



















Preview text:
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: Kinh tế chính trị Mac - Lenin ĐỀ TÀI:
Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển
của Việt Nam. Là sinh viên, anh/chị cần làm gì để thích ứng với quá trình này.
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Đức Quỳnh
Sinh viên thực hiện : Bùi Quỳnh Hương Lớp : K24TCB Mã sinh viên : 24A4012078
Hà nội, ngày 08 tháng 04 năm 2022 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam...........................................................................................................2
1.1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế..................................2
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế.................................................5
Chương 2: Thành tựu và hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam...................................................................................................................9
2.1. Tổng quan về tình hình hội nhập kinh tế của Việt Nam từ khi mở cửa
đến nay...........................................................................................................9
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.................................................11
2.2.1. Tác động tích cực...........................................................................11
2.2.2. Tác động tiêu cực...........................................................................12
2.3. Những thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế......................13
2.4. Hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế....................................15
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế..................18
3.1. Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức.............................18
3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh..............................................................19
3.3. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế........21
3.4. Đổi mới sáng tạo công nghệ.................................................................22
3.5. Nâng cao năng lực cán bộ hội nhập......................................................23
3.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo...............................24
KẾT LUẬN.....................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................26 1 LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986. Sau hơn 30 năm
chuyển từ cơ chế kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, Việt Nam, đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Hội nhập
kinh tế quốc tế đã có tác động không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam kể từ
khi đổi mới đến nay. Hội nhập kinh tế quốc tế đã khiến dòng vốn đầu tư nước
ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp và gián tiếp đã cung cấp cho Việt Nam một
nguồn lực kinh tế to lớn cùng với các hoạt động chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh của thế giới góp phần giúp Việt Nam thoát khỏi
nền kinh tế lạc hậu, dần phát triển theo kịp các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới.
Cục diện kinh tế thế giới hiện nay đang làm thay đổi nền tảng của kinh
tế thế giới. Một số quốc gia trước kia vốn đi đầu trong việc ủng hộ tự do hóa
thương mại nay lại trở thành yếu tố ảnh hưởng tới sự ổn định của hệ thống
thương mại đa phương nói riêng và của cả quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế trên toàn thế giới nói chung. Đáng lưu ý là xung đột thương
mại giữa Mỹ với một số đối tác, đặc biệt với Trung Quốc vẫn tiếp tục có
những diễn biến khó lường. Những sự kiện, diễn biến trên đang có ảnh hưởng
lớn đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới và động thái chính sách của các
nước, trong đó có Việt Nam. Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế
sâu rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới với các cơ quan,
địa phương và doanh nghiệp. Do đó, vấn đề cần thiết là nhận thức đầy đủ hơn
những điểm mới của hội nhập kinh tế quốc tế, xác định các giải pháp để tham
gia , đóng góp đối với tiến trình này, nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế và hạn chế thách thức, thiết thực phục vụ đổi mới đồng bộ và toàn
diện, phát triển bền vững.
Chính vì lý do này, em quyết định nghiên cứu đề tài “Tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam. Là sinh viên,
anh/chị cần làm gì để thích ứng với quá trình này”. 2 NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1.1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế.
a, Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực
hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế của thế giới dựa trên sự chia
sẻ lợi ích, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
b, Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Toàn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng tăng giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, v.v., trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, vừa là
trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực
khác. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế
vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế trở thành
tất yếu khách quan vì: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ
thống phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và
trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước trở thành một
bộ phận hữu cơ và không thể tách rời của nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn
cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do
đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được 3
các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo
ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất
hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng công
nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển .
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến
của các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là
cơ hội đề tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính,
khoa học – công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển. Khi các
nước tư bản giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang năm trong tay
những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên
toàn thế giới thì chỉ có phát triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các nước
đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận được những nguồn lực này cho
quá trình phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang
và kém phát triển có thể tân dụng thời cơ phát triển rút ngấn, thu hẹp khoảng
cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở của thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy
công nghiệp hóa, tăng tích lũy; tạo ra nhều cơ hội việc làm mới và nâng cao
mức thu nhập tương đối cảu các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế
về vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình
toàn cầu hóa thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp dặt chính trị theo quỹ đạo
tư bản chủ nghĩa. Điều này khiến cho các nước phải đối mặt với không ít rủi
ro, thách thức, đó là: gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài, tình trạng bất
bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước đang phát triển 4
và phát triển. Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến
lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn
cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
1.1.2. Nội dung hội nhập kinh tế.
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện đẻ thực hiện hội nhập hiệu quả, thành công.
