lOMoARcPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
Học phần LQT-08: Thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam
Đề tài tiểu luận:
Phân tích và đánh giá thực tiễn Việt Nam thực hiện
điều ước quốc tế về quyền con người
Họ và tên:
Nguyễn Thu Hương
Mã sinh viên:
29
UD
08007
Lớp:
CH29BUD
lOMoARcPSD| 45734214
Quyền con người là giá trị chung của nhân loại, là thành quả cuộc đấu tranh của loài
người qua hàng nghìn năm lịch sử. Ngày nay, bảo đảm quyền con người đã trở thành mục
tiêu phấn đấu chung của cộng đồng quốc tế, được phản ánh trong chính sách của các quốc
gia cũng như trong chương trình nghị sự của các tổ chức quốc tế. Với chủ trương nhất quán
tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do của người dân, việc tăng cường
hợp tác quốc tế về quyền con người nhất việc tham gia các điều ước, thực hiện các
cam kết quốc tế về quyền con người đã được Việt Nam thực hiện với tinh thần nghiêm túc,
cầu thị cởi mở, đóng góp đáng kể vào việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho người
dân Việt Nam.
1. Việt Nam và những cam kết quốc tế về quyền con người.
Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người ngay vào đầu
những năm 80 của Thế kỷ XX, trong bối cảnh đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, gặp nhiều
khó khăn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, hội văn a. Chính vậy, việc
gia nhập các Công ước quốc tế vquyền con người của Việt Nam một minh chứng
nét về nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, thúc đẩy tôn trọng các quyền
con người theo các chuẩn mực quốc tế.
Chủ trương nhất quán của Việt Nam là không ngừng nỗ lực để bảo đảm sự thụ hưởng
đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của mọi người dân. Thực hiện chủ trương này, Việt Nam
coi trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên sở bình đẳng,
tôn trọng hiểu biết lẫn nhau. Bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay,
hợp tác quốc tế về quyền con người giữa Việt Nam với các nước các tổ chức quốc tế
đang ngày ng được mở rộng. Cho đến nay, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động hội nhập quốc
tế, Việt Nam đã đang tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế, khu vực, đa
phương song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó việc thúc đẩy bảo vệ quyền
con người. Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ (MDG) đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững
(SDG).
lOMoARcPSD| 45734214
Việc tham gia các điều ước quốc tế thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con
người một trong những công tác trọng tâm, nhằm hướng đến những chuẩn mực bản
phổ quát về quyền con người, đưa những quy định chung đã được quốc tế thừa nhận
rộng rãi về các quyền con người vào pháp luật, chính sách của Việt Nam, phợp điều
kiện đặc thù của Việt Nam. Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế bản về
quyền con người (7/9 công ước), trong đó chúng ta quốc gia thứ hai trên thế giới
nước châu Á đầu tiên tham gia Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam cũng đã phê chuẩn
Công ước về quyền của người khuyết tật và Công ước chống tra tấn. Việt Nam cũng tham
gia 20 công ước về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó 5/8
công ước cơ bản của ILO. Đây là mức độ cam kết rất cao, kể cả so với nhiều quốc gia phát
triển, thể hiện nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó
khăn.
Nỗ lực của Việt Nam không chỉ thể hiện qua số lượng các công ước quốc tế về quyền
con người đã tham gia,còn ở tinh thần nghiêm túc trong thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ
của một quốc gia thành viên công ước. Cụ thể, đó nỗ lực nội luật hóa quy định của các
công ước về quyền con người (với ng chục nghìn văn bản luật dưới luật phải điều
chỉnh, bổ sung, ban hành mới...); việc triển khai tuyên truyền, phổ biến các công ước quốc
tế về quyền con người trên phạm vi toàn quốc, thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, đồng thời đưa vào chương trình giáo dục; việc nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ
bắt buộc liên quan đến xây dựng đệ trình báo cáo quốc gia. Việt Nam đã soạn thảo
đệ trình 16 báo cáo quốc gia lên các y ban ng ước về nhân quyền, được đánh giá cao về
chất lượng. Việt Nam tích cực thực hiện các cam kết quốc tế khác về quyền con người, nổi
bật là Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền. Việt Nam lần đầu
tiên thực hiện Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát vào tháng 52009, chấp nhận 96/123 khuyến
nghị. Tại phiên soát định kỳ phổ quát lần thứ hai vào tháng 02-2014, Việt Nam chấp
nhận 182/227 khuyến nghị. Việt Nam thái độ tích cực, nghiêm túc trong việc chuẩn bị
báo cáo, tham gia đối thoại, tlệ chấp nhận các khuyến nghị như vậy mức cao. Điều
quan trọng hơn Việt Nam hết sức nghiêm túc trong thực hiện các khuyến nghị đã chấp
nhận.
lOMoARcPSD| 45734214
Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Việt Nam cũng nhanh chóng
đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó, kiểm soát dịch bệnh ưu
tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng quyền được sống của
người dân; đồng thời thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tác động của
dịch đối với nền kinh tế, duy trì phục hồi sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, an
sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là những người dễ bị tổn thương.
