Tiểu luận "Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào đổi mới kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam ở nước ta hiện nay"
Tiểu luận "Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào đổi mới kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam ở nước ta hiện nay"
Môn: Triết học Mác - Lênin (AS5900)
Trường: Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN ĐỀ TÀI:
SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LỚP: L10 – NHÓM: 04 – HK 221
NGÀY NỘP: 21/11/2022
Giảng viên hướng dẫn : GVC. TS. LÊ ĐỨC SƠN
Sinh viên thực hiện:
1. Phạm Trần Phúc Hậu, 2113328
2. Trần Thị Tố Hảo, 2113305
3. Lê Thị Thúy An, 2112732
4. Nguyễn Minh Huệ, 2113448
5. Bùi Nguyễn Tú Như, 2114334
Thành phố Hồ Chí Minh – 2022
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT
Ký hiệu chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ 1 CNDV Chủ nghĩa duy vật 2 XHCN Xã hội chủ nghĩa 3 ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam 4 LLSX Lực lượng sản xuất 5 CNH-HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................. 2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 2
5.1. Nghiên cứu lý luận ......................................................................................... 2
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp .................................................................. 3
6. Bố cục đề tài ........................................................................................................... 3
NỘI DUNG ........................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ .......................................................................................... 4
1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ........................................... 4
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức ..................................................................................................... 4
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức ...................................................................................... 5
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức. ............................................................................... 6
1.2. Ý nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với sự phát triển
kinh tế Việt Nam hiện nay ............................................................................. 9
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 12
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM HIỆN NAY .................................................................................................... 14
2.1. Khái quát chung về công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng Cộng Sản Việt Nam
lãnh đạo ........................................................................................................ 14
2.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào đổi mới kinh tế hiện nay ........................................................................ 19
2.3. Bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự vận dụng mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào đổi mới kinh tế ở nước ta
hiện nay ........................................................................................................ 26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 30
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 33 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các nước
Xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách, đổi
mới Chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản là đòi hỏi tất yếu trong
suốt quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về Chủ nghĩa xã
hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải, tìm con đường phát triển
thích hợp với bối cảnh của thời đại.
Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người dân,
Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại. Quá trình này
đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng.
Cùng với những thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới kinh tế nước ta hiện nay
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế trong cả phương diện kỹ thuật và xã hội. Để
thực hiện tốt công tác này, chỉ vận dụng những hiểu biết trong các lĩnh vực khoa học
chuyên ngành là chưa đủ mà cần thiết phải nắm vững và vận dụng được các tri thức
triết học vào thực tiễn. Bởi lẽ, triết học là khoa học về những quy luật vận động, phát
triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hay nói cách khác, hơi thở của triết
học tồn tại trong tất cả các vấn đề của đời sống, bao gồm cả vấn đề đang được đề cập
đến trong phạm vi đề tài này. Trong đó, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức là “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại”. Chính
vì vậy, việc hiểu, thừa nhận và vận dụng một cách đúng đắn triết học nói chung và
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức nói riêng vào đổi mới kinh tế sẽ góp
phần phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế còn đang tồn tại.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phạm
trù vật chất và phạm trù ý thức, cùng với mối quan hệ biện chứng giữa chúng theo 1
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó tập trung phân tích, làm rõ thực trạng
nền kinh tế đất nước và nghiên cứu sự vận dụng của mối quan hệ biện chứng này
vào đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, đề tài phải thực hiện được 3 nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản xoay quanh các phạm
trù vật chất, phạm trù ý thức và chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa chúng dưới góc
nhìn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phân tích dưới góc độ chuyên sâu những khái niệm,
quy luật, bản chất có liên quan, từ đó chỉ ra được ý nghĩa của mối quan hệ trên về mặt phương pháp luận.
Thứ hai, làm rõ được thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Giải thích
dưới góc độ chuyên môn những khái niệm, các vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế, các phương pháp đổi mới, từ đó chỉ ra tầm quan trọng của công cuộc đổi
mới kinh tế đối với sự phát triển chung của đất nước.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích về mặt lý luận, đề tài chỉ ra tầm quan trọng của việc
vận dụng Triết học nói chung cũng như mối quan hệ biện chứng giữa vật chất - ý
thức nói riêng vào thực tiễn, mà cụ thể ở đây là vào công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận của triết học Mác-Lênin và nền lịch sử nước nhà, đối tượng
tập trung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù
vật chất – ý thức trong đổi mới kinh tế và đề tài này chỉ giới hạn trong phạm vi lĩnh
vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu giáo trình, các tài liệu Triết học về mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức, và các tài liệu bàn luận về việc vận dụng mối quan hệ này vào thực
tiễn. Nghiên cứu các tài liệu khoa học về đổi mới kinh tế của nước ta. 2
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Căn cứ vào những khía cạnh khác nhau, đề tài phân tích từ cái riêng để chỉ ra
cái chung, chỉ ra bản chất của vấn đề đang được xem xét, từ đó tổng hợp những cái
chung, cái đặc thù của đối tượng nghiên cứu và đưa ra hướng nhận thức chính xác
và đầy đủ bản chất của vấn đề.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài bao gồm 2 chương:
+ Chương 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức với đổi mới kinh tế.
+ Chương 2: Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào đổi
mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. 3 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ
1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học phân
thành hai trường phái lớn: Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy
tâm có 2 hình thức là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan đều đứng trên lập trường triết học duy
tâm. Tức là quan niệm rằng ý thức, tinh thần là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai.
Ý thức tinh thần là cái có trước, là nguồn gốc và quyết định vật chất; vật chất là cái
có sau sẽ tác động ngược trở lại ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ định sự tồn tại của thế giới khách quan, khẳng
định mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể
nhận thức là chính con người tuyệt đối hoá vai trò tích cực của chủ thể trong các lĩnh
vực hoạt động khác nhau. Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng
thế giới bên ngoài (hiện thực) chỉ là cảm giác, tri giác, biểu tượng, ý thức của cá nhân,
của chủ thể và không tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể. Ví dụ: Các đại diện cổ điển
của Chủ nghĩa duy tâm chủ quan là Beckoly (G. Berkeley), Hium (D. Hume), Fichtơ
(J.G Fichte) và ngay cả Kantơ (I. Kant) cũng phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính
thử hai của vật chất nhưng theo họ, cái ý thức đó không phải là ý thức của chính con
người mà là ý thức của các lực lượng bên ngoài con người. Nó là thứ tinh thần khách
quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này
thường mang những tên gọi khác nhau như "ý niệm", "ý niệm tuyệt đối", như "tinh
thần tuyệt đối", "lí tính thế giới", …v…v… Về thực chất, "tinh thần tuyệt đối" chỉ là
khái niệm được tuyệt đối hoá, tách khỏi vật chất đem đối lập với vật chất. Ví dụ:
Platôn coi những khái niệm chung là vĩnh viễn tồn tại trong "thế giới ý niệm" còn các 4
sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất chỉ là những cái bóng mờ nhạt của ý niệm
ấy. Hêghen cũng cho rằng "ý niệm tuyệt đối" tồn tại và phát triển đến mức độ nhất
định thì sản sinh ra thế giới vật chất, và xã hội loài người chỉ là những "tồn tại khác"
của "ý niệm tuyệt đối". Chủ nghĩa duy tâm khách quan thưởng kết hợp với thần học
và là cơ sở triết học của các tôn giáo.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Quan điểm từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự tồn tại
khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên. Lập
trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy vật trước C.Mác đi đến một quan
niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này. Tuy vậy, cùng với những tiến bộ của lịch
sử, quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật chất cũng từng bước phát triển theo
hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hóa khoa học hơn.