Hội nhập là quá trình tất yếu, tuy nhiên, đối với Việt Nam, hội nhập
không phải bằng mọi giá. Quá trình hội nhập phải được cần nhắc với lộ trình
và cách thức tối ưu. Quá trình nàu đòi hỏi phải có sự chaianr bị các điều kiện
trong nội bộn nền kinh tế cũng như các mối quan hệ quốc tế thích hợp.
Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn
thiện và hiệu lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc
tế; nền kinh tế có năng lực sản xuất thực... là những điều kiện chủ yếu đẻ
thực hiện hội nhập thành công.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh té
quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó,
hội nhập kinh tế quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia
của một nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế hoặc khu
vực. Theo đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành các mức độ
cơ bản từ thấp đến cao là: Thỏa thuận thương mịa ưu đãi (PTA), Khu vực
mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung (hay thị
trương duy nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ,...
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh
tế đối ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương,
đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vị thu ngoại tệ,... 5
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Hội nhập kinh tế song phương.
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập
cùng các nền kinh tế quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác
kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định
kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả
thuận thương mại tự do (FTAs) song phương...
Loại hình hội nhập này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia
có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là
cột mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Đại hội được ví là “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến
việc mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát
triển kinh tế đất nước. Sau Đại hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu tư
song phương đã được kí kết giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
Hội nhập kinh tế khu vực.
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ
XX và phát triển cho đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại
hình hội nhập kinh tế khu vực có sự thay đổi theo sự phát triển của nền kinh
tế thế giới. Theo kinh nghiệm hội nhập kinh tế khu vực của Tây Âu, các học
giả phân loại hội nhập kinh tế khu vực thành các cấp độ từ thấp đến cao: Khu
vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị trường chung
(CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
a) Khu mậu dịch tự do (FTA - theo quan niệm truyền thống) 6
Khu vực mậu dịch tự do là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước
nhằm mục đích tự do hóa buôn bán một số mặt hàng nào đó, từ đó thành lập
thị trường thống nhất giữa các nước, nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành
chính sách thuế quan độc lập với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Với cách hiểu trên, yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan
niệm truyền thống chỉ là hàng hóa, mỗi nước thành viên trong quan hệ đối
ngoại với các nước ngoài FTA vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập. Với
lý do này, các học giả cho rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế khu vực.
Cách hiểu theo quan niệm truyền thống trên về FTA hiện không còn
phù hợp. Đặc biệt từ những năm 90 của thế kỉ XX đến nay đã xuất hiện trào
lưu FTA thế hệ mới, theo đó, khái niệm FTA không chỉ tạo ra sự tự do dịch
chuyển hàng hóa, mà còn bao hàm sự tự do dịch chuyển của nhiều yếu tố
khác như: dịch vụ, vốn, lao động...
Theo quan điểm của Walter Goode đưa ra trong Từ điển Chính sách
thương mại quốc tế thì FTA được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước
cùng xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc phần lớn các biện pháp phi thuế quan
ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước này. Các nước tham gia FTA có thể
tiếp tục áp dụng thuế quan của nước mình đối với hàng hóa bên ngoài, hoặc
nhất trí xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”. Khái niệm FTA này
giống với khái niệm Liên minh hải quan (CU) ở điểm cho phép thiết lập một
biểu thuế quan đối ngoại chung.
b) Liên minh Thuế quan (Customs Union - CU)
Liên minh thuế quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên
thỏa thuận loại bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết 7
lập một biểu thuế quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới.
Theo Từ điển Chính sách thương mại quốc tế của Walter Goode: “Liên
minh thuế quan là một khu vực gồm có hai hay nhiều nền kinh tế hoặc lãnh
thổ hải quan riêng biệt, có quy định loại bỏ mọi loại thuế và đôi khi cả những
rào càn đối với việc mở rộng thương mại giữa chúng. Các thành viên lập nên
khu vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại chung”.