2. Thực tiễn Việt Nam thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người
Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã thông qua 36 luật, trong đó có nhiều văn bản luật
quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, góp phần cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các Công ước quốc tế Việt Nam thành
viên như Bộ luật Lao động, Luật Thanh niên, Luật trú, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xử vi phạm hành chính, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt
Nam, Luật Hoà giải, đối thoại tại Tán, Luật Người Việt Nam đi m việc nước ngoài
theo hợp đồng, Luật Thư viện... Các luật này đã góp phần kiến tạo thể chế, khung pháp
điều chỉnh trên lĩnh vực kinh tế-xã hội có liên quan trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của
người dân.
Thực hiện một số khuyến nghị theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III
của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi, bổ sung một số Luật phù
hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc sửa đổi Luật Trẻ em, cụ thể định
nghĩa trẻ em người dưới 18 tuổi, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại
dâm, quy định cụ thể định nghĩa quấy rối tình dục trong Bộ luật Lao động 2019...
Nhiều Chương trình hành động cấp quốc gia được ban hành như Chương trình hỗ tr
người khuyết tật giai đoạn 2021-2030, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2021-2030, Chương trình bảo vệ trẻ em trên không gian mạng và Chương trình hành động
quốc gia trẻ em giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng, chống mua bán người giai
đoạn 2021-2025 định ớng đến năm 2030, Chương trình phát triển hội giai đoạn
2021-2030…, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam
đang tiếp tục triển khai Luật Bình đẳng giới, Luật Người khuyết tật và tích cực nghiên cứu,
sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về các vấn đề này. Thông qua các hoạt động hợp tác
lOMoARcPSD| 45734214
quốc tế về quyền con người, Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò và đóng p tích cực vào
việc xây dựng giá trị về quyền con người nói chung trên phạm vi khu vực và quốc tế. Điều
này phù hợp với định hướng đối ngoại của Việt Nam khi bước sang một giai đoạn phát
triển mới, không chtham gia tích cực, còn một thành viên trách nhiệm chủ
động tham gia vào quá trình định hình, xây dựng các quy định, chuẩn mực chung. Đóng
góp của Việt Nam thể hiện cách tiếp cận đề cao đối thoại, hợp tác xây dựng để thu hẹp
khác biệt, tránh đối đầu trong vấn đề quyền con người; đồng thời ủng hộ cách tiếp cận toàn
diện, cân bằng giữa các quyền, hài hòa quyền cá nhân với các quyền tập thể. Cách tiếp cận
này thể hiện rõ trong sự tham gia của Việt Nam ở các cơ chế đa phương về nhân quyền của
Liên hợp quốc và trong khuôn khổ ASEAN. Tính từ thời điểm Việt Nam bắt đầu gia nhập
các công ước quốc tế vquyền con người, đã có khoảng 13.000 văn bản luật ới luật
được rà soát, ban hành và sửa đổi, trong đó các quyền con người cơ bản được quy định một
cách cụ thể và toàn diện hơn; hàng loạt những nguyên tắc tiến bộ của luật pháp quốc tế đã
được thể hiện trong các đạo luật quốc gia. Các quyền dân sự, chính trị được nêu trong các
công ước quốc tế Việt Nam thành viên đã được thể hiện xuyên suốt, thống nhất trong
Hiến pháp và được thể hiện tại nhiều văn bản luật quan trọng.