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại. Thời Cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp – La Mã,
Trung Quốc, Ấn Độc đã xuất hiện CNDV với quan niệm chất phác về giới tự nhiên,
về vật chất. Nhìn chung, các nhà duy vật thời Cổ đại quy về vật chất về một hay một
vài dạng cụ thể của nó và xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về
những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài, chẳng hạn, nước
(Thales), lửa (Heraclitus), không khí (Anaximenes); đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn
Độ), Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (Ngũ hành – Trung Quốc). Một số trường hợp đặc biệt,
họ quy vật chất (không chỉ vật chất mà thế giới) về những cái trừu tượng như Không
(Phật giáo), Đạo (Lãn Trang).
Một bước tiến mới trên con đường xây dựng quan niệm duy vật về vật chất
được thể hiện trong quan niệm của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximander. Ông
cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô
định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn, đó là Apeiron là một cái gì đó ở giữa nước và không
khí thì ông vẫn chưa vượt khỏi hạn chế của các quan niệm trước đó về vật chất.
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật
chất của hai nhà triết học Hi Lạp cổ đại là Lơxíp (khoảng 500 – 440 trước CN) và
Đêmôcrit (khoảng 427 – 374 trước CN). Cả hai ông đều cho rằng, vật chất là nguyên 5
tử. Nguyên tử theo họ là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác nhau
về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về hình dạng, tư thế, trật tự sắp
xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật. Theo Thuyết Nguyên tử thì vật chất theo
nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với những vật thể mà con người
có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà là một lớp các phần tử hữu hình rộng
rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng. Quan niệm này không những thể hiện một
bước tiến khá xa của các nhà triết học duy vật trong quá trình tìm kiếm một định nghĩa
đúng đắn về vật chất mà còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học tài tình của con
người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.
Đến thế kỷ XVII – XVIII, chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa duy
vật siêu hình, máy móc. Chủ nghĩa duy vật siêu hình thường tuyệt đối hóa yếu tố vật
chất, nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra và quyết định ý thức, phủ nhận
tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo và vai
trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, những nhà duy vật siêu hình
hiểu không đúng phạm trù thực tiễn, coi thường thực tiễn và vai trò của nó đối với con người.
Song, do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên nhìn chung các
nhà triết học duy vật hời kỳ cận đại đã không đưa ra được những khái quát triết học
đúng đắn. Họ thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật cơ học
như những chân lý không thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo
những chuẩn mực thuần túy cơ học; xem vật chất, vận động, không gian, thời gian
như những thực thể khác nhau, không có mối liên hệ nội tại với nhau… Cũng như
một số nhà triết học thời kỳ này cố gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử
( chẳng hạn như Đềcáctơ, Cantơ,…) nhưng không nhiều và không thể làm thay đổi
căn bản cái nhìn cơ học về thế giới, không đủ đưa đến một định nghĩa hoàn toàn mới
về phạm trù vật chất.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, phản ánh, và 6
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.Vật chất cũng là một phạm trù nền tảng của
chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này
luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Theo Ăngghen định nghĩa: “Vận
động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”2.
Nguyên nhận của vận động nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng, vận động là
sự tự thân vận động và vận động của vật chất được bảo toàn. Bản chất của vận động
chính là mọi sự thay đổi và mọi sự thay đổi được phân chia thành những hình thức
vận động cơ bản của vật chất. Ph. Ăngghen chia vận động của vật chất thành năm
hình thứ cơ bản: vận động cơ học, vật động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh
học và vận động xã hội. Ph. Ăngghen đã xây dựng các hình thức vận động dựa trên
sự tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức kết cấu vật chất. Các hình thức vận
động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở
của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp. Hình thức
vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp, cho nên không thể quy
hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp.
Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất, là sự phán ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ ốc con người.