Như vậy, có thể nhận thấy, CU là hình thức liên kết có tính thống nhất,
tổ chức cao hơn so với FTA. Cả hai loại hình hội nhập kinh tế khu vực này
đều là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều quốc gia, theo đó các quốc gia thỏa
thuận với nhau về loại bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan khác đối
với toàn bộ hoặc một phần hoạt động mậu dịch của họ. Nhưng, trong chính
sách thuế quan với các nước ngoài khối thì FTA và CU có sự khác biệt. Nếu
như trong FTA: Các nước thực hiện chính sách thuế quan độc lập trong quan
hệ với các nước ngoài FTA; Thì đối với CU: Các nước thành viên có biểu
thuế quan chung với các nước ngoài cu.
Sự ưu đãi nội bộ đã tạo ra sự phân biệt đối xử đối với các nước ngoài
FTA và cu. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử này được chấp nhận như một
ngoại lệ của nguyên tắc không phân biệt đối xử - Điều XXIV GATT. Theo
Điều XXIV GATT, khi các nước thành viên trong khu vực thành lập FTA
hoặc cu, các liên kết kinh tế này sẽ có quy chế đặc biệt, theo đó các thành viên
của liên kết kinh tế khu vực sẽ áp dụng cho nhau chế độ thương mại nội bộ ở
mức ưu đãi hơn so với các nước ngoài liên kết kinh tế. Ngoại lệ này cũng
dành cho cả trường hợp quan hệ thương mại biên giới.
c) Thị trường chung (Common Market - CM) 8
Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập
cao hơn so với CU. Theo đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên
ngoài việc cho phép tự do di chuyển hàng hóa, còn thoả thuận cho phép tự do
di chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với nhau.
d) Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union - EMU)
Các quốc gia tham gia liên kết kinh tế khu vực, muốn đạt đến cấp độ
liên minh kinh tế và tiền tệ, cần có hai giai đoạn phát triển là Liên minh kinh
tế (Economic Union) và Liên minh tiền tệ (Monetary Union).
- Liên minh kinh tế: Liên minh kinh tế tiếp tục được đánh giá là cấp độ
liên kết cao hơn thị trường chung, thể hiện ở việc: Ngoài yếu tố tự do di
chuyển là hàng hóa, tư bản, sức lao động còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch
chuyển cho dịch vụ giữa các nước thành viên. Bên cạnh đó, các nước thành
viên cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế
giữa các nước (thay thế một phần chức năng quản lý kinh tế của chính phủ
từng nước) nhằm tạo ra một không gian kinh tế thống nhất, cơ cấu kinh tế tối
ưu, xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên.
- Liên minh tiền tệ: Liên minh tiền tệ là liên kết kinh tế trong đó các
nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện
một chính sách tiền tệ thống nhất và cuối cùng là sử dụng chung một đồng
tiền. Liên minh tiền tệ là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh tế,
nó có những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống nhất
thay thế cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất chính
sách lưu thông tiền tệ; xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân
hàng Trung ương của các nước thành viên; Xây dựng chính sách tài chính,
tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước đồng minh và các tổ chức tiền tệ quốc tế. 9
Chương 2: Thành tựu và hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
2.1. Tổng quan về tình hình hội nhập kinh tế của Việt Nam từ khi mở cửa đến nay.
Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995 đã mở đầu cho tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sự kiện Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sự kiện đánh dấu
bước hội nhập toàn diện của Việt Nam với nền kinh tế thế giới.
Trên nền tảng đó, giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã tích cực, chủ động
trong đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do mới với các đối tác.