Cùng với triển khai đồng bộ các văn bản pháp luật về quyền con người, Việt Nam đã
tăng cường và mở rộng chương trình giáo dục, đào tạo về quyền con người cho các cán bộ
của các cơ quan nhà ớc. Nhiều hội thảo, hội nghị liên quan đến quyền con người đã được
tổ chức với sự tham gia của đông đảo đại diện nhiều bộ, ngành, các trung tâm nghiên cứu
và cơ sở đào tạo chuyên sâu về quyền con người; mở nhiều lớp giảng dạy thường xuyên về
quyền con người. Quá trình mở rộng tuyên truyền và giáo dục về quyền con người đã trang
bị kiến thức cơ bản cho cán bộ chính phủ cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Việt Nam cũng đẩy mạnh đào tạo kiến thức nhân quyền cho các cán bộ công chức,
viên chức địa phương nhằm tăng cường nhận thức, năng lực hiệu quả công tác nhân
quyền ở cơ sở. Các nội dung giáo dục về quyền con người đã và đang từng bước được đưa
vào chương trình dạy học các trường phổ thông, lồng ghép vào một số môn học chuyên
sâu trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành Luật.
lOMoARcPSD| 45734214
cấp độ song phương, Việt Nam hiện có cơ chế Đối thoại nhân quyền chính thức với
năm nước/đối tác, bao gồm Mỹ, EU, Thụy Sỹ, Na Uy và Australia. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng nhiều kênh trao đổi không chính thức về các vấn đề quyền con người, tham gia
nhiều diễn đàn liên quan đến các khía cạnh khác nhau của quyền con người. Nhìn chung,
trong các hoạt động hợp tác song phương cũng như tại các diễn đàn đa phương về quyền
con người, Việt Nam luôn thể hiện hình ảnh tích cực, chủ động và có những đóng góp thiết
thực nhằm thúc đẩy nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người
trên tinh thần đối thoại, tăng cường hiểu biết lẫn nhau.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác tham gia thực hiện c cam kết, điều
ước quốc tế về quyền con người vẫn gặp một số khó khăn. Đó khó khăn về nguồn lực,
đặc biệt chuyên gia về quyền con người; khó khăn về thực thi c nghĩa vụ công ước,
trong đó có nghĩa vụ làm báo cáo; khó khăn trong điều phối hoạt động giữa các cơ quan.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam vẫn phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong thực thi các cam
kết và điều ước quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, với những nỗ lực mạnh mẽ của các
ngành, các cấp trong nhiều thập kỷ, hoàn toàn sở để tin tưởng vào việc triển khai
nghiêm túc, đầy đủ các nghĩa vtheo các công ước cam kết quốc tế của Việt Nam về
quyền con người, cũng như tin ởng vào sự đóng góp ngày càng ch cực hơn của Việt
Nam đối với giá trị chung về quyền con người ở phạm vi khu vực và toàn cầu.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
Học phần LQT-08: Thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam
Đề tài tiểu luận:
Phân tích và đánh giá thực tiễn Việt Nam thực hiện
điều ước quốc tế về quyền con người Họ và tên: Nguyễn Thu Hương Mã sinh viên: 29 UD 08007 Lớp: CH29BUD Hà Nội – 2022 lOMoAR cPSD| 45734214
Quyền con người là giá trị chung của nhân loại, là thành quả cuộc đấu tranh của loài
người qua hàng nghìn năm lịch sử. Ngày nay, bảo đảm quyền con người đã trở thành mục
tiêu phấn đấu chung của cộng đồng quốc tế, được phản ánh trong chính sách của các quốc
gia cũng như trong chương trình nghị sự của các tổ chức quốc tế. Với chủ trương nhất quán
tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do của người dân, việc tăng cường
hợp tác quốc tế về quyền con người và nhất là việc tham gia các điều ước, thực hiện các
cam kết quốc tế về quyền con người đã được Việt Nam thực hiện với tinh thần nghiêm túc,
cầu thị và cởi mở, đóng góp đáng kể vào việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho người dân Việt Nam.
1. Việt Nam và những cam kết quốc tế về quyền con người.
Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người ngay vào đầu
những năm 80 của Thế kỷ XX, trong bối cảnh đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, gặp nhiều
khó khăn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Chính vì vậy, việc
gia nhập các Công ước quốc tế về quyền con người của Việt Nam là một minh chứng rõ
nét về nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, thúc đẩy và tôn trọng các quyền
con người theo các chuẩn mực quốc tế.