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có
nghĩa là những nội dung mà ý thức đều xuất phát từ thực tiễn, những yếu tố xuất hiện
trong thực tiễn sẽ là cơ sở để ý thức được hình thành. Sự phản ánh ý thức là sáng tạo,
vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn cần sử dụng mà bắt buộc phải tạo ra những
giá trị, phát minh thiết kế hiện đại và hữu ích hơn để đáp ứng cho nhu cầu thực tế
của xã hội. Phản ánh ý thức là sự sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt
1 V.I. Lênin (1980) Toàn tập, tập 18, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr.151
2 C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.751 7
động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ
xã hội, bản chất ý thức có tính xã hội. Bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chân
thật và đầy đủ nhất của ý thức. Hành vi con người cũng chính là yếu tố thể hiện bản
chất của ý thức. Vì thế, ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Ý thức có hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Một là, nguồn gốc tự nhiên của ý thức được cho rằng gắn liền với hoạt động
phản ánh của con người. Lý thuyết phản ánh hóa các hình thức phản ánh của thế giới
vật chất, các dạng vật chất phát triển càng cao, thì hình thức phản ánh càng phức tạp,
phong phú và đa dạng. Tóm lại, sự xuất hiện của con người và hình thành bộ óc của
con người có năng lực phán ánh thế giới khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Hai là, nguồn gốc xã hội của ý thức: Những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy
sự ra đời của ý thức. Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động
là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn,
làm cho bộ óc dần dần biến chuyển thành con người. Ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người. Trong đó lao động là nguồn gốc quan trọng nhất.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại” – Ph. Ăngghen khẳng định. Tùy theo lập trường thế giới
quan khác nhau, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành
hai đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là vật chất quyết định ý thức:
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức ( cả nguồn gốc tự nhiên lẫn nguồn gốc xã
hội), vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, phải
có sự vận động của vật chất trong tự nhiên ( bộ óc người và thế giới khách quan) và
vật chất trong xã hội ( lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời của ý thức; vật
chất quyết định nội dung của ý thức, nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh
hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn
là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý
thức con người qua các thế hệ; vật chất quyết định bản chất của ý thức, là cơ sở để 8
hình thành bản chất của ý thức; vật chất quyết định sự vận động và phát triển của ý
thức, vật chất luôn vận động biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về
thể chất lẫn tinh thần, dẫn đến ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức
phản ánh, vì vậy vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo. Tóm lại, ý thức
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất: ý thức là của con người nên
vai trò của ý thức là vai trò của con người, ý thức muốn tác động trở lại hiện thực
phải bằng lực lượng vật chất; ý thức tác động trở lại thế giới vật chất theo hướng tích
cực hoặc tiêu cực; ý thức thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật
chất; ý thức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận: quan điểm khách quan trong hoạt động của con
người phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan, chống “tô hồng, bôi đen” sự vật, hiện tượng; chống chủ quan theo
duy chí, giáo điều và quan liêu, tuyệt đối hóa ý thức, tinh thần. Phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống chủ nghĩa kinh
nghiệm, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu sáng
tạo. Chúng ta phải nâng cao nhận thức các quy luật khách quan cho con người, đồng
thời phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài
hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái
độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
1.2. Ý nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với sự
phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
Viêc áp dụng mối quan hê vật chất – ý thức vào trong việc đổi mới đã đưa nền
kinh tế Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở
thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng một thế hệ.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định được vai trò lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh, ổn định đem lại đời sống
ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Đảng luôn nắm vững quan điểm của triết học Mác-
Lênin về mối quan hệ khách quan và chủ quan, vận dụng vào việc xác định đường
lối, mục tiêu, phương hướng và phương pháp cách mạng; đồng thời cũng cho thấy, 9
việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ này là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tòi
với nhiều khó khăn và phức tạp.
Cuối những năm 70 – giữa những năm 80 của thế kỷ trước do nhiều nguyên nhân
chủ yếu là do những sai lầm mang nặng tính chủ quan dẫn đến kinh tế nhà nước trì
trệ, đời sống người dân yếu kém. Duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một
mô hình cũ đã lỗi thời, đất nước đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm
trọng mà điển hình là nền kinh tế theo kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 gặp nhiều
khó khăn như viện trợ từ Trung Quốc bị cắt giảm hoàn toàn dẫn đến thiếu hụt mặt
hàng nghiêm trọng. Sau khi tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Việt Nam phải
theo thể chế giá của khối này. Sự tấn công của phái thù địch khiến chi tiêu cho quốc
phòng của Việt Nam vì vậy tăng mạnh. Sự viện trợ từ Nhật và các nước phương Tây
bi cắt đứt. Bước vào sự nghiệp đổi mới mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội
chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm không
phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước.
Nhìn nhận rõ vấn đề để hiểu rằng mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững vừa cần tránh sai lầm chủ
quan nóng vội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khơi dậy trong nhân dân
lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, phát huy tài trí của người Việt Nam; đổi mới
phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo.
Trước tiên Đảng nhìn nhận rõ đổi mới về tư duy con người. Tập trung vào công
tác giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển xã hội; nâng cao trình độ tri thức khoa
học cho toàn dân và trình độ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong
điều kiện xã hội thông tin, văn minh trí tuệ hiện nay. Tiến hành phổ cập giáo dục theo
các cấp học, xóa nạn mù chữ, cung cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản cho toàn bộ người
dân. Nâng cao chất lượng y tế, cơ sở hạ tầng nhằm nâng cao cuộc sống người dân. Y
tế đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ
sinh giảm từ 32,6% năm 1993 xuống còn 16,7% năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi 10
thọ trung bình tăng từ 70,5% năm 1990 lên 75,45% năm 2020. Chỉ số bao phủ chăm
sóc sức khỏe toàn dân là 73%, cao hơn trung bình khu vực và trung bình thế giới,
trong đó 87% dân số có bảo hiểm y tế.
Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước đưa nền kinh tế Việt Nam từ một trong những quốc
gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong
vòng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700
USD. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm từ hơn 14%
năm 2010 xuống còn 3,8% năm 2020. Với tỉ lệ tăng trưởng ở mức 2,5% đến 3,5%
mỗi năm trong suốt 30 năm qua, ngành nông nghiệp đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và
đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 nông nghiệp đóng góp 14% cho GDP và 38%
việc làm, năm 2021 xuất khẩu đạt hơn 48 tỷ USD giữa thời điểm đại dịch COVID-
19. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính đến năm
2019, 99,4% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm 1993. Tỉ lệ tiếp
cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện từ 17% năm 1993 lên 51% năm 2020.
Bồi dưỡng lí tưởng, niềm tin, nhiệt tình cách mạng cho quần chúng nhân dân, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho Đảng viên, cán bộ, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt
tình cách mạng và tri thức khoa học, phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng.
Đổi mới kinh tế phải gắn với việc đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh". Đảng đã quyết tâm thực hiện việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân. Việt Nam đã đặt ra
những tầm nhìn phát triển tham vọng hơn, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có
thu nhập cao vào năm 2045, nền kinh tế cần tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng
năm 5,5% trên đầu người trong 25 năm tới. Việt Nam cũng hướng tới mục tiêu phát
triển theo hướng xanh hơn, bao trùm hơn đồng thời cam kết giảm phát thải khí mêtan
(CH4) xuống 30% và ngăn chặn nạn phá rừng vào năm 2030 đồng thời đạt được mức
phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050. 11
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học phân thành
hai trường phái lớn: Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm có 2 hình thức là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa
duy tâm chủ quan quan đều đứng trên lập trường triết học duy tâm là quan niệm rằng ý
thức, tinh thần là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai. Chủ nghĩa duy tâm khách quan
cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ định sự tồn
tại của thế giới khách quan, khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp những
cảm giác của cá nhân, của chủ thể nhận thức là chính con người tuyệt đối hoá vai trò
tích cực của chủ thể trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau.
Chủ nghĩa duy tâm thường trừu tượng hóa ý thức của con người thành một lực
lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần,
là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Chủ nghĩa duy tâm thường trừu tượng hóa ý
thức của con người thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy
nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu
hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thường tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, nhấn mạnh một
chiều vai trò của vật chất sinh ra và quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối
của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo và vai trò to lớn của ý thức trong
hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất là cái có trước, ý thức có
sau, chính vật chất sinh ra ý thức và vật chất quyết định ý thức. Ý thức chính là sản
phẩm vật chất, được tổ chức nên bộ não của con người.