Việt Nam đã tham gia thiết lập 16 Hiệp định thương mại tự do với 56 quốc
gia và nền kinh tế trên thế giới, bao gồm: AFTA (đối tác ASEAN) có hiệu lực
từ năm 1993; ACFTA (đối tác ASEAN, Trung Quốc), có hiệu lực từ năm
2003; AKFTA (đối tác ASEAN, Hàn Quốc), có hiệu lực từ năm 2007; AJCEP
(đối tác ASEAN, Nhật Bản), có hiệu lực từ năm 2008; VJEPA (đối tác Việt
Nam, Nhật Bản), có hiệu lực từ năm 2009; AIFTA (đối tác ASEAN, Ấn Độ),
có hiệu lực từ năm 2010; AANZFTA (đối tác ASEAN, Úc, New Zealand), có
hiệu lực từ năm 2010; VCFTA (đối tác Việt Nam, Chi Lê), có hiệu lực từ năm
2014; VKFTA (đối tác Việt Nam, Hàn Quốc), có hiệu lực từ năm 2015; Việt
Nam - EAEU FTA (đối tác Việt Nam, Nga, Belarus, Amenia, Kazakhstan,
Kyrgyzstan), có hiệu lực từ năm 2016; CPTPP (Tiền thân là TPP) (đối tác
Việt Nam, Canada, Mexico, Peru, Chi Lê, New Zealand, Úc, Nhật Bản, 10
Singapore, Brunei, Malaysia), có hiệu lực từ ngày 30/12/2018, có hiệu lực tại
Việt Nam từ ngày 14/1/2019.
FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực: AHKFTA (đối tác ASEAN, Hồng
Kông (Trung Quốc)), ký tháng 11/2017; AHKFTA (đối tác ASEAN, Hồng
Kông (Trung Quốc), ký tháng 11/2017.
Kết thúc đàm phán nhưng chưa kí: EVFTA (đối tác Việt Nam, EU (28
thành viên)), Kết thúc đàm phán tháng 2/2016.
FTA đang đàm phán: RCEP (đối tác ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand), Khởi động đàm phán tháng 3/2013;
Việt Nam - EFTA FTA (đối tác Việt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na uy, Iceland,
Liechtenstein), Khởi động đàm phán tháng 5/2012; Việt Nam - Israel FTA
(đối tác Việt Nam, Israel) Khởi động đàm phán tháng 12/2015. (http://www.trungtamwto.vn).
Trong 16 Hiệp định thương mại tự do, có 6 FTA thế hệ mới là Hiệp
định Việt Nam - EU và Hiệp định CPTPP (tiền thân là TPP). Đây là các FTA
thế hệ mới với diện cam kết rộng và mức cam kết sâu, vượt ra ngoài khuôn
khổ tự do hóa thương mại hàng hóa. Ngoài cam kết về tự do hóa thương mại
hàng hóa và dịch vụ, các nước tham gia còn cam kết trên nhiều lĩnh vực khác
như mua sắm Chính phủ, lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp
nhà nước, đầu tư… Có thể kể đến các FTA “thế hệ mới” như: FTA Việt Nam
- EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây
Dương (TTIP); các FTA ASEAN + 1; FTA Australia - Hoa Kỳ (AUSFTA)...
Như vậy, sau hơn 3 thập kỉ mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế, Việt
Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế quốc tế theo các thang bậc: Từ hẹp đến rộng về đối tác và lĩnh vực
cam kết, từ thấp tới cao về mức độ cam kết. Về hội nhập đa phương, Việt 11
Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như
Ngân hàng Phát triển Á Châu, Quỹ Tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một
tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và
thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Về hội nhập song
phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và 70
vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230
thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương
mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp
định chống đánh thuế hai lần.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có
các nước trong nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở
thành đối tác chiến lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến
lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha.
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế
Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo
ra nhiều tác động tích cực đối với quá trình phát triển của Việt Nam, mặt khác
cũng đưa đến nhiều thách thức đòi hỏi phải vượt qua mới có thể tiếp thu được
những lợi ích to lớn từ quá trình hội nhập kinh tế thế giới đem lại
2.2.1. Tác động tích cực
Hội nhập kinh tế quốc tế là không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những
lượi ích to lớn trong phát triển của các nước, và những lợi ích kinh tế khác
nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng cụ thể là: 12
Thứ nhất, trên cơ sở các hiệp định đã kí kết, các chương trình phát triển
kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa, xã hội... được phối hợp thực hiện giữa các
nước thành viên; từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện thuận lợi để
khai thác toi ưu lợi thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế, từng bước
chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả
hơn; tạo điều kiện và tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và thu hút
đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu.
