáo không
đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu bạo lực, tìm cứu cánh một
nền giáo dục. Đức Khổng Tử người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn
dân. Có giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận
hành động trong cuộc sống cho đúng.
Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục tự giáo dục, hướng vào việc giáo
dục những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn a, được u ơng
sáng trong cổ sử thôi nên cách dạy của Nho giáo chỉ dạy làm người nói chung,
không hề đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào phương diện
kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên
lệch.
Đồng thời, nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc
tự nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
1.2.4. Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc)
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên
tắc quản lý xã hội như sau:
Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung
ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung o một
người là Hoàng đế.
Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản hội. "Chính danh" nghĩa
là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương vị, địa vị của mình: vua
phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con phải ra đạo con, chồng phải
ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu như mọi người không chính danh thì xã hội ắt trở
nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà nguyên tắc chính danh bị vi phạm.
Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh thực. Thực do học, tài
và phận quy định.
Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây nguyên tắc có tính
chất đường lối căn bản của Nho giáo.
Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi
người tự giác tuân theo.
lOMoARcPSD| 61164048
Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong
trị quốc.
Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn
phương.
Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh
quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) Nghệ tinh.
Nhà vua muốn trị đất nước muốn đức nhân phải biết dùng người thực hiện
ba điều:
Kính sự: Chăm lo đến việc công.
Như tín: Giữ lòng tin với dân.
Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
Ngược lại, dân bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng
trung của mình đối với vua.
Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của Không Từ, Mạnh Tử đề ra tưởng " Nhân chính".
Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và Mạnh
Tử chủ trương một chế độ "bảo dân", trong đó người trị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái
vui của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no đủ, như thế dân
không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải giữ mình
khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có chừng mực. Đặc biệt Mạnh
Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền. Ông nói: "Dân vi quý, quân
vi khinh, xã tắc thứ vi", vì theo ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí
ông cho rằng dân có khi còn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng
hộ thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng
dân và ý trời thì sẽ có thể bị truất phế.
Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội.
Đức Khổng Tử đã nói: "Không lo thiếu mà lo không đều,
Không lo nghèo mà lo dân không yên".
Cơ sở công bằng trong tôn giáo:
Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
Theo phái Nho giáo: Công bằng trên sdanh của mình. Tức công
bằngtheo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo chức vụ, địa vị.
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Sự du nhập của Nho Giáo vào Việt Nam
Nho giáo học thuyết triết học, chính trị, đạo đức của Trung Quốc được hình
thành và phát triển qua ba giai đoạn lớn, từ Nho thời Tn Tần đến Nho Lưỡng Hán
Nho thời Tống - Minh - Thanh. Được truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, tuy ban
đầu vấp phải sự phản kháng của người Việt nhưng về sau Nho giáo đã dần được các
triều đại Việt Nam chủ động tiếp nhận, sử dụng làm công ctrị ớc trong suốt nhiều
thế kỷ cho đến khi chế độ phong kiến lụi tàn. Căn cứ vào lý thuyết tiếp biến văn hóa và
lOMoARcPSD| 61164048
chuyển đổi tưởng, luận án chia quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam thành
ba giai đoạn lớn.
Giai đoạn 1: Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam.
Nho giáo được truyền vào VN tương ứng với thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử
dân tộc, Nho giáo được truyền vào VN một cách áp đặt trong âm mưu đồng hóa dân tộc
của các thế lực phong kiến phương Bắc, do đó thời kỳ này người Việt tiếp nhận Nho
giáo hết sức chậm chạp, thụ động, tiếp thu chủ yếu những yếu tố kỹ thuật, văn hóa mang
tính thực dụng và gần gũi với truyền thống người Việt.
Giai đoạn 2: Nho giáo được tiếp nhận chủ động ở Việt Nam.
Từ thế kỷ X-XV, trước yêu cầu đặt ra về việc xây dựng phát triển nhà nước
Đại Việt, giai cấp phong kiến dân tộc đã chủ động tiếp thu Nho giáo thông qua giao lưu
kinh tế, văn hóa, ngoại giao với Trung Hoa. Những quan niệm của Nho giáo về chính trị
- hội, đạo đức, nhân sinh đã những tác động nhất định vào đội ngũ những người
học đạo Nho.
Trong bối cảnh đất ớc chưa ổn định, yêu cầu bảo vệ thống nhất nước nhà
được đặt lên trên hết, Nho giáo được tiếp nhận giai đoạn này mang đậm tinh thần dân
tộc, gắn với thực tiễn và truyền thống văn hóa người Việt. Nho giáo cùng với Phật giáo
và Đạo giáo tạo thành hiện tượng tam giáo đồng nguyên trong đó Phật giáo đóng vai trò
chủ đạo.
Hình thức du nhập: Nho giáo trong giai đoạn này được truyền vào Việt Nam
chủ yếu thông qua c hoạt động như: Các chuyến đi sứ; Xin sách, nhân bản sách; Những
luồng người nhập cư.
Giai đoạn 3: Nho giáo được tiếp nhận làm hệ tưởng chính thống của nhà nước
phong kiến Việt Nam.
Tương ứng với thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XV đến XIX, với yêu cầu về việc hoàn
thiện thể chế trung ương tập quyền, chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình trật tự hội,
các triều đại từ nhà đến nhà Nguyễn, đã dựa vào tưởng Nho giáo để tuyển lựa
chấn chỉnh bộ máy quan lại, dùng cương thường đạo lý, tập quán tông pháp để chuẩn
mực hóa hành vi của nhân dân (Giai cấp cầm quyền đã hết sức đề cao Nho giáo, xem đó
sở luận để xây dựng đất nước, làm bệ đỡ ởng bảo vệ lợi ích của vương
triều.)
