



















Preview text:
TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
QUY LUẬT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
RÚT RA Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY. Lớp: HIS 362 H
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Kim Oanh Thành viên nhóm 1. Trần Minh Hiếu 2005 2. Phan Ngô Huy Hoàng 1491 3. Nguyễn Quỳnh Hương 1380 4. Hồ Thị Ngọc Linh 8908
5. Huỳnh Thị Xuân Quỳnh 2809 6. Trần Thị Dạ Thảo 2652 7. Nguyễn Xuân Trung 0671
Đà Nẵng, tháng 1 năm 2024. Mục Lục Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài.
- Đề tài "Quy luật hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam" được chọn vì
nó liên quan đến lịch sử và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một đề tài quan
trọng để hiểu về quá trình hình thành, phát triển và vai trò của Đảng trong lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu. -
Mục đích nghiên cứu của đề tài "Quy luật hình thành và phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam" là để hiểu về quy luật và quá trình hình thành, phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về tư tưởng chính trị, lịch sử, lãnh đạo, chiến
lược và chính sách, cũng như tổ chức và cơ cấu của Đảng. -
Nghiên cứu về quy luật hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò và đóng góp của Đảng trong quá trình xây dựng và bảo vệ
đất nước. Nó cũng giúp chúng ta hiểu về những yếu tố quan trọng như tư tưởng chính trị,
lãnh đạo, chiến lược và chính sách mà Đảng đã sử dụng để đạt được những thành tựu quan
trọng trong lịch sử Việt Nam. -
Nghiên cứu này cũng có thể giúp chúng ta rút ra những bài học quan trọng từ quá
trình hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó áp dụng vào việc xây
dựng và phát triển đất nước trong tương lai.
3. Phương pháp nghiên cứu -
B1: Phân tích lịch sử: Nghiên cứu lịch sử là một phương pháp quan trọng để hiểu
về quá trình hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân tích các tài liệu
lịch sử, các bài viết, sách vở và các nguồn tư liệu khác có thể giúp xác định các sự kiện
quan trọng, vai trò của các nhân vật lãnh đạo và những thay đổi trong tư tưởng và chính sách của Đảng. -
B2: Nghiên cứu tư liệu: Nghiên cứu các tư liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt
Nam, bao gồm các văn kiện chính thức, bài viết, sách vở và các nguồn tư liệu khác, có thể
giúp hiểu rõ hơn về tư tưởng chính trị, chiến lược và chính sách của Đảng. -
B3: So sánh và phân tích: So sánh và phân tích các yếu tố chung và khác biệt giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam và các Đảng Cộng sản khác trên thế giới có thể giúp hiểu rõ hơn
về đặc thù và đóng góp của Đảng trong bối cảnh Việt Nam. -
B4: Nghiên cứu đánh giá: Nghiên cứu đánh giá các thành tựu và thách thức mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đối mặt trong quá trình hình thành và phát triển có thể cung
cấp cái nhìn tổng quan về quy luật và quá trình này.
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
I.1. Sự tồn tại của học thuyết Mác - Lênin.
- Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa nhân loại, song tư tưởng
HồChí Minh chỉ có được sự chuyển biến về chất, khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò quyết định sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì:
+ Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống
dân tộc, tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận diện chính xác bản chất của kẻ thù,
từ đó giúp Người vạch ra được đường lối cứu nước đúng đắn.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận thức được quy luật vận động của lịch
sử và hàng loạt các vấn đề về phương pháp cách mạng.
- Con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin có đặc điểm:
+ Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc chắn, một
năng lực trí tuệ sắc sảo. Trong mười năm đầu bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã hoàn
thiện cho mình một vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn thực tiễn phong phú mà không một
nhà cách mạng trẻ tuổi nào có thể so sánh được.