Và Lênin nhận định rằng “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Vận động là phương thức
tồn tại của vật chất. 12
Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất, là sự phán ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ
ốc con người. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức có hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với sự phát triển kinh tế
Việt Nam hiện nay Đảng và nhà nước ta đã có những nhận định kinh tế sai lầm dẫn
đến trì trệ kinh tế tuy nhiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn dũng cảm, tôn trọng sự
thật khách quan các vấn đề thực tế đang tồn tại xảy ra là căn cứ để đưa ra biện pháp
khắc phục, kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm từ
thành công và cả thất bại. Mọi đường lối của Đảng và nhà nước Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. 13
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát chung về công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo
Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chống
Mĩ vô cùng gây go ác liệt… Chính vì thế, nền kinh tế Việt Nam bị suy thoái nặng nề
và hầu như bị kiệt quệ trong các giai đoạn lịch sử, cơ sở vật chất bị hủy hoại, tàn phá
nặng nề…Tiêu biểu một số thời kỳ khó khăn của Việt Nam:
Thời kỳ 1954 – 1975: Việt Nam đi lên Chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát
triển kinh tế sau chiến tranh
Năm 1954, sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
khẳng định dù hoàn cảnh như thế nào, miền Bắc cũng phải tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Đó là yêu cầu khách quan đảm bảo sự phát triển của miền Bắc, đồng thời còn là yêu
cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Miền Bắc trải
qua 3 năm (1954 – 1957) khôi phục kinh tế sau chiến tranh và hoàn thành những nhiệm
vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cải cách ruộng đất) và cũng là
chuẩn bị những điều kiện cần thiết và phát triển nhận thức để chính thức thực hiện
cách mạng xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Trung ương 14 (1958) và Nghị quyết Đại
hội III (9/1960). Sự nghiệp xây dựng XHCN ở miền Bắc (1954-1975) và trên cả nước
sau năm 1975 đã bước đầu tạo dựng một xã hội mới với bản chất tốt đẹp và sức mạnh
về mọi mặt bảo đảm giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất
nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đến năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn được giải
phóng và thống nhất đất nước, nền kinh tế miến Bắc bị suy giảm nghiêm trọng. Cơ sở
vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản
xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân và nguyên liệu cho công
nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu, ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ. Ở
miền Nam, sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn, nông nghiệp bị hoang hoá
ở nhiều vùng do chịu ảnh hưởng boom đạn của Mĩ… Chiến tranh ảnh hưởng không
nhỏ trên tiềm năng sản xuất nông nghiệp, hàng vạn thanh niên nhập ngũ, gây ra một 14
giảm sút lớn lực lượng lao động nông nghiệp. Thêm vào đó, để đối phó với nhu cầu
tối khẩn của chiến tranh, chính phủ phải cắt giảm ngân sách dành cho nông nghiệp đến
mức còn không đủ cho việc sửa chữa máy móc nông cụ để duy trì mức sản lượng đã
đạt từ trước. Quy ra từng đầu người thì số thóc giảm dần từ 335 kg/người (1959 thời
điểm thực hiện hợp tác xã) xuống còn 254 kg/người phần vì dân số gia tăng nhanh (từ
13,5 triệu năm 1955 lên 24,55 triệu năm 1975) trong khi mức sản xuất trì trệ.
Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém
hiệu quả. Nông nghiệp, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP
trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp
được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn
nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng. Ở miền Bắc mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình
công nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu
nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng
từ 18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, thiếu thốn. Trong Đại Hội lần thứ VI, Đảng thừa nhận đã phạm phải sai
lầm, khuyết điểm trong chính sách kinh tế, xã hội dẫn tới khủng hoảng kinh tế từ năm
1979. ĐCSVN đã kịp thời tự phê bình và chỉ ra những nguyên nhân cần phải khắc
phục, đó là bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh,
đặc điểm thực tiễn đất nước, chưa nhận thức rõ quy luật khách quan. ĐCSVN đã từng
bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính
sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế, của cơ chế thị
trường, chú trọng lợi ích của người lao động, sửa đổi cách thức quản lý nặng về tập
trung, hành chính, bao cấp cản trở những động lực của sự phát triển. Nghị quyết Trung
ương 6 khóa IV (8/1979) là bước đột phá đầu tiên, tiếp theo là Chỉ thị số 100
(13/1/1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định 25CP, 26CP
(21/1/1981), Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6-1985) và Kết luận của Bộ Chính trị 15
tháng 8/1986 là quá trình khảo nghiệm thực tiễn để đi đến đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12/1986).
Thời kỳ 1986 - 2000: Thực hiện đường lối về đổi mới nền kinh tế Việt Nam
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số
thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện
đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước và định hướng XHCN. Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được
sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo
của các loại hình kinh tế để phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao
động, tăng sản phẩm cho xã hội.
Giai đoạn 1986 - 2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%;
trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm
1986; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm;
khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm. Một trong những thành tựu
kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông nghiệp, mà nội dung cơ
bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở
nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn
nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới (năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5
triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp 26 lần). Sản
xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi năm
trong thời kỳ 1986 – 2000 đạt 11,09%. Sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với
năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6 lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản
lượng dầu thô đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên gần 7,1 triệu tấn năm 1994 và
16,3 triệu tấn năm 2000. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác
được củng cố và tăng cường (ngày 1/4/1999), cả nước có 90% số trẻ em 14 tuổi tốt 16
nghiệp tiểu học; 94% dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ). Sau 10 năm nỗ lực phấn
đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này (thu nhập
bình quân đầu người một tháng của dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên
đến 295.000 đồng năm 1999) đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm cho đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt, góp phần làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước
ta trong giai đoạn này đạt được những kết quả đáng kể. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh tiến trình CNH – HĐH đất nước.
Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
là Chiến lược 2001 – 2010 và Chiến lược 2011–2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có
lợi, không can thiệp công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển”. Nhờ tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, nên kinh
tế – xã hội nước ta đã có những biến đổi quan trọng, đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Kinh tế liên tục tăng trưởng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào
nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Quy mô nền kinh tế ngày
càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Tốc độ tăng GDP tương đối
cao, bình quân năm trong giai đoạn 2001 – 2010 tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng
7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991–2000, đây là
một thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng của đất nước ta trong giai đoạn này.