Tuy nhiên, càng về sau, sự tiếp nhận Nho giáo diễn ra một cách cực đoan hơn, là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn cùng với chế độ phong kiến.
Hình thức du nhập: Nho giáo trong giai đoạn này được truyền vào nước ta
thông qua nhiều hoạt động: hoạt động chính trị, ngoại giao hai nước, trao đổi ấn phẩm,
dịch thuật sách chữ Hán và sự tiếp xúc với những người di cư
Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX
có những đặc điểm, tính chất sau:
Thứ nhất, tính phức tạp của quá trình du nhập Nho giáo.
Thứ hai, tính dung hợp của Nho giáo với Phật giáo Đạo giáo
trên cơ sở vănhóa truyền thống Việt Nam.
Thứ ba, tính Việt hóa Nho giáo.
lOMoARcPSD| 61164048
Từ quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam, có thể rút ra một số ý nghĩa mang
tính lịch sử:
Thứ nhất, ý nghĩa về phương diện văn hóa. Quá trình du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam trong lịch sử đã bổ sung làm cho diện mạo n hóa Việt Nam thêm
những sắc thái mới.
Thứ hai, ý nghĩa về phương diện tư tưởng, đạo đức. Quá trình du nhập của Nho
giáo vào Việt Nam đã tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan và tư tưởng chính
trị - xã hội của người Việt.
Thứ ba, ý nghĩa về phương diện chính trị - hội. Quá trình du nhập, tiếp thu
cải biến Nho giáo ở người Việt không chỉ đáp ng được yêu cầu quản đất nước của
giai cấp phong kiến dân tộc bấy giờ mà còn góp phần vào việc nâng cao ý thức độc lập,
tự chủ của người Việt nói chung trước triều đình phương Bắc.
2.2. Ảnh hưởng của Nho Giáo ở Việt Nam
tưởng Nho giáo chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch s tưởng
Trung Quốc. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội
Trung quốc suốt hơn 2000 năm lịch sử một số nước Á Đông khác như Nhật Bản,
Triều Tiên, Hàn Quốc... Bắt đầu từ thời kỳ nhà Hán cho đến triều Mãn Thanh, Nho giáo
đã trở thành tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Muốn duy trì
một trật tự xã hội, lý thuyết phương Đông là mong muốn duy trì ổn định xã hội.
Ngày nay, dưới góc độ ổn định xã hội thì những bài học triết lý của Nho giáo có
tác dụng ổn định quan hệ chính trị - hội, quan hệ gia đình. Nho giáo tin tưởng vào
bản tính thiện của con người, vậy rất đề cao giáo dục. Tuy Nho giáo cũng nhiều
tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao nhưng không quán xuyến và sâu sắc. Nho giáo
vào Việt nam từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho
giáo dần dần lấn át Phật giáo trở thành quốc giáo. được phát triển trong sự ảnh
hưởng của truyền thống dân tộc Việt nam và Phật giáo. ảnh hưởng của Nho giáo đối với
nước ta có cả mặt tích cực và tiêu cực.
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh bảo vệ
chủ quyền dân tộc.
Công lao của Nho giáo góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt Nam, trong đó
nhiều nhân tài kiệt xuất như Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm...
Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt nam. Chịu
ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng được phổ biến phát triển,
thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa...
Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ
tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,... ảnh ởng rất đậm nét ở Việt nam,
nhất bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trtrở thành hệ tưởng
chính thống của chế độ phong kiến.
Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo Nhân
lOMoARcPSD| 61164048
Nghĩa Lễ Trí Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước.
Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng
nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình.
Ví dụ như:
"Tiên học lễ, hậu học văn" khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ xưa
đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo đã đưa
vào đó những nội dung mới như: "Cần, kiệm, liêm, chính, ccông, tư, trung, hiếu,
..."
Tư tưởng "Trăm năm trồng người" và "Hữu giáo vô loại" (nghĩa là dạy học cho
mọi người không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được Đảng Cộng sản Việt nam
vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ảnh hưởng chính của Nho giáo thiết lập được kỷ ơng trật tự hội.
Nho giáo với các ởng chính trị - đạo đức như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân
chính" luôn luôn là bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt nam.
Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" đã viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân",
"Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn Đem chí nhân để thay cường bạo". Đảng ta thực
hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: "Dân giàu, nước mạnh" "Chúng ta
không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng".
Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những
tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ.
Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: "Thứ dân bất nghị" tức dân thường không
quyền n việc nước, còn Bác Hồ đề cao dân chủ. Khổng Tử coi thường vị trí, vai trò
của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương nam nữ bình quyền.
2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
Nho giáo suy đến cùng bảo thủ về mặt hội duy m về mặt triết học.
thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các hội phong kiến trong lịch sử. Nho
giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến á Đông nói
chung và ở Việt nam nói riêng.
Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát triển
Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ
nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng.
Nho giáo không thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi
phương pháp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy làm
người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật.
Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng chính trị đạo
đức của Nho giáo có ảnh hưởng trên các mặt sau:
Trên lĩnh vực hội: tác dụng ổn định kinh tế - chính trị để phát triển
kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt nam.
lOMoARcPSD| 61164048
Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng những tưởng của Nho
giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội; đặc biệt
chú trọng Nho giáo cổ đại (Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo sau này (chỉ nhấn mạnh
quan hệ một chiều).
Đảm bảo nhìn nhận vấn đề một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc,
đặt vấn đề dân chủ trong việc áp dụng những tinh hoa tích cực.
Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy chữ tín làm đầu, trong đó một
vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩm.
còn những khuyến điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những
giá trị đạo đức to lớn Nho giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Nho giáo
giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không
gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. giúp con người sống thân ái, yêu thương
nhau, hội yên bình. Như ta đã biết Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển
sang kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa thì những tư tưởng bảo thủ, hủ
nho sẽ những cản trở không nhỏ cho quá trình chuyển đổi ấy. Mặt khác, Việt Nam
hiện nay đang cất giữ thể ổn định của xã hội, đó là điều mà Nho giáo đã theo đuổi hàng
ngàn năm nay, mục tiêu “ ổn định”. Nho giáo đã suy tư rất nhiều về phương cách thực
hiện mục tiêu ấy. Ta cần tham khảo các vấn đề đó từ nhiều nguồn thông tin, trong đó có
Nho giáo,nghiên cứu để vận dụng vào
lOMoARcPSD| 61164048
KẾT LUẬN
Nho giáo, với người sáng lập Khổng Tử, đã hình thành phát triển như một
trong những nền tảng ởng quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc cổ trung đại.
Từ những quan điểm cơ bản về bản chất con người, xã hội học, giáo dục, và quản lý xã
hội, Nho giáo đã tạo nên một hệ thống triết lý có ảnh hưởng sâu rộng và bền vững. Tiến
trình phát triển của Nho giáo không chỉ gắn liền với sự phát triển của Trung Quốc
còn lan tỏa và để lại dấu ấn mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là Việt Nam.
Việt Nam, sự du nhập ảnh hưởng của Nho giáo đã tạo ra những biến đổi
quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Nho giáo không chỉ góp phần định
hình nền tảng văn hóa, giáo dục và đạo đức của xã hội Việt Nam mà còn ảnh hưởng sâu
sắc đến cách thức quản lý và trị quốc. Những giá trị tích cực mà Nho giáo mang lại như
tinh thần hiếu học, lòng nhân ái, và sự tôn trọng lễ nghĩa đã góp phần xây dựng nên một
xã hội ổn định và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo ng để lại một số h
quả tiêu cực. Sự cứng nhắc trong duy sự phân biệt đẳng cấp hội đã phần nào
hạn chế sự phát triển tự do sáng tạo của con người. một góc độ nào đó, Nho giáo
cũng góp phần duy trì những quan niệm truyền thống lạc hậu, kìm hãm sự tiến bộ đổi
mới của xã hội.
Tóm lại, Nho giáo tưởng của Khổng Tử đã một vai trò to lớn phức
tạp trong lịch sử phát triển của Trung Quốc và Việt Nam. Việc nghiên cứu và hiểu rõ về
Nho giáo không chỉ giúp chúng ta nhận diện hơn về lịch sử văn hóa của hai dân
tộc còn cung cấp những bài học quý báu cho công cuộc xây dựng phát triển
hội hiện nay.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nho Giáo, www.Wikipedia.com
2. Khổng Tử (2006), Tứ thư, Nxb Thuận hóa, Huế.
3. Nho giáo xưa này Nhiều tác giả (Vũ Khiêu chủ biên), viện khoa học xã hội
Việt Nam
4. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại Trần Đình Hựu Nhà xuất bản giáo
dục.
5. Ban biên tập trang web dân luận, Văn hóa Việt Nam: Sự hấp thu và sử dụng Nho
giáo ở Việt Nam, http://danluan.org/node/636
6. Quá trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam từ đầu công nguyên đến thế kỷ
XIX
(vnulib.edu.vn)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61164048
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài tiểu luận................................................................................4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................4
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu......................................................................4
5. Kết cấu của tiểu luận.........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................6
CHƯƠNG I. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT
SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO...................................................6
1.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo (Khổng tử và Nho giáo)....6
1.1.1. Khổng Tử.................................................................................................6
1.1.2. Quá trình phát triển của Nho giáo............................................................7
1.2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo......................................................8
1.2.1. Quan điểm về bản chất con người...........................................................8
1.2.2. Quan điểm về xã hội học.........................................................................9
1.2.3. Quan điểm về giáo dục..........................................................................10
1.2.4. Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc).................................................10
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM...........................................................11
2.1. Sự du nhập của Nho Giáo vào Việt Nam..................................................11
2.2. Ảnh hưởng của Nho Giáo ở Việt Nam......................................................13
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam.....................................13
2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam.....................................14
KẾT LUẬN............................................................................................................16
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................17 lOMoAR cPSD| 61164048 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài tiểu luận
Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn, vì vậy, Khổng
tử đã luyến tiếc và cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức. “Đạo” theo Nho gia là quy
luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn vật. Đối với con người, đạo là con đường
đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người,
theo quan điểm của Nho gia là phải phù hợp với tính của con người lập nên. Chính vì
vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người và
tác động vào các khu vực khác của đời sống xã hội cũng như đối với xã hội Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác
– Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận
kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng. Việc xoá bỏ hoàn toàn
ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý
để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên
cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của Nho giáo đến thế giới quan, nhân sinh quan của
con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng
như tiến bộ, tư tưởng của Nho giáo đã giúp chúng ta hiểu rõ tâm lý của người dân hơn
và qua đó tìm được một phương cách để hướng cho họ một nhân cách chính và đúng
đắn.Tóm lại, nghiên cứu Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội, con người Việt Nam
là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng phát triển của
nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luậnMục tiêu
Tiểu luận nhằm làm rõ các quan điểm cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam, từ đó góp thêm tiếng nói vào việc tìm
giải pháp khai thác những giá trị tinh hoa và loại bỏ những hạn chế của nó trong đời
sống xã hội nước ta hiện nay. Nhiệm vụ
Làm rõ quan điểm cơ bản của Nho giáo. Chỉ rõ những giá trị tích cực của Nho
giáo cần được kế thừa, phê phán những hạn chế, những tàn dư của Nho giáo còn rơi rớt
lại trong đời sống xã hội Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ phương pháp logic với phương pháp lịch sử,
vận dụng các phương pháp liên ngành: thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, …
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung làm rõ một số tư tưởng cơ bản của Nho giáo, những ảnh hưởng
của nó trong đời sống nước ta hiện nay.