+ Cái bản lĩnh đó đã giúp Hồ Chí Minh nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, sáng tạo khi
tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để không rơi vào sao chép, giáo điều, mà biết
tiếp thu, vận dụng có chọn lọc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc, từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Phương pháp tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là nắm cái tinh thần,
cái bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của
chủ nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở chủ yếu nhất, chủ nghĩa yêu nước
là cội nguồn sâu xa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
yêu nước có quan hệ mật thiết với nhau. Yêu nước chân chính như Hồ Chí Minh, chắc
chắn sẽ đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, và khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, thì Người là người yêu nước chân chính nhất và chủ nghĩa yêu nước
đã được nâng tầm về chất. Vì vậy, ai phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng là phủ nhận
tư tưởng Hồ Chí Minh từ gốc.
Mặc dù Hồ Chí Minh không nói cụ thể về nguồn gốc hình thành tư tưởng của mình,
song ta có thể tham khảo một số nhận xét của chính Người, cũng như của những người đã
từng sống và làm việc với Hồ Chí Minh:
Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân, Cơ đốc giáo có ưu điểm
là lòng nhân ái, chủ nghĩa Mác - Lênin có ưu điểm là phép biện chứng trong công việc,
chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với Việt Nam. Khổng
Tử, Jesuis, Mác, Tôn Dật Tiên có ưu điểm chung là nghĩ về nhân loại, mưu cầu hạnh phúc
cho mọi người. Nếu như hôm nay còn sống trên đời này, họ sẽ họp lại với nhau... Tôi, Hồ
Chí Minh nguyện làm học trò nhỏ của họ.
Một học giả Pháp, chuyên gia nghiên cứu Hồ Chí Minh đã viết: Ở Hồ Chí Minh, mỗi
người đều tìm thấy ở Người biểu hiện của một nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được
kính yêu nhất... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh, với sự kết hợp đức khôn ngoan
của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác và nhiệt tình cách mạng của Lênin.
I.2. Phong trào công nhân
Trước hết về mặt đặc điểm: giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong chương trình khai
thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp và phát triển mạnh mẽ trong chương trình
khai thác thuộc địa lần thứ hai. Ngoài những đặc điểm riêng của giai cấp công nhân thế
giới( đều chịu sự áp bức bóc lột nặng nề; đại diện cho phương thức sản suất tiến bộ; và
sống tập chung, có tinh thần kỉ luật cao), thì giai cấp công nhân Việt Nam còn có những
đặc điểm riêng (chịu ba tầng áp bức bóc lột; xuất phát từ nông dân nên dễ hình thành liên
minh công nông; được kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất của cha anh; và ngay từ
khi ra đời đã được tiếp thu với chủ nghĩa Mác –Lênin chân chính). Ngay từ khi ra đời giai
cấp công nhân Việt Nam đã nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất. Tiếp sang những năm
20 của thế kỉ XX, với sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, cùng với đó là
phong trào “ vô sản hóa” của Hội đã thúc đẩy phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ,
tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng: từ năm 1919 –1925 có khoảng 25 cuộc đấu tranh
của công nhân; từ năm 1926 –1927 có khoảng 27 cuộc đấu tranh của công nhân; từ năm
1928 –1929 có khoảng hơn 40 cuộc đấu tranh của công nhân.
Xét về mặt ưu điểm: Các phong trào do giai cấp công nhân lãnh đạo đã cho thấy sự
trưởng thành vượt bậc về mặt tư tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam, phong trào đã
chĩa mũi nhọn vào thực dân Pháp thể hiện rõ tinh thần yêu nước cũng như ý trí đấu tranh
bất khuất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Nhược điểm, các cuộc đấu tranh này còn mang tính chất lẻ tẻ, cục bộ vùng miền, chưa
có sự liên minh liên kết giữa các xí nghiệp, trình độ đấu tranh ban đầu còn mang tính chất
tự phát. Giai cấp công nhân Việt Nam mới được hình thành, còn mỏng về số lượng, phong
trào còn yếu lại chưa có kinh nghiệm trong đấu tranh.
I.3. Phong trào yêu nước
Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với tinh thần
quật cường bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục, rộng khắp.