Trong giai đoạn 2011 – 2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và
là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008. Cơ cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch
theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu lao động
đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua đào tạo của các ngành kinh
tế đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội
nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Tổng mức lưu chuyển hàng 17
hóa ngoại thương thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2019 gấp 20,2 lần giai đoạn 1991–
2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001–2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với
GDP từ 112,5% năm 2000 tăng lên 142,2% năm 2005; 152,2% năm 2010 và 210,4%
vào năm 2019. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta có độ mở ngày càng cao và tăng
lên tương đối nhanh, nước ta đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và
tranh thủ được thị trường thế giới. Kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài từ năm
1988, thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Năm 2019, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn đăng
ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn 1988-
1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH - HĐH, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý
và trình độ công nghệ cho nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nhờ có các biện pháp đối
phó chủ động từ Trung ương tới địa phương, tác động y tế của dịch bệnh không nghiêm
trọng như nhiều quốc gia khác. Kinh tế vĩ mô và tài khóa giữ được ổn định, với mức
tăng trưởng GDP trong năm 2020 là 2,91%, tuy là mức tăng thấp nhất của các năm
trong giai đoạn 2011-2022 nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp,
ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội thì đây là thành công lớn của Việt
Nam với mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới và Việt Nam vẫn
là quốc gia có sản lượng xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. 18
Hình 2.1. Biểu đồ biểu diễn tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam từ năm 2010 – 2020
2.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức vào đổi mới kinh tế hiện nay
Sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam thắng lợi giành được độc lập ở miền Bắc năm
1954, do hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ bị chia cắt thành 2 miền Nam – Bắc, lợi dụng
sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đã nhảy vào để thay chân Pháp
cùng với chính quyền Ngô Đình Diệm ( Việt Nam Cộng Hòa) nhằm chống phá chính
quyền của ta ở miền Bắc, âm mưu muốn biến miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của Mĩ, chúng ra sức khai thác tài nguyên, bốc lột và tàn sát người
dân, dẫn đến cuộc sống của nhân dân miền Nam vô cùng khó khăn, tàn khốc. Trước
tình hình kinh tế - chính trị - xã hội đó, Đảng ta quyết định tiếp tục cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mĩ ở miền Nam (1954 – 1975) để tiến tới giải phóng dân tộc thống nhất
đất nước, nối liền hai bờ Nam – Bắc, năm 1975 miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng.
Kết quả, năm 1975 Đảng Cộng Sản Việt Nam đối mặt với vấn đề phục hồi và
phát triển kinh tế sau chiến tranh, đưa Việt Nam tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện vật chất vừa thuận lợi vừa bất cập đan xen với những khó khăn sau có thể kể đến: 19
Một là, do Việt Nam xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước vừa trải qua các cuộc chiến tranh ác liệt, kéo dài
nhiều thập kỷ, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn
nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XHCN và nền
độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Hai là, đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
cho dù chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Việt Nam quyết định bỏ qua
chủ nghĩa tư bản tiến lên XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, “Cương lĩnh năm
1930 của ĐCSVN đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”3. Khi đó, đất nước vừa giành được độc lập nên
Đảng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm, non nớt trong việc lãnh đạo, vận hành và xây
dựng cơ sở hạ tầng, thượng tầng để chuẩn bị cho việc phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
Ba là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất
cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang
trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và
cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các
nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.
Trước tình hình đó Đại hội Đảng lần thứ IV ( năm 1976), Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 về xây dựng và phát triển vượt
quá khả năng kinh tế 1975 phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực 1 triệu tấn cá biển, 1
triệu ha khai hoang, 1 triệu 200 ha rừng mới 10 triệu tấn than sạch,… Ngoài ra Đảng
ta còn đề xuất xây dựng thêm các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí và đặc biệt là
phải cải tạo XHCN ở miền Nam. Chính vì những áp lực đã đặt ra và sự nóng vội đi
lên Chủ nghĩa xã hội của ĐCSVN, đã gây tổn hại đến nền kinh tế và cuộc sống nhân
dân…Đến hết 1980, nhiều chỉ tiêu đề ra chỉ đạt được 50 - 60%, nền kinh tế tăng trưởng
chậm, tổng sản phẩm xã hội bình quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp
giảm 0,15%. Đại hội Đảng lần V (năm 1982) vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự
3 Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.93-94 20
trì trệ, đồng thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981 – 1985.
Chúng ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và
quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Nhìn
chung vẫn chưa đạt được mục tiêu đại hội IV đề ra.
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì
trệ của nền kinh tế do chiến tranh, bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn mắc sai lầm
chủ quan trong việc quản lý cán bộ, phát triển lực lượng sản xuất.
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất, thấy rõ tác động
qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép Biện chứng duy
vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải.
Trước tình hình kinh tế đó, ĐCSVN và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu,
phân tích tình hình, lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh
tế. Đại hội Đảng VI (năm 1986) diễn ra trong bối cảnh có sự “giảm sút của của sản
xuất vào những năm 70 cùng với những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là bố
trí đầu tư và xây dựng cơ bản của những năm 1976-1980, để lại hậu quả nặng nề” 4,
đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó: phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hoạt động theo quy luật khách quan. Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, mở
ra bước ngoặt trong việc xây dựng XHCN ở nước ta.