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bảo gồm 2 chương. lOMoAR cPSD| 61164048 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT SỐ
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
1.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo (Khổng tử và Nho giáo) 1.1.1. Khổng Tử
Khổng Tử là một triết gia người Trung Quốc có tầm ảnh hưởng lớn. Những bài
giảng của ông đã được các môn đồ ghi chép lại trong cuốn Luận Ngữ. Khổng Tử trở
thành triết học chính thức của Trung Hoa vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Để các
quan chức triều đình có thể ra làm quan thì phải vượt qua một bài thi về những tư tưởng
do Khổng Tử đề ra. Những triết lý của ông về chính quyền, trật tự xã hội, và mối quan
hệ giữa con người đã trở thành nền tảng của cuộc sống và văn hóa Trung Hoa cho đến
tận thế kỷ 20, và vẫn giữ tầm quan trọng ở Đông Á, khu vực chịu ảnh hưởng mạnh từ văn hóa Trung Quốc.
Khổng Tử sống ở thời nhà Chu, một thời kỳ đầy xung đột chính trị – xã hội, còn
được gọi là thời Chiến quốc. Đến năm 50 tuổi, ông đã giữ nhiều chức quan nhỏ ở nước
Lỗ, nhưng do bất đồng quan điểm với các quan chức khác và bị chèn ép, ông đã từ chức
và rời khỏi nước Lỗ. Sau đó, ông đi khắp các nước chư hầu để truyền bá tư tưởng của
mình và tìm kiếm cơ hội để thực hiện lý tưởng chính trị, nhưng không thành công. Ông
đã quyết định chuyển tới nước Tề hùng mạnh, với hy vọng có thể trở thành một vị quan
triều đình. Tuy nhiên, không được ban một chức vụ nào, Khổng Tử tiếp tục du hành.
Nhiều năm sau, ông dành phần còn lại của cuộc đời mình ở nước Lỗ để dạy về nhân
cách con người, trật tự xã hội, và vai trò của triều đình. Những bài giảng này được các
môn đồ của ông ghi chép lại trong cuốn Luận Ngữ (còn gọi là The Analects trong tiếng Anh).
Mặc dù những thế hệ sau tôn kính Khổng Tử như một nhà hiền triết có xuất thân
gần như thần thánh, nhưng những cuộc đối thoại trong Luận Ngữ lại cho thấy ông là
một người thầy rất thông thái và thanh lịch, có mối quan tâm mãnh liệt đến hành vi ứng
xử của con người và trật tự trong xã hội. Các chủ đề phổ biến trong bài giảng của ông
bao gồm lòng trắc ẩn đối với con người (nhân), đạo hiếu hay sự kính trọng với gia đình
(hiếu), thực hành lễ nghi (lễ), và đức hạnh (đức).
Khổng Tử nhấn mạnh rằng mỗi người trong xã hội đều có một vai trò. Một số
người ở vị trí cao và có vai trò dẫn dắt, trong khi những người khác ở vị trí thấp hơn và
có vai trò tuân theo. Ông tin rằng nếu mọi người, đặc biệt là lãnh đạo và những người
cao tuổi, hành xử tốt thì xã hội sẽ vận hành một cách đúng đắn. Khổng Tử không nhận
mình là người sáng tạo ra những kiến thức cổ xưa mà chỉ là người truyền lại chúng.
Trước khi mất, ông đã biên soạn lại một số tác phẩm cổ, bao gồm Ngũ kinh và Kinh Xuân Thu.
Mặc dù Khổng Tử không đạt được chức vụ mà ông mong muốn nhưng tầm ảnh
hưởng của ông đã tăng một cách đáng kể sau khi ông qua đời ở tuổi 72. Hai trăm năm
sau, những bài giảng của ông đã đặt nền móng quan trọng cho những người muốn ra
làm quan chức triều đình. Trong thời nhà Hán, để có thể trở thành quan thì mọi người
cần phải vượt qua một kỳ thi về tư tưởng của Khổng Tử. Các nhà triết gia sau này như lOMoAR cPSD| 61164048
Mạnh Tử và Tuân Tử đã phát triển những trường phái triết học mới dựa trên các tác phẩm của Khổng Tử.
1.1.2. Quá trình phát triển của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết có hệ thống và phương pháp rõ ràng, dạy về Nhân
đạo, tức là dạy về đạo làm người trong gia đình và xã hội. Hệ thống của Nho giáo tuân
theo chủ nghĩa "Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể", nghĩa là Trời, Đất và muôn vật đều
là một thể thống nhất. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên
lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có ba điều cốt yếu: Luôn
luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là Trời và Người có mối tương quan với nhau,
lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng, lấy trực giác làm công cụ để soi rọi và tìm
hiểu sự vật. Nho giáo, hay còn gọi là Khổng giáo, là một hệ tư tưởng triết học, đạo đức,
và tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc và nhiều nước Đông Á. Sự
phát triển của Nho giáo kéo dài hơn 2000 năm, từ thời Tây Chu cho đến hiện đại, với
nhiều biến đổi và đóng góp của các nhà tư tưởng lớn.
Nho giáo bắt nguồn từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công
Đản, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (tên thật là
Khâu, hay Trọng Ni), người nước Lỗ (551-479 TCN), đã phát triển và hệ thống hóa các
tư tưởng của Chu Công, tích cực truyền bá những tư tưởng này. Vì vậy, Khổng Tử được
coi là người sáng lập Nho giáo, mở đường cho lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Ông
là nhà triết học, nhà chính trị và nhà giáo dục nổi tiếng, đã hệ thống hóa những tri thức
và quan điểm thành học thuyết đạo đức chính trị riêng gọi là Nho giáo.