Thứ hai, tạo nên sự ổn định tương đối để cùng phát triển và sự phản ứng
linh hoạt trong việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia
thành viên, thúc đẩy việc tạo dựng cơ sở lâu dài cho việc thiết lập và phát
triển các quan hệ song phương, khu vực, và đa phương.
Thứ ba, hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy
mô, nguồn lực phát triển, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho dân cư và gia tăng phúc lợi xã hội.
Thứ tư, tạo động lực cạnh tranh, kích thích ứng dụng thành tựu khoa
học công nghệ, đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế; học hỏi kinh
nghiệm quản lý từ các nước tiên tiến.
Thứ năm, tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự thế giới mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả năng duy trì an
ninh, hoà bình, ổn định và phát triển ở phạm vi khu vực và thế giới.
Thứ sáu, giúp hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về
kinh tế phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế; từ đó tăng tính chủ động, tích
cực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.2. Tác động tiêu cực. 13
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó
cũng đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là:
Thứ nhất, tạo ra sức ép cạnh tranh giữa các thành viên khi tham gia hội
nhập, khiến nhiều doanh nghiệp, ngành nghề có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản.
Thứ hai, làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường
khu vực và thế giới. Điều này khiến một quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay khu vực.
Thứ ba, các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở
thành “bãi rác” công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra một số thách thức đối với quyền
lực Nhà nước theo quan niệm truyền thống.
Thứ năm, làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống bị
xói mòn, lấn át bởi văn hóa nước ngoài.
Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia
tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch
bệnh, di dân, nhập cư bất hợp pháp.
Thứ bảy, hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các
nước và nhóm nước khác nhau trong xã hội. Do đó, dễ làm tăng khoảng cách
giàu nghèo, tụt hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội.
2.3. Những thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt
được một số thành tựu nhất định, đóng góp chung vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2018 ước đạt 14
457 tỷ USD, trong đó xuất khảu đạt 239 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
2017. Hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống và
mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới. Đặc biệt, xuất khẩu
sang thị trường các nước các hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam
đều có tốc độ tăng cao so với năm 2017. Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các thị
trường đã kí kết FTA đạt khoảng 40%, tăng mạnh so với con số khoảng 35%
các năm trước. Điều đó cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng chú
trọng tới việc khai thác các cơ hội từ hội nhập và thực thi các FTA.
Sau hơn 30 năm thu hút vốn dầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), hiện
cả nước có khoảng 334 tỷ USD vốn đăng kí mới hơn 26.600 dự án còn hiệu
lực. Theo đó, khu vực FDI đã ngày càng phát triển, trở thành một trong những
khu vực năng động nhất của nền kinh tế. FDI đã đóng góp lớn trong việc gia
tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Đến nay, khu vực FDI
chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 70% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Khu vực FDI đã góp phần tăng thu ngân sách, tạo việc
làm cho người dân, ổn định tình hình xã hội. Riêng năm 2018, Việt Nam đã
thu hút 1918 dự án cấp phép mới, với số vốn đăng ký đạt hơn 13,481 tỷ USD,
tăng 18,1% về số dự án và 0,2% về vốn đăng kí so với năm 2017.
FDI có vai trò quan trọng, trở thành “Điểm sáng” của nền kinh tế Việt
Nam. FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện FDI đã tạo
ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành
công nghiệp chủ lực như viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin,...