Chủ trương nhất quán của Việt Nam là không ngừng nỗ lực để bảo đảm sự thụ hưởng
đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của mọi người dân. Thực hiện chủ trương này, Việt Nam
coi trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở bình đẳng,
tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau. Bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay,
hợp tác quốc tế về quyền con người giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế
đang ngày càng được mở rộng. Cho đến nay, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động hội nhập quốc
tế, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế, khu vực, đa
phương và song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc thúc đẩy và bảo vệ quyền
con người. Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG). lOMoAR cPSD| 45734214
Việc tham gia các điều ước quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con
người là một trong những công tác trọng tâm, nhằm hướng đến những chuẩn mực cơ bản
và phổ quát về quyền con người, đưa những quy định chung đã được quốc tế thừa nhận
rộng rãi về các quyền con người vào pháp luật, chính sách của Việt Nam, phù hợp điều
kiện đặc thù của Việt Nam. Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế cơ bản về
quyền con người (7/9 công ước), trong đó chúng ta là quốc gia thứ hai trên thế giới và là
nước châu Á đầu tiên tham gia Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam cũng đã phê chuẩn
Công ước về quyền của người khuyết tật và Công ước chống tra tấn. Việt Nam cũng tham
gia 20 công ước về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 5/8
công ước cơ bản của ILO. Đây là mức độ cam kết rất cao, kể cả so với nhiều quốc gia phát
triển, thể hiện nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn.
Nỗ lực của Việt Nam không chỉ thể hiện qua số lượng các công ước quốc tế về quyền
con người đã tham gia, mà còn ở tinh thần nghiêm túc trong thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ
của một quốc gia thành viên công ước. Cụ thể, đó là nỗ lực nội luật hóa quy định của các
công ước về quyền con người (với hàng chục nghìn văn bản luật và dưới luật phải điều
chỉnh, bổ sung, ban hành mới...); việc triển khai tuyên truyền, phổ biến các công ước quốc
tế về quyền con người trên phạm vi toàn quốc, thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, đồng thời đưa vào chương trình giáo dục; việc nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ
bắt buộc liên quan đến xây dựng và đệ trình báo cáo quốc gia. Việt Nam đã soạn thảo và
đệ trình 16 báo cáo quốc gia lên các ủy ban công ước về nhân quyền, được đánh giá cao về
chất lượng. Việt Nam tích cực thực hiện các cam kết quốc tế khác về quyền con người, nổi
bật là Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền. Việt Nam lần đầu
tiên thực hiện Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát vào tháng 52009, chấp nhận 96/123 khuyến
nghị. Tại phiên Rà soát định kỳ phổ quát lần thứ hai vào tháng 02-2014, Việt Nam chấp
nhận 182/227 khuyến nghị. Việt Nam có thái độ tích cực, nghiêm túc trong việc chuẩn bị
báo cáo, tham gia đối thoại, và tỷ lệ chấp nhận các khuyến nghị như vậy là ở mức cao. Điều
quan trọng hơn là Việt Nam hết sức nghiêm túc trong thực hiện các khuyến nghị đã chấp nhận. lOMoAR cPSD| 45734214
Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Việt Nam cũng nhanh chóng
đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu
tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng là quyền được sống của
người dân; đồng thời thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tác động của
dịch đối với nền kinh tế, duy trì và phục hồi sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, an
sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là những người dễ bị tổn thương.
2. Thực tiễn Việt Nam thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người
Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã thông qua 36 luật, trong đó có nhiều văn bản luật
quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, góp phần cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên như Bộ luật Lao động, Luật Thanh niên, Luật Cư trú, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt
Nam, Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, Luật Thư viện... Các luật này đã góp phần kiến tạo thể chế, khung pháp lý
điều chỉnh trên lĩnh vực kinh tế-xã hội có liên quan trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của người dân.
Thực hiện một số khuyến nghị theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III
của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi, bổ sung một số Luật phù
hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc sửa đổi Luật Trẻ em, cụ thể là định
nghĩa trẻ em là người dưới 18 tuổi, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại
dâm, quy định cụ thể định nghĩa quấy rối tình dục trong Bộ luật Lao động 2019...