Học thuyết của Khổng Tử được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn
thiện và phát triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, còn Tuân Tử theo hướng duy vật.
Trong lịch sử sau này, dòng Khổng-Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ thời Hán, Nho
giáo được nhiều nhà tư tưởng phát triển và sử dụng theo môi trường xã hội của nó.
Từ đời Hán đến đời Thanh, Nho giáo chủ yếu được truyền bá qua các kinh điển.
Đường Thái Tông, sau khi thống nhất quốc gia, đã cho hiệu đính lại năm kinh Nho gia,
bao gồm: Dịch, Thị Thư, Tả truyện, Lễ ký, và thành lập Ngũ kinh chính nghĩa, trở thành
sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Đường Thái Tông đặc biệt coi trọng đạo
Nho, coi nó như "chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể thiếu được". Từ đó,
Khổng Tử luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các triều đại và chính phủ, như Đường Thái Tông đã hình dung.
Khi Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ dưới nhà Tống, hoàng đế khai
quốc Triệu Khuông Dẫn đã chủ trì nghi lễ long trọng tế Khổng Tử để tôn vinh, đồng thời
chủ trì các khoa thi tiến sĩ với nội dung hoàn toàn theo Nho học. Lý học, bắt đầu từ Hàn
Dũ đời Đường và phát triển qua nỗ lực của nhiều nhà tư tưởng như Tôn Phục, Thạch
Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trình Hạo, Trình Di, và đặc biệt là Chu Hi đời
Nam Tống, đã hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học.
Lý học của Trình-Chu nhấn mạnh các giá trị như Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, coi
đây như "thiên lý" (lý trời). Chu Hi đã chú giải các kinh điển Nho gia như Luận Ngữ,
Mạnh Tử, và các tác phẩm này trở thành sách giáo khoa bắt buộc trong khoa cử phong
kiến và tiêu chuẩn pháp định trong thi cử của chính phủ. lOMoAR cPSD| 61164048
Ngoài Lý học của Trình-Chu, còn có phái Công học của Trần Lượng, Diệp Thích
và phái Tâm học của Vương Dương Minh. Các phái này đều tôn sùng Khổng Tử và hấp
thụ một phần tư tưởng của ông, được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong
xã hội và văn hóa Trung Quốc.
Nho giáo được các sĩ đại phu tôn sùng và các vương triều đua nhau đề xướng, do
đó đã thẩm thấu vào mọi lĩnh vực và giai tầng xã hội. Từ rất sớm, nó đã vượt qua biên
giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc và là cơ sở văn
hóa của tín ngưỡng và tập tục.
Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Quan trọng nhất
là đào tạo người cai trị kiểu mẫu, gọi là quân tử. Để trở thành quân tử, con người cần
"tu thân", sau đó phải "hành đạo". Đạo ở đây không chỉ là đạo lý, mà còn là nguyên lý
vận hành của vũ trụ và đạo đức do Nho gia đề xướng.
Hệ tư tưởng Nho giáo, khi hình thành và phát triển, đã trở thành hình thái ý thức
của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với Nho giáo, ngũ
luân, ngũ thường và tam cương là những giá trị cốt lõi, với quan niệm rằng "Thiên bất
biến, đạo diệc bất biến" (Trời không thay đổi, đạo cũng không thay đổi) của Đổng Trọng
Thư, tức là tam cương ngũ thường là đạo lý vĩnh hằng.
1.2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo
1.2.1. Quan điểm về bản chất con người

Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con người. Đức
Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho rằng bản tính con người sinh ra vốn thiện. Bản tính
"Thiện" ở đây là tập hợp các giá trị chính trị và đạo đức của con người. Xuất phát từ
quan niệm cho rằng bản tính của con người là thiện, Khổng Tử đã xây dựng phạm trù
"Nhân" làm trung tâm trong triết học của ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình
thịnh trị thì người cầm quyền phải có đức Nhân; một xã hội muốn hòa mục thì phải có
nhiều người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy
định bản tính con người và các mối quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội.
Nho giáo tin vào khái niệm "thiên tính" và "nhân tính." Khổng Tử cho rằng tất cả
mọi người đều có bản chất thiện lương từ khi sinh ra. Câu nói nổi tiếng "nhân chi sơ,
tính bổn thiện" nghĩa là bản chất con người lúc đầu là thiện thể hiện rõ quan điểm này.
Tuy nhiên, để duy trì và phát triển cái thiện này, cần có giáo dục và sự tu dưỡng đạo đức.
Bản chất thiện của con người có thể bị che lấp bởi các yếu tố bên ngoài, do đó, giáo dục
và tu dưỡng là cách để khơi dậy và phát triển bản chất này.
Khái niệm "nhân" là một trong những yếu tố cốt lõi của Nho giáo, thường được
dịch là "nhân từ" hoặc "lòng nhân ái." Khổng Tử coi nhân là cơ sở của tất cả các phẩm
chất đạo đức và là mục tiêu cao nhất của con người. Nhân ái được hiểu là sự đồng cảm,
quan tâm và yêu thương người khác, cũng như sự tôn trọng lẫn nhau và lòng từ bi. Theo
Khổng Tử, một người có nhân là người sống vì lợi ích của người khác và biết cách điều
chỉnh hành vi của mình để không gây hại cho người khác.