Tại Đại hội lần thứ VI, ĐCSVN thừa nhận khuyết điểm đã phạm sai lầm trong
việc phát triển kinh tế đưa Việt Nam vào thời kỳ khủng hoảng, bao cấp, kế hoạch
hóa tập trung (1975 – 1986), các hợp tác xã ra đời và phát triển nhanh chóng. Nhà
nước quản lý, can thiệp sâu vào các quá trình sản xuất kinh tế của các doanh nghiệp
tư nhân dựa trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết được áp dụng từ trên xuống
dưới, xây dựng các chỉ tiêu một cách chủ quan, sau đó sẽ đưa các chỉ tiêu đó xuống
các doanh nghiệp và cả các hợp tác xã cùng thực hiện, và việc cấp phát vốn, vật tư,
giao nộp sản phẩm cho Nhà nước, rồi phân chia sản lượng theo bình quân đầu người
trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp cũng khiến cho người dân
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H, 1987, tr.151, 43, 13, 42. 21
mất động lực sản xuất, xảy ra tình trạng không công bằng trong vấn đề thụ hưởng
thành quả lao động, người làm nhiều lại được hưởng ít hơn so với năng suất lao
động mình phải bỏ ra, khiến kinh tế Việt Nam bị trì trệ, không phát triển, không
thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài và suy thoái nặng nề, người dân không còn
hăng hái lao động để tạo ra sản phẩm mà phần lớn chờ đợi vào Nhà nước. Cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp của ĐCSVN ngày càng không phù hợp với hoàn
cảnh của đất nước. Đảng ta nhận thấy rằng, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp đã làm thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu
động lực kinh tế đối với các chủ thể là những người lao động, cơ chế này cũng không
kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Chính vì
nguyên nhân này đã làm cho nền kinh tế nước ta bị rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Từ những thực trạng trên, Đảng nhận thấy việc đổi mới theo hướng quan liêu bao
cấp trong kinh tế không đạt hiệu quả như mong đợi. Đại hội lần thứ VI, ĐCSVN tiếp
tục đổi mới trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa, đối
ngoại… Đặt biệt là ĐCSVN đổi mới về tư duy, tổ chức, đội ngũ cán bộ, đổi mới phong
cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến thức và năng lực lãnh đạo,
mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Từ mục đích này, Đại hội
tập trung vào thực hiện ba nhiệm vụ kinh tế lớn là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu để ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân. Trên cơ sở đó,
Đại hội đề ra nhiệm vụ đổi mới chính trị mà trước hết tập trung vào phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước XHCN,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng5. Trong quá trình thực hiện
nghị quyết của Đảng, những diễn biến quốc tế đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế nước ta nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân đã nỗ lực khắc phục những khó
khăn và tìm tòi khai phá ra đường lối đổi mới. Tại Đại hội VII (năm 1991) ta đã
đánh giá tình hình kinh tế chính trị của nước ta sau hơn nhiều năm thực hiện đổi
mới đã đạt được các bước tiến quan trọng. Tình hình hình chính trị ổn định nên
nền kinh tế có điều kiện phát triển bước đầu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.109, 123. 22
phần hoạt động theo sự quản lý của nhà nước, LLSX huy động tốt hơn, tránh
được lạm phát, đời sống của người dân được cải thiện, cuộc khủng hoảng đã
giảm bớt, sinh hoạt dân chủ ngày càng phát huy. Nhờ có đường lối đổi mới, nền
kinh tế ngày càng phát triển, cuộc sống của người dân ngày càng ổn định đã góp
phần to lớn trong việc phát huy dân chủ trong xã hội. Đại hội VII xác định rất đúng
“Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới
kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các
nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó
là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng
thời với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”6.
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công
cuộc đổi mới đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị. Đại hội VIII đã chỉ ra các mục tiêu
cần đạt được, cụ thể là phương châm chỉ đạo trong 5 năm 1991 – 1995, trong đó nổi
trội nhất là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị, phương châm
tiếp tục đổi mới đã đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới làm nền để
thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.Trong báo cáo của Đảng về công cuộc đổi mới
đã nhận xét: “Nét nổi bật là trong Đảng đã có sự đổi mới tư duy về kinh tế với tinh
thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ thể hoá và phát triển nghị quyết đại hội VII, bước
đầu hình thành hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta”.7
Sau những định hướng đổi mới về kinh tế của Đảng tại Đại hội lần thứ VI (năm
1986), nền kinh tế nước ta chuyển dịch từ nền cơ cấu Nhà nước bao cấp sang nền cơ
cấu thị trường, đa thành phần, các doanh nghiệp dần tư nhân hóa, từ đó thu hút một
lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài. Công cuộc đổi mới kinh tế của Đảng ta bước đầu
thành công và tiến triển theo chiều hướng tích cực, cuộc sống của người dân được cải
thiện về mặt cơ sở vật chất, phúc lợi xã hội, từ đó nhu cầu về đời sống tinh thần lẫn
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, H, 1991.tr. 54, 54.
7 Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về các văn kiện trình Đại hội VIII của Đảng. 23
vật chất của người dân ngày càng tăng cao, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục gặp
những hạn chế như: lạm phát vẫn còn cao, nhiều cơ sở đình đốn kéo dài, lao động thiếu
việc làm tăng lên, trường học, các khu vực khám chữa bệnh quá tải, nền kinh tế vẫn
còn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát
triển, kinh tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu quả còn kém, vẫn
còn những tồn tại về mặt văn hoá, xã hội,… Để có những thay đổi tốt hơn, Đảng ta
tiến tới Đại hội lần thứ XIII ( năm 2021) của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều vấn đề
được tổng kết để nhận thức rõ hơn và giải quyết những yêu cầu bức thiết do thực tiễn
đặt ra, nhất là vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ lực lượng
sản xuất; vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu nghèo; vấn đề xây dựng văn hóa, con
người trong xã hội văn minh, tiến bộ; vấn đề chống suy thoái, tham nhũng, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của ĐCSVN. Đảng ta còn đẩy mạnh vấn đề CNH – HĐH đất nước trong
thời gian qua, toàn Đảng, toàn dân phải tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức và hành
động quyết liệt đúng đắn, đồng bộ hơn trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung,
đổi mới kinh tế nói riêng. Đó là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tình hình mới;
là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước; là sự nghiệp
của toàn dân và của cả hệ thống chính trị; lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là
chủ thể; bảo đảm sự hài hoà giữa mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với yêu cầu giữ
gìn tiến bộ và công bằng xã hội, bồi đắp và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc, bảo
vệ tài nguyên, môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hoá, xây
dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động.
Cần phải khai thác và phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng
vùng, từng địa phương trong quá trình CNH-HĐH; tận dụng và phát huy lợi thế của
nước đi sau và đang trong thời kỳ "dân số vàng"; kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả
giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu, thúc đẩy chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp
ráp sang sáng tạo, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam; CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; chú trọng "dịch vụ hoá" các ngành công nghiệp.
Coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình CNH – HĐH. 24
Thực hiện CNH – HĐH phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng
đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; có
lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực và có các cơ
chế, chính sách đột phá, đặc thù để phát triển các cực tăng trưởng, các ngành công
nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên gắn với công nghệ thông minh, các ngành dịch
vụ có giá trị gia tăng cao; tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng để tạo không gian
phát triển mới; coi nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định;
nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng.
Trong quá trình tiến hành CNH – HĐH, phải chú ý bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mô và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát
vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị văn
hoá, bản lĩnh con người Việt Nam; vai trò xung kích, đi đầu của lực lượng doanh
nghiệp, đội ngũ doanh nhân và đội ngũ trí thức, giai cấp công nhân hiện đại.