Đến năm 1884, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng, nhưng một bộ
phận phong kiến yêu nước đã cùng với nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang chống
Pháp. Đó là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng
(1885-1896). Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình
(Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)... diễn ra sôi nổi và thể hiện tinh
thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Nhưng ngọn cờ phong kiến
lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp
nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa. Cuộc
khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm dứt vai trò lãnh đạo
của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái và Vua Duy Tân tiếp tục đấu tranh chống Pháp, trong đó
có khởi nghĩa của Vua Duy Tân (5-1916).
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung du phía
Bắc, phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông dân
Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh
kiên cường chống thực dân Pháp. Nhưng phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng
“cốt cách phong kiến”, không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác động
của trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu hướng
cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt
Nam Quốc dân Đảng (12-1927 - 2-1930) đã tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc Kỳ,
nhưng tất cả đều không thành công.
Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo: với chủ trương tập hợp lực
lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật Bản,
phong trào theo xu hướng này tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản
học tập (gọi là phong trào “Đông Du”). Đến năm 1908, Chính phủ Nhật Bản câu kết với
thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh Việt Nam và những người đứng đầu. Sau khi phong
trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) Trung Quốc, năm
1912 Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ là vũ trang đánh
đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước cộng hòa dân quốc Việt Nam.
Nhưng chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội lại thiếu rõ ràng. Cuối năm 1913, Phan
Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc cho tới đầu năm 1917 và sau này bị
quản chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ảnh hưởng xu hướng bạo động của tổ chức
Việt Nam Quang phục hội đối với phong trào yêu nước Việt Nam đến đây chấm dứt.
Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những người cùng chí
hướng muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động như Phan
Bội Châu, mà chủ trương cải cách đất nước. Phan Châu Trinh cho rằng “bất bạo động, bạo
động tắc tử”; phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ quân chủ,
thực hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện được chủ
trương ấy, Phan Châu Trinh đã đề nghị Nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Đó
chính là sự hạn chế trong xu hướng cải cách để cứu nước, vì Phan Châu Trinh đã “đặt vào
lòng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử hoàn sinh cho nước Nam,... Cụ không rõ bản
chất của đế quốc thực dân” . Do vậy, khi phong trào Duy Tân lan rộng khắp cả Trung Kỳ
và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp đã đàn áp dã
man, giết hại nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biểu tình. Nhiều sĩ phu bị bắt, bị đày đi
Côn Đảo, trong đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn... Phong
trào chống thuế ở Trung Kỳ bị thực dân Pháp dập tắt, cùng với sự kiện tháng 12-1907 thực
dân Pháp ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục phản ánh sự kết thúc xu hướng
cải cách trong phong trào cứu nước của Việt Nam.
Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng: Khi thực dân Pháp đẩy mạnh khai
thác thuộc địa lần thứ hai, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
càng trở nên gay gắt, các giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội Việt Nam đều bước lên vũ đài
chính trị. Trong đó, hoạt động có ảnh hưởng rộng và thu hút nhiều học sinh, sinh viên yêu
nước ở Bắc Kỳ là tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Trên
cơ sở các tổ chức yêu nước của tiểu tư sản trí thức, Việt Nam Quốc dân Đảng được chính
thức thành lập tháng 12-1927 tại Bắc Kỳ.
Mục đích của Việt Nam Quốc dân Đảng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành
độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ trang
nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân và lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên....
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở một số tỉnh, chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái (2-1930) tuy oanh
liệt nhưng nhanh chóng bị thất bại. Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái của tổ chức Việt
Nam Quốc dân Đảng đã thể hiện là “...một cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động
non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc đầu lên nổi. Khẩu hiệu “không thành công thì
thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời
cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất
khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong kiến,
ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp.
Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu giành độc lập
cho dân tộc. Tuy nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường
tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại” . Nguyên nhân thất bại
của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những
mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác
ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đều thất
bại, nhưng đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp
thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải
phóng dân tộc theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu
nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước
đúng đắn để giải phóng dân tộc.