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là gốc đạo đức của con người, thì theo ông,
để trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác là phải "hiểu biết
mệnh trời" để sống "thuận mệnh". Ông viết: "Không biết mệnh trời thì không lấy gì làm lOMoAR cPSD| 61164048
quân tử", nhưng ông kêu gọi mọi người trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên trong
chính bản thân mỗi người, đừng trông chờ vào trời đất quỷ thần: "Đạo người chưa biết
thì làm sao biết được đạo quỷ thần". Con người cần phải tập trung toàn phần vào sự nỗ
lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, đúng với lương tâm; còn việc thành bại như thế
nào, lúc đó mới tại ý trời.
Trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người vốn có
bản tính thiện, thì Tuân Tử đưa ra lý luận rằng bản tính con người là ác: "Tình người là
ác, thiện là do người làm ra". Nhưng trong quan điểm này cũng có những yếu tố hợp lý
như việc hành vi đạo đức của con người là do thói quen mà thành, phẩm chất con người
là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập, giáo dục lâu ngày mà nên.
Từ đó, ông cho rằng có thể giáo dục, cải hóa con người từ ác thành thiện. Nếu ra sức tu
dưỡng đạo đức thì bất cứ ai cũng có thể đạt được địa vị "người quân tử". Tuân Tử đề
cao khả năng và vai trò của con người, khẳng định rằng trời không thể quyết định vận
mệnh của con người. Ông cho rằng con người không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một
cách bị động mà phải vận dụng tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự nhiên
mà sáng tạo ra của cải, sản vật để phục vụ cho đời sống.
Nho giáo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng bản thân. Khổng Tử
cho rằng con người cần phải học hỏi và tự rèn luyện để phát triển đạo đức và trí tuệ. Tu
dưỡng bản thân là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc nhân và lễ trong cuộc sống hàng
ngày. Quá trình tu dưỡng này không chỉ giúp cá nhân trở nên tốt đẹp hơn, mà còn góp
phần vào sự phát triển và hài hòa của xã hội.
Như vậy, Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy
nét đẹp của con người và tin tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo dục con
người. Tuy nhiên, quan niệm về Nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng; ông
cho rằng chỉ có người quân tử, tức kẻ cai trị, mới có được đức Nhân, còn người tiểu
nhân, tức nhân dân lao động, không thể có được đức Nhân. Đạo Nhân chỉ là đạo của
người quân tử, tức giai cấp thống trị. Khổng Tử cho rằng tiểu nhân và quân tử là hai loại
người đối lập nhau, không chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức
vì đây chính là điểm hạn chế tạo bởi lập trường giai cấp trong quan điểm của Khổng Tử.
1.2.2. Quan điểm về xã hội học
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội bởi vì
khi giải quyết những vấn đề xã hội. Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị
trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì “ngũ luân, ngũ thường, hay tam
cương ngũ thường” là những cái tuyệt đối, bao gồm:  Quan hệ vua - tôi  Quan hệ cha - con  Quan hệ chồng - vợ
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia
đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm tới
những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình ở đây mang
tính chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện ở chỗ có giữ vững
được ba quan hệ ấy hay không:
“Xã hội là tam cương - tam cương là quốc gia. lOMoAR cPSD| 61164048
Mỗi cương thay đổi xã hội loạn”.
Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn
chỉnh lại ba quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại ba quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo
dục đạo đức
làm cứu cánh.
1.2.3. Quan điểm về giáo dục
Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý tưởng cao nhất
của đức Không Từ cũng như các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một xã hội
"Đại đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên
nền tảng của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an
hoà được đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội.
Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không
đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một
nền giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn
dân. Có giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận
hành động trong cuộc sống cho đúng.
Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc giáo
dục những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa, được nêu gương
sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là chỉ dạy làm người nói chung,
không hề đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào phương diện
kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch.
Đồng thời, nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc
tự nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
1.2.4. Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc)
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên
tắc quản lý xã hội như sau:
‒ Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung
ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một người là Hoàng đế.
‒ Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội. "Chính danh" nghĩa
là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương vị, địa vị của mình: vua
phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con phải ra đạo con, chồng phải
ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu như mọi người không chính danh thì xã hội ắt trở
nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà nguyên tắc chính danh bị vi phạm.
Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh và thực. Thực do học, tài và phận quy định.
‒ Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây là nguyên tắc có tính
chất đường lối căn bản của Nho giáo.
Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi
người tự giác tuân theo. lOMoAR cPSD| 61164048
Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị quốc.
Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn phương.
Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh
quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và Nghệ tinh.
Nhà vua muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và thực hiện ba điều:
• Kính sự: Chăm lo đến việc công.
• Như tín: Giữ lòng tin với dân.
• Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng
trung của mình đối với vua.
Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của Không Từ, Mạnh Tử đề ra tư tưởng " Nhân chính".
Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và Mạnh
Tử chủ trương một chế độ "bảo dân", trong đó người trị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái
vui của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no đủ, như thế dân
không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải giữ mình
khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có chừng mực. Đặc biệt Mạnh
Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền. Ông nói: "Dân vi quý, quân
vi khinh, xã tắc thứ vi", vì theo ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí
ông cho rằng dân có khi còn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng
hộ thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng
dân và ý trời thì sẽ có thể bị truất phế.
‒ Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội.
Đức Khổng Tử đã nói: "Không lo thiếu mà lo không đều,
Không lo nghèo mà lo dân không yên".
Cơ sở công bằng trong tôn giáo:
• Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
• Theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức là công
bằngtheo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo chức vụ, địa vị.