Dưới sự quán triệt của ĐCSVN tại Đại hội lần thứ XIII ( năm 2021), ĐCSVN
lấy ngàng Công nghệ thông tin làm ngành mũi nhọn cho quá trình CNH – HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế, tiếp tục nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp nước ngoài vào nước ta đầu tư sản xuất, từ đó tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho người dân, giải quyết được phần nào về vấn đề thiếu việc làm và nỗi lo tài
chính của nhân dân, Nhà nước cũng tăng cường xây dựng, cải tạo lại trường học, các
bệnh viện, tạo điều kiện các các ngành dịch vụ, du lịch ở Việt Nam phát triển để nhầm
mục đích phục vụ cho người dân, khi cuộc sống ổn định, điều đó sẽ tác động không
nhỏ vào ý thức của người dân trong vấn đề hội nhập quốc tế đưa Việt Nam từng bước
tiến gần hơn đến chế độ Chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của ĐCSVN là xây dựng một
nước Việt Nam XHCN hùng cường, sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp. Cũng nhờ sự vận
động của vật chất và linh hoạt thay đổi về dư duy của ĐCSVN mà trong tình hình đại
dịch Covid-19, Đảng ta đã ứng phó kịp thời trước nền kinh tế thế giới bị giảm sút (năm
2020, GDP Việt Nam tăng 2.91%), vẫn ra đáp ứng nhu cầu về vật chất cho người dân, 25
đưa Việt Nam trở thành quốc gia hạnh phúc đứng thứ 77 thế giới – “Trong bảng xếp
hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022, Việt Nam tăng 2 bậc, lên vị trí 77 so
với năm 2021; xếp hạng hạnh phúc năm 2020, Việt Nam đứng thứ 83” 8. Đến giữa thế
kỷ XXI, ĐCSVN đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng XHCN. Đó là mục tiêu, định hướng phát triển với tầm nhìn chiến lược kỷ niệm
100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2030) và 100 năm Nhà nước Cộng hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2045).
2.3. Bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự vận
dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào đổi mới
kinh tế ở nước ta hiện nay
Sau hơn 35 năm phục hồi, phát triển và đổi mới kinh tế tính từ năm 1975 đến
nay, ĐCSVN đã trải qua các kỳ Đại hội quan trọng ( từ Đại hội lần thứ VI đến đại hội
lần thứ XIII), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện dựa trên phân tích thấu đáo
điều kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn những vấn đề của thời kỳ quá độ
lên CNXH, những luận điểm của V.I. Lênin và Hồ Chí Minh. Trong đại hội VI đã tổng
kết những bài học lớn có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Để hành động theo quy
luật khách quan, trước hết phải nhận thức đúng đắn các quy luật, nhất là quy luật giá
trị và sản xuất hàng hóa thúc đẩy sản xuất ra nhiều của cải vật chất. Sự kết hợp kế
hoạch hóa nền kinh tế với yếu tố thị trường với phát huy sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế. Quy luật phân phối theo lao động và coi lợi ích kinh tế của người
lao động là một động lực phát triển. Đặc biệt phải nhận thức và hành động theo quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để
có bước đi và hình thức thích hợp. Đại hội VI của ĐCSVN thẳng thắn nêu rõ: “Kinh
nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan
hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những
yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”9.
Sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa Xã hội ở Liên Xô (bao cấp,…) và các nước
Đông Âu là do những hạn chế, yếu kém kéo dài không được khắc phục, do sai lầm
8 Báo cáo Hạnh phúc Thế giới (World Happiness Report - WHR) 2022 công bố hôm 18/3
9 Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập. (2006). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26
trong nhận thức và lãnh đạo, quản lý không được sửa chữa và nhất là do sự tấn công
trực diện của các thế lực thù địch và phản bội. Cũng chính từ thất bại và tổn thất to lớn
đó là bài học để các Đảng Cộng sản, các nước kiên định con đường XHCN, trong đó
có Việt Nam phải không ngừng đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn để tìm ra
quy luật phát triển riêng. Kiên định, trung thành với lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nhưng phải không ngừng đổi mới và phát triển sáng tạo mới thành công. Bài
học lịch sử của ĐCSVN là: “nếu không trung thành, kiên định lý luận, tư tưởng cộng
sản sẽ phạm vào chủ nghĩa xét lại, nhưng nếu không đổi mới, phát triển sáng tạo sẽ rơi
vào chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, trì trệ và đất nước không thể phát triển”10.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nền
kinh tế Việt Nam đòi hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ,
thành tựu về quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, hướng nước ta tiến tới con đường XHCN công hữu về
tư liệu sản xuất ( tư liệu lao động, đối tượng lao động). Đảng nhận thấy phải từng bước
thay đổi, tích góp kinh nghiệm, chuẩn bị kỹ càng trong thời kì quá độ và không nóng
vội tiến lên XHCN, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế (tích lũy dần về lượng để thay đổi về chất, đúng với
quy luật khách quan, bám sát lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin). ĐCSVN quyết định
không phát triển kinh tế Việt Nam theo chế độ quan liêu bao cấp để hạn chế tối đa vấn
đề cào bằng trong các hoạt động sản xuất của người dân. Giai đoạn 1975 -1986, vì
nước ta vận động dưới sự kiểm soát của Nhà nước về các yếu tố sản xuất cũng như
phân phối về việc thu nhập mà đã đưa Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế, khó
khăn chồng chất khó khăn, năm 1975 nước Mĩ phát lệnh cấm vận kinh tế Việt Nam,
nước ta hầu như bị cô lập, không thể tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, dẫn đến
kinh tế không phát triển đó cũng là bài học xương máu của Đảng ta trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm:
10 ĐCSVN nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa qua 90 năm ra đời và phát triển, Cổng
thông tin điện tử viện chiến lược và chính sách tài chính (NIF), Báo ngày 01/02/2020 27
Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và cán bộ:
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng
bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên định, vận
dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng
cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc
trong công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; hoàn thiện
cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Điểm mới của bài học này so với các đại hội trước là xác định xây dựng, chỉnh
đốn Đảng toàn diện: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nhấn mạnh xây
dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; nhấn mạnh
hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nhấn mạnh yêu cầu xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Bài học thứ hai về dân: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn
quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm,
là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính
sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân;
thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng;
lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. 28
Điểm mới của bài học này là phải thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”,
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nhấn mạnh
lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện: Trong lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn,
hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi
nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn;
đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ
thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận;
thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng
và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Điểm mới của bài học này là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có
quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, có bước
đi phù hợp; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế.
Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ: Tập trung ưu tiên xây
dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo
các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi
trường; giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập,
tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu
quả vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể
chế phát triển (cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại).
Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Chủ động nghiên cứu, nắm
bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng
đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, đánh giá đúng xu 29
thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp
với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo
đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Khái quát chung được về các thời kì đổi mới kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo từ năm 1954 đến nay. Thời kỳ 1954 – 1975, Việt Nam quá độ tiến lên con
đường Chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Thời kỳ 1976
– 1985, nền kinh tế nước ta kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Thời kỳ 1986 – 2000,
thực hiện đường lối về đổi mới nền kinh tế Việt Nam được đưa ra tại đại hội lần thứ
VI của ĐCSVN (năm 1986). Thời kỳ 2001 đến nay, thời kỳ kinh tế Việt Nam hội nhập
quốc tế sâu rộng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức vào đổi mới kinh tế như thế nào và bài học kinh nghiệm của Đảng
Cộng Sản Việt Nam trong sự vận dụng mối quan hệ đó vào đổi mới kinh tế ở nước ta
qua từng giai đoạn lịch sử.
Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và cán bộ.
Bài học thứ hai về dân.
Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức.
Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ.
Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Từ những lý luận trên, ta thấy được ĐCSVN đã áp dụng một cách linh hoạt và
hiệu quả quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức trong đối mới kinh tế của Việt Nam, khi nước ta đang trong bối cảnh quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội. Từ những cơ sở vật chất hạ tầng và thượng tầng, cùng với nhu 30
cầu của người dân không ngừng tăng cao nó quyết định đến việc thay đổi về kinh tế,
chính trị, xã hội ở Việt Nam; từ những thay đổi đó về mặt ý thức, nó tác động ngược
trở lại vật chất, làm cho cơ cấu kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển và từ những
vật chất mới được tạo ra sẽ tiếp tục quyết định về mặt ý thức giúp Việt Nam ngày càng
phát triển vượt bậc theo sự vận động của xã hội, tiến gần hơn đến chế độ Chủ nghĩa
xã hội và thậm chí xa hơn nữa là chế độ Chủ nghĩa Cộng Sản. KẾT LUẬN
Tổng kết lại, công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng, mang tính cấp thiết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nước ta trong quá trình đổi mới
đòi hỏi Đảng và nhà nước phải quyết tâm, nhạy bén và linh hoạt vận dụng những đường
lối đúng đắn. Để thực hiện tốt công tác này, chỉ vận dụng những hiểu biết trong các lĩnh
vực khoa học chuyên ngành là chưa đủ mà cần thiết phải nắm vững và vận dụng được
các tri thức triết học nói chung và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào quá trình đổi mới.
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức một cách linh hoạt và hiệu quả vào đổi mới kinh tế qua từng giai đoạn lịch sử.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rút ra nhiều bài học kinh
nghiệm, không ngững đổi mới, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam nâng cao vị trí trên trường quốc tế.
Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với
nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường Chủ nghĩa xã hội. Đây
cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại các quan
điểm phiến diện, sai lầm, phản động hòng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, phủ nhận con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 31
Nhóm hi vọng đề tài này là một tài liệu có giá trị nhất định trong vấn đề vận
dụng triết học vào thực tiễn nói chung và sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức vào đổi mới kinh tế của ĐCSVN ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do năng
lực có hạn, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Nhóm hi vọng
có thể nhận những đóng góp quý báu để có thể hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu này trong tương lai. 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Minh Hương (Chủ biên) - Lê Đức Sơn, Tài liệu học tập môn triết học
Mác - Lênin, NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2021.
[2] ThS.Đinh Thùy Dung (16/10/2022), Ý thức là gì? Nguồn gốc, bản chất và vai trò ý
thức. Truy cập từ: https://luatduonggia.vn/y-thuc-la-gi-nguon-goc-ban-chat-va-vai- tro-cua-y-thuc/.
[3] GS.TS. Phạm Văn Đức (Chủ biên), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Trình độ: Đại học, Hà Nội, 2019.
[4] Hoàng Lê Khánh Linh (04/08/2022), Sự vận dụng ý nghĩa mối quan hệ giữa khách
quan và chủ quan trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Truy cập từ:
https://luatminhkhue.vn/su-van-dung-y-nghia-moi-quan-he-giua-khach-quan-va-
chu-quan-trong-su-nghiep-doi-moi-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx
[5] The World Bank IBRD.IDA (11/11/2022), Tổng quan Việt Nam. Truy cập từ:
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
[6] Trường ĐH Lâm Nghiệp - VNUF (15/09/2009), Tổng quan về Việt Nam. Truy cập
từ: https://vnuf.edu.vn/duong-loi-kinh-te-cua-dang-tu-khi-dat-nuoc-hoan-toan- giai-phong-den-nay.html
[7] UBND Tỉnh Bình Phước Cục Thống Kê (07/09/2020), Những dấu ấn quan trọng về
kinh tế - xã hội trong hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số
liệu thống kê. Truy cấp từ: https://binhphuoc.gov.vn/vi/ctk/tin-tuc/nhung-dau-an-
quan-trong-ve-kinh-te-xa-hoi-trong-hanh-trinh-75-nam-thanh-lap-va-phat-trien-
dat-nuoc-qua-so-lieu-thong-ke-302.html
[8] Báo điện tử chính phủ (27/12/2020), Kinh tế Việt Nam năm 2020. Truy cập từ:
https://baochinhphu.vn/gdp-nam-2020-tang-291-102285021.htm
[9] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu, văn kiện Đảng
(16/04/2018), Đại hội đại biệu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Truy cập từ:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-vi/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-dang-19 33
[10] Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương (22/1/2021), Đưa Nghị quyết của Đảng
vào cuộc sống. Truy cập từ: https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-
cuoc-song/nhan-thuc-va-giai-quyet-dung-dan-moi-quan-he-giua-doi-moi-kinh-te- va-doi-moi-chinh-tri-135330
[11] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (09/10/2022), Hoàn thành tốt những nội
dung cốt lõi và những vấn đề lớn nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII. Truy cập từ:
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/hoan-thanh-tot-nhung-noi-dung-cot-loi-va-
nhung-van-de-lon-neu-trong-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-621526.html
[12] Quản lý Nhà nước (15/02/2022), Chỉ số hạnh phúc quốc gia – chỉ số đánh giá mới
trong “Quản trị Nhà nước tốt”.
Truy cập từ: https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/02/15/chi-so-hanh-phuc-quoc-
gia-chi-so-danh-gia-moi-trong-quan-tri-nha-nuoc-tot/
[13] Quân đội nhân dân Việt nam (10/02/2021), Giá trị và những điểm mới của bài học
kinh nghiệm. Truy cập từ: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/gia-tri-va-
diem-moi-cua-nhung-bai-hoc-kinh-nghiem-651482.
[13] Cổng thông tin Điện tử Viện chiến lược và Chính sách tài chính - NIF (01/02/2020),
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ
nghĩa qua 90 năm ra đời và phát triển.
Truy cập từ: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet- tin?dDocName=MOFUCM171684. 34