I.4. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản -
Sau nhiều lần đề nghị với lãnh đạo Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản,
tháng11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với danh nghĩa công khai là cán bộ phiên
dịch trong phái bộ Bô-rô-din - cố vấn chính trị của Quốc tế Cộng sản bên cạnh chính phủ
Tôn Trung Sơn. Ở Quảng Châu khi đó đã có nhóm Tâm tâm xã - tổ chức yêu nước của
những thanh niên Việt Nam cấp tiến trong Việt Nam quang phục hội thành lập từ năm
1923. Tiếng bom quả cảm của Phạm Hồng Thái - thành viên của Tâm tâm xã, mưu sát toàn
quyền Đông Dương Mec-lanh ngày 19/6/1924 tại Sa diện vẫn còn âm vang trong lòng
những thanh niên Việt Nam yêu nước. -
Từ Moskva, khi đó Nguyễn Ái Quốc đã thấy đây là một “cánh chim báo tin vui”.
Cácthành viên tiêu biểu của Tâm tâm xã là Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong,
Phạm Hồng Thái… Đây là một nhóm thanh niên đầy nhiệt huyết, sẵn sàng hy sinh vì Tổ
quốc nhưng con đường cứu nước của họ chưa xác định được rõ ràng. Ngay sau khi đến
Quảng Châu (11/11/1924), Nguyễn Ái Quốc đã chọn những hạt nhân đầu tiên cho cách
mạng Việt Nam là những thành viên trung kiên của nhóm Tâm tâm xã trên sự tin tưởng
vào bầu nhiệt huyết yêu nước của thế hệ trẻ. Từ những hạt nhân đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc
đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (1925), sáng lập báo Thanh niên tờ báo
đầu tiên của cách mạng Việt Nam (21/6/1925), và tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ.
Nguyễn Ái Quốc vừa là người tổ chức lớp học, vừa biên soạn tài liệu giảng dạy, vừa là
giáo viên trực tiếp truyền đạt những nội dung học tập. Trong những năm 1924-1927, Người
còn đảm nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ của một chiến sĩ quốc tế do Quốc tế Cộng sản giao phó. -
Sự kiện này cũng ghi nhận sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ Cộng sản ngay
từbuổi đầu tổ chức còn non trẻ. Những bất đồng giữa những người Cộng sản đã được dẹp
bỏ để tất cả cùng hướng tới mục tiêu chung cao cả là đấu tranh giành độc lập cho dân tộc,
giành hạnh phúc cho nhân dân. Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng thành công cũng ghi
nhận cống hiến quan trọng của Nguyễn Ái Quốc khi Người quyết tâm và sáng suốt xiết
chặt lại đội ngũ các chiến sĩ Cộng sản Việt Nam trên đường đấu tranh từ những bước gian
truân ban đầu. Sau 93 năm, chúng ta càng thấy rõ hơn sự năng động, sáng tạo, nhạy bén,
kịp thời và vai trò to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong sự kiện mang tính bước ngoặt
của phong trào cách mạng Việt Nam và của lịch sử dân tộc nói chung. -
Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản; 2 đại biểu
củaĐông Dương Cộng sản Đảng; 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo luận
đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm Năm điểm lớn, với nội dung:Nhận được tin về sự chia
rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc.
Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc. Trong Báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản (18/2/1930). Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày 6-1… Các
đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”. Bao gồm các nội dung cuộc họp như: 1.
Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
Cộng sảnở Đông Dương. 2.
Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. 3.
Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng. 4.
Định kế hoạnh thực hiện việc thống nhất trong nước. 5.
Cử một Ban Trung Ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu
chi bộcộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”. Hội nghị nhất trí với 5 điểm lớn theo đề
nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương
Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do
chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã quy tụ 3 tổ chức Cộng sản thành
một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị
đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách
mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. II.
Sự phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam
II.1.Giai đoạn năm 1930 – 1945
Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động
bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức
của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên
lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội
thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong
việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh)
soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ,
giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Nguyên nhân đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam là để thể hiện mục tiêu cách mạng
dân tộc, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam. Đổi tên cũng nhằm
thể hiện sự tôn trọng và tuân thủ chủ nghĩa Marx-Lenin, cũng như mục tiêu của Đảng trong
việc thực hiện tiết kiệm, tích cực đấu tranh chống lãng phí và tham nhũng. Năm 1930, sau
cuộc hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản tại Cu Long (Hồng Kông, Trung Quốc), Đảng
Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập và chọn tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thể hiện sự thống nhất và mục tiêu cách mạng của Đảng.