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Sự du nhập của Nho Giáo vào Việt Nam
Nho giáo là học thuyết triết học, chính trị, đạo đức của Trung Quốc được hình
thành và phát triển qua ba giai đoạn lớn, từ Nho thời Tiên Tần đến Nho Lưỡng Hán và
Nho thời Tống - Minh - Thanh. Được truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, tuy ban
đầu vấp phải sự phản kháng của người Việt nhưng về sau Nho giáo đã dần được các
triều đại Việt Nam chủ động tiếp nhận, sử dụng làm công cụ trị nước trong suốt nhiều
thế kỷ cho đến khi chế độ phong kiến lụi tàn. Căn cứ vào lý thuyết tiếp biến văn hóa và lOMoAR cPSD| 61164048
chuyển đổi tư tưởng, luận án chia quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam thành ba giai đoạn lớn.
Giai đoạn 1: Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam.
Nho giáo được truyền bá vào VN tương ứng với thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử
dân tộc, Nho giáo được truyền vào VN một cách áp đặt trong âm mưu đồng hóa dân tộc
của các thế lực phong kiến phương Bắc, do đó thời kỳ này người Việt tiếp nhận Nho
giáo hết sức chậm chạp, thụ động, tiếp thu chủ yếu những yếu tố kỹ thuật, văn hóa mang
tính thực dụng và gần gũi với truyền thống người Việt.
Giai đoạn 2: Nho giáo được tiếp nhận chủ động ở Việt Nam.
Từ thế kỷ X-XV, trước yêu cầu đặt ra về việc xây dựng và phát triển nhà nước
Đại Việt, giai cấp phong kiến dân tộc đã chủ động tiếp thu Nho giáo thông qua giao lưu
kinh tế, văn hóa, ngoại giao với Trung Hoa. Những quan niệm của Nho giáo về chính trị
- xã hội, đạo đức, nhân sinh đã có những tác động nhất định vào đội ngũ những người học đạo Nho.
Trong bối cảnh đất nước chưa ổn định, yêu cầu bảo vệ và thống nhất nước nhà
được đặt lên trên hết, Nho giáo được tiếp nhận giai đoạn này mang đậm tinh thần dân
tộc, gắn với thực tiễn và truyền thống văn hóa người Việt. Nho giáo cùng với Phật giáo
và Đạo giáo tạo thành hiện tượng tam giáo đồng nguyên trong đó Phật giáo đóng vai trò chủ đạo.
‒ Hình thức du nhập: Nho giáo trong giai đoạn này được truyền vào Việt Nam
chủ yếu thông qua các hoạt động như: Các chuyến đi sứ; Xin sách, nhân bản sách; Những luồng người nhập cư.
Giai đoạn 3: Nho giáo được tiếp nhận làm hệ tư tưởng chính thống của nhà nước
phong kiến Việt Nam.
Tương ứng với thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XV đến XIX, với yêu cầu về việc hoàn
thiện thể chế trung ương tập quyền, chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình và trật tự xã hội,
các triều đại từ nhà Lê đến nhà Nguyễn, đã dựa vào tư tưởng Nho giáo để tuyển lựa và
chấn chỉnh bộ máy quan lại, dùng cương thường đạo lý, tập quán tông pháp để chuẩn
mực hóa hành vi của nhân dân (Giai cấp cầm quyền đã hết sức đề cao Nho giáo, xem đó
là cơ sở lý luận để xây dựng đất nước, làm bệ đỡ tư tưởng bảo vệ lợi ích của vương triều.)
Tuy nhiên, càng về sau, sự tiếp nhận Nho giáo diễn ra một cách cực đoan hơn, là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn cùng với chế độ phong kiến.
‒ Hình thức du nhập: Nho giáo trong giai đoạn này được truyền bá vào nước ta
thông qua nhiều hoạt động: hoạt động chính trị, ngoại giao hai nước, trao đổi ấn phẩm,
dịch thuật sách chữ Hán và sự tiếp xúc với những người di cư
Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX
có những đặc điểm, tính chất sau: •
Thứ nhất, tính phức tạp của quá trình du nhập Nho giáo. •
Thứ hai, tính dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo
trên cơ sở vănhóa truyền thống Việt Nam. •
Thứ ba, tính Việt hóa Nho giáo. lOMoAR cPSD| 61164048
Từ quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam, có thể rút ra một số ý nghĩa mang tính lịch sử:
‒ Thứ nhất, ý nghĩa về phương diện văn hóa. Quá trình du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam trong lịch sử đã bổ sung và làm cho diện mạo văn hóa Việt Nam có thêm những sắc thái mới.
‒ Thứ hai, ý nghĩa về phương diện tư tưởng, đạo đức. Quá trình du nhập của Nho
giáo vào Việt Nam đã tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan và tư tưởng chính
trị - xã hội của người Việt.
‒ Thứ ba, ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội. Quá trình du nhập, tiếp thu
và cải biến Nho giáo ở người Việt không chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước của
giai cấp phong kiến dân tộc bấy giờ mà còn góp phần vào việc nâng cao ý thức độc lập,
tự chủ của người Việt nói chung trước triều đình phương Bắc.
2.2. Ảnh hưởng của Nho Giáo ở Việt Nam
Tư tưởng Nho giáo chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội
Trung quốc suốt hơn 2000 năm lịch sử và một số nước Á Đông khác như Nhật Bản,
Triều Tiên, Hàn Quốc... Bắt đầu từ thời kỳ nhà Hán cho đến triều Mãn Thanh, Nho giáo
đã trở thành tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Muốn duy trì
một trật tự xã hội, lý thuyết phương Đông là mong muốn duy trì ổn định xã hội.
Ngày nay, dưới góc độ ổn định xã hội thì những bài học triết lý của Nho giáo có
tác dụng ổn định quan hệ chính trị - xã hội, quan hệ gia đình. Nho giáo tin tưởng vào
bản tính thiện của con người, vì vậy mà rất đề cao giáo dục. Tuy Nho giáo cũng có nhiều
tư tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao nhưng không quán xuyến và sâu sắc. Nho giáo
vào Việt nam từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho
giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh
hưởng của truyền thống dân tộc Việt nam và Phật giáo. ảnh hưởng của Nho giáo đối với
nước ta có cả mặt tích cực và tiêu cực.