Đây là nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn cũng như thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hội nhập kinh tế tiếp tục tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế nước
ta. Đồng thời, góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, đưa quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là đối tác ưu tiên, quan
trọng đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững; quan hệ với các nước lớn tiếp tục 15
được củng cố và thúc đẩy hài hòa, tranh thủ được các yếu tố tích cực, hạn
chế được những bất đồng để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất
nước, nâng cao vị thế của quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập đối tác
chiến lược với 16 quốc gia, đối tác toàn diện với 14 quốc gia và quan hệ chiến
lược đặc biệt với Lào và Campuchia. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối
tác toàn diện tiếp tục được thúc đẩy phát triển, phát huy được các mặt tích
cực. Việt Nam đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất
là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển, an ninh của
đất nước. Cụ thể hóa và đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào chiều sâu, thực chất,
tạo sự đan xen, gắn kết giữa lợi ích của Việt Nam với các nước. Trong 30
quốc gia đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, có 8/10 thị trường xuất khẩu
chính của Việt Nam, chiếm 60,7% tổng giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập
khẩu chính, chiếm 74,7% tổng giá trị nhập khẩu; 76,7% tổng lượng du khách
và 74% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên mọi
mặt, chuyển từ “tham dự” sang chủ động “tham gia”, tích cực đóng góp, xây
dựng, định hình các thể chế khu vực và toàn cầu tạo thuận lợi cho hội nhập
kinh tế, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế. Trong đó nổi bật là Việt
Nam đã tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết, hợp tác
và tự cường. Đặc biệt, Việt Nam đảm nhiệm tốt vai trò nước chủ nhà trong tổ
chức các Hội nghị quốc tế, trong đó Việt Nam đã tổ chức thành công Năm
APEC Việt Nam 2017, đã tranh thủ tốt vị trí nước chủ nhà, khẳng định được
vai trò và khả năng của Việt Nam trong việc xử lý những vấn đề quốc tế và
khu vực; Hội nghị WEF ASEAN 2018 tại Việt Nam được đánh giá là hội nghị
khu vực thành công nhất trong lịch sử 27 năm của Diễn đàn Kinh tế Thế giới;
Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ 2 cùng nhiều sáng kiến hợp tác cụ
thể tại các diễn đàn đa phương cho thấy rõ vai trò và vị thế ngày càng tăng
của Việt Nam trong khu vực và thế giới. 16
2.4. Hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 do Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày trước Quốc hội chỉ rõ: công tác hội nhập
trong nước còn yếu, chưa khai thác có hiệu quả các lợi ích của hội nhập kinh
tế quốc tế. Trong đó, nổi bật là các yếu kém:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm bộc lộ những yếu
kém cơ bản của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn
chưa được cải thiện về căn bản. Tăng trưởng thời gian qua phần nhiều dựa
vào các yếu tố như tín dụng, lao động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của
việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức, công nghệ.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao như mong muốn, chậm đổi mới
chính sách liên quan đến thu hút FDI. Việc thu hút các dự án FDI tăng về số
lượng, nhưng chất lượng chưa đảm bảo, công nghệ chưa tốt, đặc biệt công
nghệ trong những lĩnh vực Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng. Ngân
hàng Thế giới (WB) nhận xét: “Vốn FDI gắn kết với kinh tế trong nước còn
kém, kết nối trong nước chủ yếu ở các lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp: hầu
hết đầu vào (70- 80%) đều phải nhập khẩu” . Nhận xét đó, dù rất đáng lưu
tâm, nhưng chưa cho thấy sự bành trướng của khu vực FDI trong nền kinh tế Việt Nam
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của
Việt Nam vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Các
ngành kinh tế, các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng vươn ra
chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới chưa nhiều, một số sản phẩm đã bắt
đầu gặp khó khăn trong cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm. 17
Thứ tư, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tuy đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập,
chưa đồng bộ, đôi khi lúng túng trong việc xác định hướng đi. Các thị trường
bất động sản, tài chính, lao động, khoa học - công nghệ tuy đã hình thành và
phát triển nhưng vẫn cần có sự cải thiện.
Thứ năm, đã xuất hiện các điểm “cổ chai” về thể chế, cơ sở hạ tầng,
nguồn nhân lực... gây cản trở cho quá trình phát triển. Trong đó, nguồn nhân
lực và cơ sở hạ tầng là các nội dung đặc biệt quan trọng, cần lưu tâm để có thể
vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, một số địa phương lúng túng trong việc triển khai công tác hội
nhập kinh tế quốc tế. Vẫn tồn tại khoảng cách khá xa về năng lực và thiếu sự
gắn kết, hỗ trợ giữa khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Công tác thông tin truyền thông về hội nhập, năng
lực giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế; chưa tận
dụng được hết các cơ hội do các hiệp định FTA mang lại. 18
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1. Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức.
Ngày 5/11/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết số 06- NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nghị quyết chỉ rõ:
Thứ nhất, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng
và hội nhập quốc tế nói chung; nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã
hội, đặc biệt là của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế,
đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và
thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bằng các hình thức, nội
dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng, hiệp hội, doanh
nghiệp và cộng đồng; chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ động,