Ngoài ra, việc đổi tên cũng phản ánh sự tôn trọng và sự tăng cường vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị Việt Nam, cũng như vai trò của Đảng trong
phong trào cách mạng và sự phát triển của đất nước.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ I(1) có những nhiệm vụ rất quan trọng trong
việc khôi phục Đảng Cộng sản tại Việt nam từ trung ương đến cơ sở bao gồm củng cố và
phát triển Đảng cả về lượng và chất, đẩu mạnh cuộc vận động quần chúng và thu phục, mở
rộng tuyên truyền vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính ...
Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm
vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân
và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong
Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập
trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai
cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt
lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân
quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” thực hiện giải quyết: 1.
Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho
đế quốcvà phản bội dân tộc. 2.
Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.
Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4.
Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.
Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh
xưởng, cácsản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.
Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn
đế quốcthực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.
Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội
dân tộc.Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.
Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9.
Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.
Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.
Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu
phiếu,những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều
được quyền bầu cử, ứng cử. 12.
Phổ thông giáo dục cường bách. 13.
Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.
Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao
Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai
đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu
của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và
Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.
Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo
Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt
là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây
đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc như Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc,
Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các
Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương
thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao
Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung
của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.
Trong giai đoạn 1930 - 1945 này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành các cuộc hội
nghị và hiệp nhất các tổ chức Cộng sản khác. Mục tiêu của việc hiệp nhất là tạo ra một sức
mạnh thống nhất và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc cách mạng.
Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự
khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới
tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích
để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…
Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân
ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
II.2.Giai đoạn 1945-1975
Trên cơ sở nắm bắt tình hình trong nước và quốc tế, Đảng đã dự báo đúng thời cơ lịch
sử và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để lãnh đạo Nhân dân tiến hành khởi nghĩa. Với
nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ
ngày 14 đến ngày 28-8-1945), Nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ
của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 02-9-1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự
do, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt
những khó khăn, thách thức nghiêm trọng: nền kinh tế kiệt quệ, ngân sách quốc gia trống
rỗng, nạn đói tiếp tục đe dọa; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để
lại nặng nề; trong khi đó, ngoại xâm và nội phản câu kết với nhau để cùng chống phá chính
quyền cách mạng non trẻ. Vận mệnh của Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trước yêu cầu mới của lịch sử, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những
chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh, quốc phòng... Cụ thể là: -
Lãnh đạo xây dựng chế độ dân chủ nhân dân: tiến hành bầu cử Quốc hội khoá I
(0601-1946), thành lập Chính phủ chính thức (02- 3-1946) và thông qua Hiến pháp của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (09-11-1946). -
Phát động phong trào chống “giặc đói”, “giặc dốt”, xây dựng nền văn hoá mới,
xoábỏ tàn dư văn hoá nô dịch của thực dân. -
Lãnh đạo Nhân dân Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ngay từ
thờiđiểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai (23-9-1945). -
Tiến hành đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ
đoạncủa các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã thực hiện sách lược lợi dụng
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế cùng một lúc đương đầu
với nhiều kẻ thù. Đó là:
+ Thực hiện sách lược nhân nhượng, hòa hoãn với quân đội Trung Hoa Dân quốc và tay
sai của chúng ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (từ tháng 09- 1945 đến tháng 03-1946).
+ Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp để đẩy nhanh quân đội Trung
Hoa Dân quốc về nước, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ tháng 31946 đến tháng 12-1946).