Nhiều Chương trình hành động cấp quốc gia được ban hành như Chương trình hỗ trợ
người khuyết tật giai đoạn 2021-2030, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2021-2030, Chương trình bảo vệ trẻ em trên không gian mạng và Chương trình hành động
quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng, chống mua bán người giai
đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, Chương trình phát triển xã hội giai đoạn
2021-2030…, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam
đang tiếp tục triển khai Luật Bình đẳng giới, Luật Người khuyết tật và tích cực nghiên cứu,
sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về các vấn đề này. Thông qua các hoạt động hợp tác lOMoAR cPSD| 45734214
quốc tế về quyền con người, Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò và đóng góp tích cực vào
việc xây dựng giá trị về quyền con người nói chung trên phạm vi khu vực và quốc tế. Điều
này phù hợp với định hướng đối ngoại của Việt Nam khi bước sang một giai đoạn phát
triển mới, không chỉ tham gia tích cực, mà còn là một thành viên có trách nhiệm và chủ
động tham gia vào quá trình định hình, xây dựng các quy định, chuẩn mực chung. Đóng
góp của Việt Nam thể hiện ở cách tiếp cận đề cao đối thoại, hợp tác xây dựng để thu hẹp
khác biệt, tránh đối đầu trong vấn đề quyền con người; đồng thời ủng hộ cách tiếp cận toàn
diện, cân bằng giữa các quyền, hài hòa quyền cá nhân với các quyền tập thể. Cách tiếp cận
này thể hiện rõ trong sự tham gia của Việt Nam ở các cơ chế đa phương về nhân quyền của
Liên hợp quốc và trong khuôn khổ ASEAN. Tính từ thời điểm Việt Nam bắt đầu gia nhập
các công ước quốc tế về quyền con người, đã có khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật
được rà soát, ban hành và sửa đổi, trong đó các quyền con người cơ bản được quy định một
cách cụ thể và toàn diện hơn; hàng loạt những nguyên tắc tiến bộ của luật pháp quốc tế đã
được thể hiện trong các đạo luật quốc gia. Các quyền dân sự, chính trị được nêu trong các
công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã được thể hiện xuyên suốt, thống nhất trong
Hiến pháp và được thể hiện tại nhiều văn bản luật quan trọng.
Cùng với triển khai đồng bộ các văn bản pháp luật về quyền con người, Việt Nam đã
tăng cường và mở rộng chương trình giáo dục, đào tạo về quyền con người cho các cán bộ
của các cơ quan nhà nước. Nhiều hội thảo, hội nghị liên quan đến quyền con người đã được
tổ chức với sự tham gia của đông đảo đại diện nhiều bộ, ngành, các trung tâm nghiên cứu
và cơ sở đào tạo chuyên sâu về quyền con người; mở nhiều lớp giảng dạy thường xuyên về
quyền con người. Quá trình mở rộng tuyên truyền và giáo dục về quyền con người đã trang
bị kiến thức cơ bản cho cán bộ chính phủ cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Việt Nam cũng đẩy mạnh đào tạo kiến thức nhân quyền cho các cán bộ công chức,
viên chức địa phương nhằm tăng cường nhận thức, năng lực và hiệu quả công tác nhân
quyền ở cơ sở. Các nội dung giáo dục về quyền con người đã và đang từng bước được đưa
vào chương trình dạy học ở các trường phổ thông, lồng ghép vào một số môn học chuyên
sâu trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành Luật. lOMoAR cPSD| 45734214
Ở cấp độ song phương, Việt Nam hiện có cơ chế Đối thoại nhân quyền chính thức với
năm nước/đối tác, bao gồm Mỹ, EU, Thụy Sỹ, Na Uy và Australia. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng có nhiều kênh trao đổi không chính thức về các vấn đề quyền con người, tham gia
nhiều diễn đàn liên quan đến các khía cạnh khác nhau của quyền con người. Nhìn chung,
trong các hoạt động hợp tác song phương cũng như tại các diễn đàn đa phương về quyền
con người, Việt Nam luôn thể hiện hình ảnh tích cực, chủ động và có những đóng góp thiết
thực nhằm thúc đẩy nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người
trên tinh thần đối thoại, tăng cường hiểu biết lẫn nhau.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác tham gia và thực hiện các cam kết, điều
ước quốc tế về quyền con người vẫn gặp một số khó khăn. Đó là khó khăn về nguồn lực,
đặc biệt là chuyên gia về quyền con người; khó khăn về thực thi các nghĩa vụ công ước,
trong đó có nghĩa vụ làm báo cáo; khó khăn trong điều phối hoạt động giữa các cơ quan.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam vẫn phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong thực thi các cam
kết và điều ước quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, với những nỗ lực mạnh mẽ của các
ngành, các cấp trong nhiều thập kỷ, hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng vào việc triển khai
nghiêm túc, đầy đủ các nghĩa vụ theo các công ước và cam kết quốc tế của Việt Nam về
quyền con người, cũng như tin tưởng vào sự đóng góp ngày càng tích cực hơn của Việt
Nam đối với giá trị chung về quyền con người ở phạm vi khu vực và toàn cầu.