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
‒ Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt Nam, trong đó
có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm...
Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt nam. Chịu
ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và phát triển,
thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa...
Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ
tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,... ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam,
nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng
chính thống của chế độ phong kiến.
Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo Nhân‒ lOMoAR cPSD| 61164048
‒ Nghĩa Lễ Trí Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. ‒ ‒ ‒
Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng
nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như:
"Tiên học lễ, hậu học văn" là khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ xưa
đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo và đã đưa
vào đó những nội dung mới như: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung, hiếu, ..."

Tư tưởng "Trăm năm trồng người" và "Hữu giáo vô loại" (nghĩa là dạy học cho
mọi người không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được Đảng Cộng sản Việt nam
vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.

‒ Ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội.
Nho giáo với các tư tưởng chính trị - đạo đức như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân
chính" luôn luôn là bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt nam.
Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" đã viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân",
và "Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn Đem chí nhân để thay cường bạo". Đảng ta thực
hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: "Dân giàu, nước mạnh" và "Chúng ta
không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng".
Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những tư
tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ.
Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: "Thứ dân bất nghị" tức là dân thường không có
quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ đề cao dân chủ. Khổng Tử coi thường vị trí, vai trò
của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương nam nữ bình quyền.
2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
‒ Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học.
Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến trong lịch sử. Nho
giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến ở á Đông nói
chung và ở Việt nam nói riêng.
‒ Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát triển
ở Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ
nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng.
‒ Nho giáo không thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi
phương pháp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy làm
người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật.
⇒Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng chính trị đạo
đức của Nho giáo có ảnh hưởng trên các mặt sau:
‒ Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế - chính trị để phát triển
kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. lOMoAR cPSD| 61164048
‒ Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng của Nho
giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội; đặc biệt
chú trọng Nho giáo cổ đại (Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều).
Đảm bảo nhìn nhận vấn đề một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc,
đặt vấn đề dân chủ trong việc áp dụng những tinh hoa tích cực.
Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy chữ tín làm đầu, trong đó có một
vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩm.
Dù còn những khuyến điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những
giá trị đạo đức to lớn mà Nho giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Nho giáo
giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không
gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương
nhau, xã hội yên bình. Như ta đã biết Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển
sang kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa thì những tư tưởng bảo thủ, hủ
nho sẽ là những cản trở không nhỏ cho quá trình chuyển đổi ấy. Mặt khác, Việt Nam
hiện nay đang cất giữ thể ổn định của xã hội, đó là điều mà Nho giáo đã theo đuổi hàng
ngàn năm nay, mục tiêu “ ổn định”. Nho giáo đã suy tư rất nhiều về phương cách thực
hiện mục tiêu ấy. Ta cần tham khảo các vấn đề đó từ nhiều nguồn thông tin, trong đó có
Nho giáo,nghiên cứu để vận dụng vào
lOMoAR cPSD| 61164048 KẾT LUẬN
Nho giáo, với người sáng lập Khổng Tử, đã hình thành và phát triển như một
trong những nền tảng tư tưởng quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc cổ trung đại.
Từ những quan điểm cơ bản về bản chất con người, xã hội học, giáo dục, và quản lý xã
hội, Nho giáo đã tạo nên một hệ thống triết lý có ảnh hưởng sâu rộng và bền vững. Tiến
trình phát triển của Nho giáo không chỉ gắn liền với sự phát triển của Trung Quốc mà
còn lan tỏa và để lại dấu ấn mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là Việt Nam.
Ở Việt Nam, sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo đã tạo ra những biến đổi
quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Nho giáo không chỉ góp phần định
hình nền tảng văn hóa, giáo dục và đạo đức của xã hội Việt Nam mà còn ảnh hưởng sâu
sắc đến cách thức quản lý và trị quốc. Những giá trị tích cực mà Nho giáo mang lại như
tinh thần hiếu học, lòng nhân ái, và sự tôn trọng lễ nghĩa đã góp phần xây dựng nên một
xã hội ổn định và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng để lại một số hệ
quả tiêu cực. Sự cứng nhắc trong tư duy và sự phân biệt đẳng cấp xã hội đã phần nào
hạn chế sự phát triển tự do và sáng tạo của con người. Ở một góc độ nào đó, Nho giáo
cũng góp phần duy trì những quan niệm truyền thống lạc hậu, kìm hãm sự tiến bộ và đổi mới của xã hội.
Tóm lại, Nho giáo và tư tưởng của Khổng Tử đã có một vai trò to lớn và phức
tạp trong lịch sử phát triển của Trung Quốc và Việt Nam. Việc nghiên cứu và hiểu rõ về
Nho giáo không chỉ giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về lịch sử và văn hóa của hai dân
tộc mà còn cung cấp những bài học quý báu cho công cuộc xây dựng và phát triển xã hội hiện nay.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nho Giáo, www.Wikipedia.com 2.
Khổng Tử (2006), Tứ thư, Nxb Thuận hóa, Huế. 3.
Nho giáo xưa và này – Nhiều tác giả (Vũ Khiêu chủ biên), viện khoa học xã hội Việt Nam 4.
Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại Trần Đình Hựu Nhà xuất bản giáo ‒ ‒ dục. 5.
Ban biên tập trang web dân luận, Văn hóa Việt Nam: Sự hấp thu và sử dụng Nho
giáo ở Việt Nam, http://danluan.org/node/636 6.
Quá trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX (vnulib.edu.vn)