Với đường lối đúng đắn, sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách
lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó
khăn, nguy hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng, chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước
ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương công bố chỉ thị toàn dân
kháng chiến và cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Thực hiện chủ trương kháng chiến của Đảng và đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên với quyết tâm: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã tổ chức , lãnh đạo Nhân dân vượt qua mọi khó
khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến 09 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II(2) của Đảng là Đại hội Đảng được tổ chức lần đầu
tiên ở trong nước trong điều kiện mới: Sự hình thành và lớn mạnh của các nước xã hội chủ
nghĩa, nhất là sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã làm thay đổi căn bản
tương quan lực lượng trên trường quốc tế có lợi cho hòa bình và cách mạng. Cuộc kháng
chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Lợi
dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông
Dương, vừa giúp đỡ Pháp, vừa tìm cơ hội để hất cẳng Pháp. Thực tiễn của cuộc kháng
chiến đang đòi hỏi Đảng phải ra công khai để lãnh đạo kháng chiến.
Theo sáng kiến của những người Cộng sản Việt Nam được những người Cộng sản Lào
và Campuchia nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công
nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một Đảng riêng. Ở Việt
Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Sau diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo
chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh; Báo cáo về tổ chức và Điều
lệ Đảng của Lê Văn Lương...
Đại hội đã thông qua Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ xác định rõ mục đích, tôn chỉ của
Đảng và nhấn mạnh Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân
dân lao động Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng vàv kim
chỉ nam và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một Đảng vô sản kiểu mới... Đây là một bước
tiến mới trong công tác xây dựng Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự
khuyết, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy
viên dự khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh
được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Chiến thắng Điện Biên Phủ (từ ngày 13-3-1954 đến ngày 07-5-1954) đã đi vào lịch sử
dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ
hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng
lợi này, Hồ Chủ tịch viết: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là thắng lợi của các lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội thế giới”...
Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý: trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc
dù nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của
chính Đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến
thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước
vào thời kỳ mới với đặc điểm: đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính
trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt
đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa
đế quốc. Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là
phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành
căn cứ địa vững chắc của cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ
xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một
Đảng thống nhất lãnh đạo Nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược.
Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự
phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc
chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân
dân miền Bắc đã kiên cường trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành tựu to
lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền Nam... Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang
bị; hàng vạn thanh niên nam nữ hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc
đã dốc sức vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội
chủ nghĩa, đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả nước, xứng
đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III(3) của Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ;” Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu
tranh hào bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới,
gồm những vấn đề lớn sau:
Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
+ Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
+ Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thựuc hiện thống
nhất nước nhà, hoành thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Đại hội còn xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở
mỗi miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với
sự nghiệp giải phóng ở miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đối với đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
+ Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển
tưu bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là
một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai
con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh
tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
+ Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật
thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn, thử nghiệm mọi chiến lược chiến tranh, sử dụng các
loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Quy mô, tính chất cũng như mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh mà Nhân dân ta phải
đương đầu chịu đựng chưa từng có trong lịch sử.
Song, Nhân dân miền Nam nói riêng và Nhân dân Việt Nam nói chung đã kiên cường
vượt qua gian khổ hy sinh, kiên quyết đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ:
+ Chiến lược Chiến tranh điển hình của chủ nghĩa thực dân mới (1954 - 1960).
+ Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965).
+ Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968).
+ Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969 - 1975).
Với những thắng lợi đó, miền Nam đã xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”,
sát cánh cùng đồng bào miền Bắc đánh bại mọi âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp
phần trực tiếp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trải qua 21 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân cả nước đã chiến đấu kiên cường
anh dũng với sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy
mùa xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. “Năm tháng sẽ trôi
qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước sẽ mãi mãi được
ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc
tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả
nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
II.3.Giai đoạn 1975 đến nay
Ngay sau khi giải phóng miền Nam, mặc dù Nhân dân đã làm chủ toàn bộ đất nước,
nhưng về mặt nhà nước thì vẫn còn hai Chính phủ, hai tổ chức mặt trận và các đoàn thể
quần chúng ở hai miền Nam - Bắc. Đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Nhân dân cả nước,
đáp ứng quy luật khách quan của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam, Đảng đã lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước bỏ phiếu (bầu Quốc hội chung của cả nước với 492 đại
biểu đủ các thành phần Quốc hội khoá VI). Ngay sau đó, các tổ chức đoàn thể cách mạng
cũng nhanh chóng được thống nhất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV(4) của Đảng đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước
trong giai đoạn mới và đường lối xây dựng kinh tế - xã hội. Đại hội đã bổ sung Điều lệ
Đảng và đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân cả nước thực hiện kế
hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980) và tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V(5) của Đảng đã
xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã
chỉ ra chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ bao gồm 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến
năm 1990; đồng thời, chỉ ra những nhiệm vụ bức thiết trước mắt về kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, Nhân dân cả nước đã hăng
hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định sản xuất và đời
sống. Đồng thời, tập trung thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc
biên cương của Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự - an toàn xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được trong hơn 10 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1986) còn thấp so với yêu cầu đặt ra và so với
tiềm năng của đất nước; nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, phân phối lưu thông rối
ren, lạm phát “phi mã”, tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; niềm tin của Nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng giảm sút.
Trước những khó khăn, thách thức đó, các địa phương, cơ sở và các tầng lớp nhân dân
đã có những tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách làm. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn, Trung ương Đảng đã có những bước đổi mới từng phần nhằm giải
đáp những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những thành
tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những yếu kém trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, từ đó phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ
quan, duy ý chí trong lãnh đạo phát triển kinh tế. Với tinh thần trách nhiệm vì nước, vì dân,
Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và đối
ngoại, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong
đó, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội chỉ rõ Đảng phải
đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới
đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
Đại hội VI(6) của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện bước trưởng thành mới
của Đảng, “đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thành công của Đại hội là sức mạnh mới,
là cơ sở hết sức quan trọng để tăng cường hơn nữa sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và toàn dân ta”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII(7) của Đảng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường tác động sâu sắc đến công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta: các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lâm
vào khủng hoảng toàn diện; các thế lực thù địch ra sức chống phá quyết liệt từ nhiều phí
nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực; Việt Nam sau 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI đã có những bước khởi sắc, tuy nhiên chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội…
Đại hội VII của Đảng xác định: “mục tiêu tổng quát của 05 năm tới vượt qua khó khăn
thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu
cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”.
Đặc biệt, Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991-1995. Đại hội đưa ra
quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây
dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội VII của Đảng, đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, nhất là sự khủng
hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa những năm 1989 - 1991. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII(8) của Đảng đã nhận định: công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc. Đại hội quyết định chuyển đất nước sang thời kỳ mới:
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” và đề ra nhiệm vụ kinh tế - xã
hội từ năm 1996 đến năm 2000.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX(9) của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996 - 2000, toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan
trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: thực tiễn phong phú và những
thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời
giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng
và Nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, đề ra mục tiêu sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X(10) của Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều vấn đề về
lý luận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặt ra nhiệm
vụ tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Với chủ đề: “Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển”, Đại hội X của Đảng đã đánh dấu bước phát triển về
đường lối, chính sách, về tổ chức và nhân sự đáp ứng yêu cầu của đất nước trong xu thế hội nhập thế giới.
Đại hội XI(11) của Đảng đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991,
10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2011 theo Nghị quyết Đại hội X. Đặc biệt, một trong những
đóng góp quan trọng có ý nghĩa lịch sử của Đại hội XI là đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Trên cơ sở kế thừa những nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011 đã có nhiều điểm mới như: bổ sung thành tựu của cách mạng
Việt Nam sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung thêm 02 đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang xây dựng; đồng thời, có sự điều chỉnh trong
hầu hết các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa…
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII(12) của Đảng đã tiến hành tổng kết 30 năm đổi
mới, khẳng định: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự
nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước
và Nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng là quá trình cải biến sâu sắc
và toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn đảng, toàn dân và toàn quân
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành ựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập
trung giải quyết khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từng bước hình thành và phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh
được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống Nhân
dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.
Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan
hệ dối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát
triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn,
sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội XII cũng cho rằng chúng ta còn
nhiều hạn chế, khuyết điểm:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số
vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa
học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận