Tiểu luận tài chính tiền tệ - NHTM tại Singapore trong giai đoạn chuyển đổi số | Học viện Ngân Hàng

Tiểu luận tài chính tiền tệ - NHTM tại Singapore trong giai đoạn chuyển đổi số | Học viện Ngân Hàng với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
I - Cơ sở lý thuyết......................................................................................................................3
1. Khái niệm...........................................................................................................................3
2. Phân loại ngân hàng..........................................................................................................3
2.1. Phân loại ngân hàng thương mại dựa vào hình thức sở hữu.........................................3
2.2. Phân loại Ngân hàng thương mại dựa vào chiến lược kinh doanh...............................4
3. Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng................................................................................5
4. Nghiệp vụ tài sản nợ..........................................................................................................6
4.1. Vốn của ngân hàng.......................................................................................................6
4.2. Vốn tiền gửi..................................................................................................................7
4.3. Vốn đi vay....................................................................................................................8
II. Thực trạng của hoạt động trung gian tài chính tại Singapore trong giai đoạn chuyển
đổi số...........................................................................................................................................9
II.1. Thực trạng hoạt động ngân hàng Singapore trước giai đoạn chuyển đổi số...........9
1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng Singapore..................................................................9
2. Các loại ngân hàng........................................................................................................10
II.2. Tác động của thời kì chuyển đổi số đến ngân hàng Singapore...............................12
1. Sự xuất hiện của Ngân hàng Kỹ thuật số (Digital Banking).........................................12
2. Kết luận..........................................................................................................................15
III - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam...............................................................................16
KẾT LUẬN..............................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................21
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển đổi số một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm
đến vấn để chuyển đổi số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 giao cho Bộ
Thông tin &Truyền thông xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia trình Đề án cho
Thủ tướng ngay trong năm 2019.
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể nào về chuyển đổi số vì sự khác biệt
của các ngành nghề lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để có thể định nghĩa một
cách ngắn gọn và dễ hiểu thì chuyển đổi số (Digital Transformation trong tiếng Anh) là
sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp,
tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, hình kinh doanh
và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc các
hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa và cách thức
hoạt động của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử
nghiệm cái mới. Tại Việt Nam, khái niệm “Chuyển đổi số” thường được hiểu theo
nghĩa quá trình thay đổi từ hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp
số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật
(IoT), điện toán đám mây (Cloud)… nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo,
quy trình làm việc, văn hóa công ty.
Không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng
vai trò quan trọng trong các lĩnh vực khác của xã hội như truyền thông đa phương tiện,
y học, giáo dục…
Theo nghiên cứu năm 2017 của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, năm 2017,
tác động chuyển đổi số mang lại cho GDP là khoảng 6%, năm 2019 25% tới
năm 2021 là 60%.
Kết quả nghiên cứu của McKensey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động
của chuyển đổi số tới GDP của nước Mỹ khoảng 25%, với đất nước Brazil 35%,
còn các nước Châu Âu khoảng 36%. Từ đây, thể thấy khả năng tác động của
chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất lớn.
Tốc độ phát triển của công nghệ đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau
trong đời sống ngành ngân hàng cũng không ngoại lệ.đã mở ra kỷ nguyên mới
2
cho ngành ngân hàng để tối ưu hóa tất cả các thủ tục phức tạp, tiếp cận đến khách hàng
nhanh gọn nhất thể. Chính vậy chủ đề nhóm chúng em tập trung nghiên cứu
là: “Trung gian tài chính của các quốc gia trong giai đoạn chuyển đổi số” đất
nước mà chúng em hướng đến để tìm hiểu chính là Singapore.
VIỆN PHÁT TRIỂN QUẢN LÍ, ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT KẾ SINGAPORE
Đồ họa: Straits Times
Thành tựu của Singapore phần lớn nhờ các chính sách thuộc cấp thành phố lẫn
quốc gia của nước này - đặc biệt trong các dịch vụ chính phủ điện tử, giáo dục
các chiến lược đô thị hoá lấy con người làm trung tâm. Lựa chọn Singapore đất
nước để nghiên cứu với mục tiêu sẽ tìm ra được những “bí kíp” của nước bạn để rút ra
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3
I - Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là
thường xuyên nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng s
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ sự chuyển hướng phân biệt tài sản có, Ngân hàng thương mại được hiểu
một ngân hàng có những đặc trưng sau:
Tiền gửi của công chúng (có kỳ hạn, không có kỳ hạn và tiết kiệm)
Vốn tự có của các ngân hàng do các cổ đông góp
Vốn vay của công chúng bằng cách phát hành phiếu nợ (trái phiếu, cổ phiếu)
Vốn hoặc tài sản do các đơn vị đem lại cầm cố
Đối tượng cho vay của Ngân hàng thương mại chủ yếu là: Thương mại sản xuất
công nghiệp tiểu thủ công nghiệp…đầu hoặc hùn hạp xây dựng nghiệp, khu
công nghiệp rồi bán lại cổ phần.
2. Phân loại ngân hàng
2.1. Phân loại ngân hàng thương mại dựa vào hình thức sở hữu
Dựa vào hình thức sở hữu các Ngân hàng thương mại được chia ra thành các loại
gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng
liên doanh, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, Ngân hàng tư nhân.
Ngân hàng thương mại quốc doanh: Ngân hàng được thành lập từ vốn
thuộc ngân sách nhà nước, trụ cột của nền kinh tế. Việt nam, ban đầu
những ngân hàng này những ngân hàng chuyên doanh, đến năm 1992 thì
đổi tên thành ngân hàng kinh doanh đa năng. dụ: Ngân hàng TMCP
Vietinbank.
Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP): Ngân hàng được thành lập từ
vốn góp của các cổ đông, kinh doanh đa năng. Hệ thống ngân hàng TMCP
bao gồm hai loại: Ngân hàng TMCP đô thị Ngân hàng TMCP nông thôn.
Hiện nay, tất cả các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đều ngân hàng
TMCP và được thức hiện đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng. ví
dụ: Ngân hàng TMCP SeaBank, Ngân hàng TMCP ACB,…
4
Ngân hàng liên doanh: ngân hàng do các liên doanh góp vốn, tỷ lệ đóng
góp của các đối tác nước ngoài không không quá 50% vốn điều lệ. dụ:
Ngân hàng Liên doanh ShinhanVina, Ngân hàng liên doanh INdovina
Ngân hàng nhân: Do nhân thành lập bằng vốn của nhân đó. Loại
hình Ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp; thường mối
quan hệ tốt với khách hàng. Tuy nhiên, loại hình ngân hàng nhân theo
cách tiếp này chưa xuất hiện tại Việt Nam
2.2. Phân loại Ngân hàng thương mại dựa vào chiến lược kinh doanh
Dựa vào chiến lược kinh doanh các Ngân hàng thương mại được chia ra thành:
Ngân hàng thương mại bán buôn, Ngân hàng thương mại bán lẻ, Ngân hàng thương
mại vừa bán buôn vừa bán lẻ:
Ngân hàng thương mại bán buôn: Ngân hàng thương mại tập trung nhằm
đến đối tượng khách hàng các công ty, các tập đoàn kinh tế, các doanh
nghiệp, các xí nghiệp lớn. Doanh mục sản phẩm ngân hàng loại này cung cấp
cho khách hàng thường không đa dạng tuy nhiên giá trị của từng giao dịch
thường rất lớn.
Ngân hàng thương mại bán lẻ: ngân hàng tập trung khai thác nhóm đối
tượng khách hàng nhân hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng
loại này thường chú trọng đến việc đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng các
nhu cầu của nhiều khách hàng. Tuy giá trị của từng sản phẩm không lớn
nhưng lại một lực lượng khách hàng rất lớn. Hoạt động của ngân hàng
này chủ yếu huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, cho vay để giải
quyết vấn đề tiêu dùng hoặc các dự án sản xuất với quy mô nhỏ và vừa
Ngân ng thương mại vừa bán buôn, vừa bán lẻ: ngân hàng thực hiện
song song cả hoạt động bán buôn bán lẻ. Ngân hàng này nhằm vào tất cả
các khách hàng từ nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ đến tổng
công ty, các tập đoàn lớn. dụ: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
(VietinBank), Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (Seabank).
5
3. Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng
Nghiệp vụ tài sản của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ liên
quan đến việc sử dụng các khoản vốn sử dụng các khoản vốn huy động được từ
Nghiệp vụ tài sản nợ.
- Nghiệp vụ ngân quỹ: Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên, ngân hàng luôn giữ tiền mặt dưới các dạng sau
Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng: dùng để duy trì mức tồn quỹ tiền mặt để
thực hiện chi trả trong ngày
Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng
Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: để phục vụ các hoạt động thanh toán
giữa các ngân hàng thông qua vai trò trung gian thanh toán của NHTW
Tiền gửi trong quá trình thu: khoản phát sinh do quan hệ thanh toán vãng
lai giữa các ngân hàng, khi ngân hàng hàng đã ghi vào bên nợ nhưng thực
chất lại chưa nhận được tiền
- Nghiệp vụ cho vay: Hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu
của các Ngân hàng trung gian nói chúng Ngân hàng thương mại nói riêng. Hoạt
động cho vay rất đa dạng và phong phú. Có thể nêu một số loại hình như sau:
Cho vay trước: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho người
đi vay một khoản tiền vay nhất định sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả
lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc
Cho vay thấu chi: là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó Ngân
hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền trên tài khoản vãng lai
trong một hạn mức thời hạn nhất định trên sở hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng với khách hàng. Hình thức cho vay này thường chỉ được áp dụng
cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.
Cho vay chiết khấu là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại
các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên
thương phiếu. Khi đến hạn trả tiền thì ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi
trên thương phiếu người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của Ngân hàng
chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu
6
Cho vay tiêu dùng: hình thức tín dụng trong đó ngân hàng tài trợ cho nhu
cầu tiêu dùng của nhân. Tín dụng tiêu dùng thường dưới hình thức cho
vay để mua trả góp hoặc cho vay qua việc phát hành thẻ tín dụng.
Nghiệp vụ cho vay được xem hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng.
thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản của Ngân Hàng
(khoảng 70%)
- Nghiệp vụ đầu : nghiệp vụ ngân hàng dùng vốn của mình mua các
chứng khoán (các chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty lớn-luật của
Mỹ không cho phép ngân hàng được phép nắm giữ cổ phiếu) hoặc đầu tư theo dự án
- Những tài sản khác: đó những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc,
trang thiết bị dùng cho hoạt động do Ngân hàng sở hữu
4. Nghiệp vụ tài sản nợ
4.1. Vốn của ngân hàng
Là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó bao gồm vốn tự có và vốn coi như
tự có.
4.1.1 Vốn tự có:
Vốn điều lệ là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, được ghi trong bản điều lệ
của ngân hàng, và được hình thành ngay từ khi ngân hàng thương mại được thành lập.
Vốn điều lệ có thể được điều chỉnh tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
Quỹ dự trữ: quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ quỹ dự trữ đặc biệt để đắp
rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Việc hình
thành các quỹ này nhằm làm tăng vốn tự có của Ngân hàng, đồng thời đảm bảo an toàn
trong kinh doanh.
4.1.2. Vốn coi như tự có
Vốn coi như tự có bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây
những khoản vốn đã được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng
tạm thời chưa được sử dụng
- Vốn tự bản gồm: cổ phần thường, cổ phần ưu đãi dài hạn, thặng dư vốn,
lợi nhuận không chia, dự phòng chung các khoản dự trữ vốn khác, các phương tiện ủy
thác có thể chuyển đổi và dự phòng lỗ tín dụng
7
- Vốn tự bổ sung gồm: cổ phần ưu đãi thời hạn, các trái phiếu bổ sung
giấy nợ
4.2. Vốn tiền gửi
Khái niệm: vốn do NHTM huy động từ các cá nhâncác tổ chức thông qua
việc thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền gửi, thanh toán các nghiệp vụ kinh doanh
khác và được dùng để làm vốn kinh doanh.
Tính chất: Không thuộc sở hữu của NHTM, tính biến động cao, chiếm tỷ trọng
lớn hơn trong tổng nguồn vốn của NHTM, ảnh hưởng tới chi phí rủi ro của NHTM
TG không kỳ hạn TG có kỳ hạn TG tiết kiệm
Khái niệm
Là loại tiền mà
người gửi tiền có thể
rút ra bất cứ lúc nào
Là loại tiền gửi mà KH
gửi vào NH trong một
khoảng thời gian xác
định với mục đích sinh
lời
Là tiền được gửi vào
ngân hàng nhằm mục
đích tích lũy an toàn và
hưởng lãi
Đối tượng
khách
hàng
KH cá nhân hoặc tổ
chức gửi tiền
Thường là doanh
nghiệp hoặc tổ chức có
tiền nhàn rỗi trong
khoảng thời gian nhất
định
Thường là KH cá nhân
có tiền nhàn rỗi có nhu
cầu gửi tiền vào tài
khoản tiết kiệm tại NH
Mục tiêu
An toàn tài sản và
thực hiện các khoản
thanh toán qua NH
Sinh lời, an toàn
Tích lũy, sinh lời, an
toàn
Hình thức
thể hiện
Hợp đồng tiền gửi/
chứng nhận tiền gửi
không kỳ hạn
Hợp đồng tiền gửi/
chứng nhận tiền gửi có
kỳ hạn
Sổ tiết kiệm
4.3. Vốn đi vay
- Khái niệm: là nguồn vốn hình thành do quan hệ vay mượn giữa NHTM với các
tổ chức tín dụng khác với ngân hàng nhà nước
- Đáp ứng nhu cầu thanh khoản nhanh chóng, mức ổn định trung bình
8
- Lãi suất thường xuyên biến động
4.3.1. Vay từ ngân hàng trung ương
Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cho phép
thành lập hoạt động đều hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng trung ương trong trường
hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới
hai hình thức: chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ giá cho vay thế chấp
hay ứng trước.
4.3.2. Vay ngắn hạn các khoản dự trữ của các tổ chức tín dụng khác
Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo quy định
của ngân hàng trung ương. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại
những ngày cho vay quá nhiều dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ bắt buộc tại ngân hàng
trung ương. Trong khi đó lại một vài ngân hàng thương mại khác thừa dự trữ. Để
đảm bảo dự trữ theo quy định của ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại thiếu
hụt dự trsẽ vay của ngân hàng thương mại có dự trữ thừa. Thời hạn của loại cho
vay này rất ngắn, thường không quá một tuần.
4.3.3. Vay từ các công ty
Ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại còn có thể vay trực tiếp từ các công
ty:
Vay ngắn hạn bằng các Hợp đồng mua lại: Hợp đồng mua lại là hợp đồng trong
đó ngân hàng bán các tín phiếu kho bạc mà mình đang nắm giữ cho các tổ chức kinh tế
đang tạm thời thừa tiền mặt, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài
ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn. Về thực chất đây một công cụ để vay
nợ ngắn hạn (thường không quá hai tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín
phiếu kho bạc làm vật thế chấp.
Vay từ công ty mẹ: Ở các nước phát triển, một công ty hoặc tập đoàn kinh doanh
thể chủ của một hoặc nhiều ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng thương mại
phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền từ thị trường, sẽ chịu sự quản
ràng buộc của ngân hàng trung ương về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Các công ty mẹ của
ngân hàng thường thay thế phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hay các loại
9
thương phiếu để huy động vốn, sau đó chuyển vốn huy động được về cho ngân hàng
hoạt động dưới hình thức cho vay lại.
4.3.4. Vay từ thị trường tài chính trong nước
Các ngân hàng thương mại có thể vay từ thị trường tài chính thông qua phát hành
các chứng từ có giá như - thường với chứng chỉ tiền gửi khả năng chuyển nhượng
thời gian đáo hạn không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành trái phiếu ngân hàng -
với thời hạn vay thường từ 2 năm trở lên.
4.3.5. Vay nước ngoài
Các ngân hàng thương mại cũng thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc
phát hành phiếu nợ để vay tiền nước ngoài. Do loại tiền sử dụng trong thanh toán
quốc tế hiện nay là USD cho nên vay tiền ở nước ngoài thường vay bằng USD.
4.4. Các nguồn vốn khác
- vốn được hình thành trong quá trình cung cấp dịch vụ cho KH (vốn trong
thanh toán và nghiệp vụ đại lý): Vốn tài trợ, vốn đầu phát triển, vốn uỷ thác đầu
để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng v.v...
- Mức độ ổn định không cao
- Chi phí thấp
II. Thực trạng của hoạt động trung gian tài chính tại Singapore trong
giai đoạn chuyển đổi số.
II.1. Thực trạng hoạt động ngân hàng Singapore trước giai đoạn chuyển đổi
số
1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng Singapore
Singapore được biết là một trung tâm kinh tế tài chính Châu Á Thái Bình Dương
với mạng lưới liên kết to lớn trên quốc tế. Đất nước này còn nơi tập trung chuyên
sâu của nhiều trụ sở chính thuộc những công ty đa vương quốc và là một cầu nối giữa
những doanh nghiệp quốc tế với thị trường Châu Á Thái Bình Dương.
Khó để tìm ra một ngành nào khác góp phần sự tăng trưởng vượt bậc của quốc
đảo này hơn ngành ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Singapore nổi tiếng với những
dịch vụ mang tầm quốc tế cho người mua trong và ngoài nước.
10
hai yếu tố chính dẫn đến thành công xuất sắc cho mạng lưới hệ thống ngân
hàng Singapore là:
Sự Ổn định Singapore nhiều năm liền đứng đầu trong danh sách những ngân
hàng với tính ổn định cao nhất trên thế giới. Điều này được khả thi hóa do hệ thống
ngân hàng được điều hành bởi một chính phủ hiệu quả, với hệ thống nhà nước pháp
quyền và chỉ số tham nhũng cực kỳ thấp.
Tính Bảo mật Tính bảo mật của khách hàng được đảm bảo trong mục 47 của
Đạo luật Ngân hàng. Trừ khi căn cứ luật pháp chứng minh trốn thuế hay tội phạm
tài chính, thông tin khách hàng sẽ không được tiết lộ ra công chúng.
2. Các loại ngân hàng
Tại Singapore, có hai loại ngân hàng chính – trong nước và quốc tế. Nhìn chung,
những ngân hàng trong nước có quyền tự do cung ứng những dịch vụ ngân hàng nhiều
hơn những ngân hàng quốc tế.
2.1. Ngân hàng nội địa
Hiện tại, toàn bộ những ngân hàng trong nước ở Singapore đều hoạt động giải trí
như một ngân hàng toàn nhiệm vụ. Loại ngân hàng này phân phối phong phú những
dịch vụ theo luật Ngân hàng được cho phép, gồm thông tin tài khoản vãng lai
thông tin tài khoản tiết kiệm ngân sách và chi phí, máy ATM, thẻ tín dụng thanh toán
và thẻ ghi nợ, thế chấp ngân hàng và cho vay.
Có ba ngân hàng nội địa chính yếu ở Singapore :
DBS sát nhập với Ngân hàng POSB vào năm 1998. Việc này giúp DBS hoàn
toàn thể lan rộng ra thị trường của mình lên bốn triệu người dùng. DBS ngân
hàng lớn nhất Khu vực Đông Nam Á tính theo quy mô gia tài. Ngân hàng cũng
hơn 100 văn phòng số lượng máy ATM cao nhất Singapore, điều này khiến DBS
hoàn toàn có thể truy vấn từ mọi nơi trên quốc đảo này.
UOB được xây dựng vào năm 1935. UOB ngân hàng lớn thứ ba Khu vực
Đông Nam Á, với gần 70 Trụ sở tại Singapore 500 trên toàn quốc tế. UOB phân
phối những dịch vụ khác nhau như ngân hàng kinh doanh nhỏ/thương mại, quản lý tài
sản, những dịch vụ bảo hiểm. Ngân hàng này nổi tiếng với tính năng UOB One
Account vì mang lại lãi suất vay khá mê hoặc.
11
OCBC – Đây ngân hàng lớn thứ hai tại Singapore,chi nhánh và văn phòng
đại diện tại 18 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2019, ngân hàng này được
Tạp chí Global Finance trao giải Ngân hàng Tốt nhất Thế giới. Đáng chú ý, tài
khoảncủa nó không yêu cầu số dư trung bình tối thiểu hàng tháng, phù hợp cho những
ai không muốn gặp phải vấn đề khi số dư của họ thấp hơn mức quy định.
2.2. Ngân hàng quốc tế
Ngân hàng Toàn Nghiệp vụ (Full Bank)là những ngân hàng có quyền lan rộng
ra khu vực kinh doanh thương mại lên đến 25 khu vực, tham gia mạng lưới ATM liên
kết trong nước, cho vay thời gian ngắn cho chủ thẻ tín dụng thanh toán trải qua
ngân hàng địa phương. Ví dụ cho loại ngân hàng này gồm có HSBC, Bank of America,
India Bank, Bank of China và Standard Chartered.
Ngân hàng Bán buôn (Wholesale Bank) ngân hàng phân phối phong phú dịch
vụ cho những người mua lớn như những quan quan chính phủ, những tập đoàn
lớn đa vương quốc những tổ chức triển khai kinh tế tài chính khác. Các dịch vụ
được phân phối thường gồm có quy đổi tiền tệ, mua và bán và sáp nhập, tư vấn và ứng
trước tiền mặt.dụ : National nước Australia Bank Ltd., Barclays Bank, Land Bank
of Taiwan và Korea Development Bank.
Ngân hàng ngoại cảnh Offshore những ngân hàng ngoại cảnh này thực thi
thanh toán giao dịch trải qua hai đơn vị chức năng kế toán khác nhau, Đơn vị ngân
hàng trong nước Đơn vị tiền tệ châu Á. Tất cả những ngân hàng offshore
Singapore đều hoạt động giải trí như Trụ sở của ngân hàng quốc tế. Ví dụ như Bank of
Taiwan, Bank of New Zealand, Shinhan Bank, và Philippine National Bank.
Ngân hàng Chuyên doanh (Merchant Bank) ngân hàng chuyên doanh hoạt
động giải trí dưới sự giám sát của Đạo luật Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS Act). Họ
phân phối những dịch vụ như quản trị hạng mục góp vốn đầu tư, bảo lãnh phát hành và
sắp xếp cho vay. Ví dụ : Schroder và Co. (Asia) Ltd., Bordier và CIE (Singapore),
Ltd., Axis Bank Ltd.
12
II.2. Tác động của thời kì chuyển đổi số đến ngân hàng Singapore
1. Sự xuất hiện của Ngân hàng Kỹ thuật số (Digital Banking)
1.1. Ngân hàng kỹ thuật số là gì?
Ngân hàng kỹ thuật số (KTS) là một mô hình mới trong mạng lưới hệ thống ngân
hàng Singapore. hoàn toàn thể cung ứng phong phú những dịch vụ kinh tế tài
chính như những ngân hàng truyền thống lịch sử.
Điểm độc lạ chính đây ngân hàng KTS sẽ không văn phòng thanh toán
giao dịch, những dịch vụ này sẽ trọn vẹn trực tuyến. Điều này được cho phép người
mua trấn áp những khoản tiết kiệm chi phí kinh tế tài chính của họ từ điện thoại
cảm ứng mưu trí và máy tính bất kỳ nơi nào.
Ngân hàng DBS được công nhận Ngân hàng số đầu tiên trên thế giới. Ngân
hàng UOB đầu hơn 2 tỷ SGD cho hạ tầng, nền tảng công nghệ API, cải thiện trải
nghiệm khách hàng từ nắm 2014 đến nay.
Chính phủ Singapore đã dành sự ưu tiên về ngân sách chế thuận lợi để
GovTech xây dựng lực lượng mạnh về công nghệ, triển khai, nghiên cứu phát triển các
giải pháp và nền tảng số, đặc biệt cho lĩnh vực tài chính - ngân hàng Fintech.
Vào đầu năm 2020, quan Tiền tệ Singapore đã cấp giấy phép hoạt động giải
trí ngân hàng KTS cho bốn công ty.Giấy phép ngân hàng kỹ thuật số ý nghĩa trong
việc giúp các dịch vụ tài chính dễ tiếp cận hơn đối với các phân khúc chưa được phục
vụ như các doanh nghiệp vừa nhỏ. Theo quy định của nước này, giấy phép ngân
hàng kỹ thuật số gồm hai loại DFB (giấy phép ngân hàng kỹ thuật số đầy đủ)
DWB (giấy phép ngân hàng bán buôn kỹ thuật số). Có thể thấy rằng, bản chất ban đầu
là các doanh nghiệp không hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, do vậy, khi các doanh
nghiệp mong muốn thực hiện các nghiệp vụ dưới dạng số hóa thì doanh nghiệp phải
tiến hành xin giấy phép ngân hàng kỹ thuật số. Để được cấp giấy phép ngân hàng kỹ
thuật số thì đơn vị xin cấp phải đáp ứng các điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, ít nhất một pháp nhân trong nhóm ứng viên có từ 03 năm trở lên trong
việc điều hành một doanh nghiệp hiện trong lĩnh vực công nghệ hoặc thương mại
điện tử. Ở đây, điều kiện về hiểu biết công nghệ số được xem tiêu chí bắt buộc đầu
tiên để một doanh nghiệp thực hiện ngân hàng kỹ thuật số, có thể vì xuất phát từ chính
tính chất quan trọng của các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nên khi chúng được
13
vận hành với một cách thức khác, cách thức số, so với cách thức truyền thống, thì
MAS đã đặt ra điều kiện này với chủ đích nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng
công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng và tạo niềm tin nơi khách hàng.
Thứ hai, chứng minh khả năng đáp ứng các điều kiện về vốn. Đối với DFB, vốn
thanh toán tối thiểu ban đầu là 15 triệu đô la Singapore trước khi tăng dần lên 1,5 tỷ đô
la Singapore; còn với DWB, số vốn đã trả 100 triệu đô la Singapore. đây, điều
kiện về vốn được xem là yếu tố quan trọng bởi nếu không đáp ứng, thì doanh nghiệp
không thể thực hiện chuyển đổi số bởi lĩnh vực ngân hàng mang tính chất rủi ro cao,
nếu không đáp ứng tiêu chí về nguồn vốn thì doanh nghiệp không thể duy trì được quá
trình vận hành liên tục, dòng vốn không ổn định, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của
khách hàng và sự bình thường trong hoạt động ngân hàng.
Thứ ba, tính bền vững trong mô hình kinh doanh của ngân hàng kỹ thuật số bằng
cách đưa ra các dự báo tài chính 05 năm của ngân hàng được đề xuất phải theo
hướng lợi nhuận. Dự báo này phải được xem xét bởi một chuyên gia độc lập với
ngân hàng. Để đảm tính chính xác, sự trung thực thì việc đánh giá bởi một chuyên gia
bên ngoài là điều cần thiết.
Đối tượng của đơn xin cấp phép hoạt động ngân hàng kỹ thuật số các công ty
có trụ sở chính tại Singapore và do người có quốc tịch là Singapore kiểm soát. Tiêu chí
kiểm soát đây được xác định dựa trên yếu tố phần trăm cổ phần ngườiy nắm
giữ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nước ngoài vẫnthể tham gia hoạt động ngân hàng
kỹ thuật số với điều kiện thành lập một liên doanh với một công ty trong nước
cũng phải đáp ứng yêu cầu về trụ sở chính và quyền kiểm soát như đã đề cập. Một vấn
đề đặt ra là sau khi được cấp giấy phép, các ngân hàng kỹ thuật số sẽ không hoạt động
ngay mà MAS sẽ chia thành với mục đích là giảm thiểu rủi ro cho ngân hai giai đoạn
hàng số thời điểm ban đầu, cụ thể:
Giai đoạn đầu: Ngân hàng kỹ thuật số sẽ bị hạn chế. Tại thời điểm bắt đầu, tức là
02 năm đầu, ngân hàng kỹ thuật số sẽ phải tuân thủ các hạn chế sau:
- Giới hạn về tiền gửi: Tiền gửi tổng hợp sẽ được giới hạn mức 50 triệu đô la
Singapore tiền gửi của nhân sẽ được giới hạn mức 75 triệu đô la Singapore.
Ngoài ra, ngân hàng kỹ thuật số chỉthể nhận tiền gửi từ một nhóm nhỏ như đối tác
kinh doanh, nhân viên hoặc các bên có liên quan.
14
- Hạn chế kinh doanh: Ngân hàng số chỉ thể cung cấp các sản phẩm tín dụng
đầu đơn giản, điều này cũng đồng nghĩa rằng, ngân hàng không được cung cấp
các sản phẩm đầu tư phức tạp và mang tính chất rủi ro cao. Bên cạnh đó, ngân hàng kỹ
thuật số cũng sẽ không được tham gia vào các hoạt động đầu như trong công cụ
phái sinh, tự do kinh doanh không được thiết lập hoạt động tại hai thị trường nước
ngoài trở lên. MAS ngoài việc giới hạn s tiền gửi của nhân, tổ chức thì còn chi
phối cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tức ngân hàng kỹ thuật số chỉ được
phép kinh doanh trong phạm vi cho phép những hoạt động không được thực
hiện.
- Vốn trả trước tối thiểu: Thấp hơn xuất phát từ phạm vi hoạt động hạn chế, cụ
thể là ở mức 15 triệu đô la Singapore.
Tất cả các hạn chế trên xuất phát từ mục đích giúp cho ngân hàng kỹ thuật số
trong giai đoạn đầu thể làm quen thích nghi với cách thức hoạt động số, nhận
biết cơ chế vận hành cũng như đánh giá tình hình, hiệu quả hoạt động của ngân hàng,
từ đó, có hướng điều chỉnh phù hợp. Một khi ngân hàng kỹ thuật số đã hoàn thành giai
đoạn đầu này thì các hạn chế từ MAS về tiền gửi tự do kinh doanh sẽ được nới
lỏng, số vốn trả góp tối thiểu sẽ được nâng lên tương ứng với hồ sơ rủi ro.
Giai đoạn hai: Là giai đoạn chuyển tiếp của giai đoạn đầu, lúc này, ngân hàng kỹ
thuật số sẽ được hoạt động đầy đủ:
Động thái này nhằm mục đích mục tiêu tự do hóa hơn nữa ngành kinh tế tài
chính, làm cho nền kinh tế tài chính kỹ thuật số của vương quốc này bắt kịp với quốc
tế và mang lại nhiều thời cơ góp vốn đầu tư hơn cho những công ty quốc tế.
1.2. Các loại ngân hàng kỹ thuật số
Hiện tại, hai loại ngân hàng kỹ thuật số ngân hàng toàn nhiệm vụ KTS
ngân hàng bán buôn KTS.
Ngân hàng Toàn nghiệp vụ Kỹ thuật số (Digital Full Bank)
Ngân hàng Toàn diện KTS được cho phép nền tảng của phân phối người
mua những dịch vụ ngân hàng thương mại và kinh doanh bán lẻ như tiền gửi, cho vay
và góp vốn đầu tư gia tài;
– Hai ví dụ mới nhất cho loại ngân hàng này là tập đoàn lớn Grab-Singtel và Sea
Limited.
15
Ngân hàng Bán buôn Kỹ thuật số (Digital Wholesale Bank)
Ngân hàng Bán buôn Kỹ thuật số được phép Giao hàng những doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME) với những dịch vụ ngân hàng phi kinh doanh bán lẻ;
Hai dụ cho loại ngân hàng này gồm Ant Group tập đoàn lớn liên kết
kinh doanh giữa Greenland Financial Holdings, Linklogis Hong Kong, Beijing Co-
operative Equity Investment Fund Management.
1.3. Ảnh hưởng của ngân hàng KTS đối với nền kinh tế Singapore
Tạo ra một hình dịch vụ mới dựa trên công nghệ tiên tiến hoàn toàn thể
theo kịp vận tốc tăng trưởng nhanh gọn của ngành fintech – công nghệ tiên tiến kinh tế
tài chính;
Cung cấp những dịch vụ ngân hàng trên nền tảng trực tuyến thay cho ngân hàng
truyền thống lịch sử hoạt động giải trí trải qua những phòng thanh toán giao dịch;
Tạo thời cho ngành ngân hàng kỹ thuật số lan rộng ra mạng lưới người mua
nhiều thông tin hơn về những loại sản phẩm dịch vụ lấy người mua làm TT.
Việc này được triển khai bằng cách thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với những nhà
sản xuất giải pháp thanh toán giao dịch hoặc nền tảng thương mại điện tử.
Ngành ngân hàng kỹ thuật số sẽ tạo ra một thiên nhiên và môi trường cạnh tranh
đối đầu hơn cho nhóm ngân hàng truyền thống lịch sử, thôi thúc quy trình kỹ thuật số
hóa và tăng cấp nhân sự của họ với rất đầy đủ kiến thức kiến thức kỹ năng về
kỹ thuật số.
2. Kết luận
Hệ thống ngân hàng của Singapore là một trong những lý do chính góp phần vào
sự thành công của Singapore – một trung tâm tài chính toàn cầu.
Nhà nước Singapore đã và đang đưa ra nhiều chủ trương khác nhau để tự do hóa
ngành kinh tế tài chính mở ra cánh cửa rộng hơn để nghênh đón những khoản góp
vốn đầu tư từ những công ty trong và ngoài nước.
thể thấy rằng, để trở thành ngân hàng kỹ thuật số là điều không dễ dàng, bởi
phải vừa đáp ứng các điều kiện do MAS đặt ra, vừa phải đảm bảo quy định về
chuyển đổi từ ngân hàng truyền thống sang ngân hàng kỹ thuật số. Có nghĩa rằng, nếu
ngân hàng không đáp ứng một trong các điều kiện đã đặt ra, hoặc giai đoạn đầu của
ngân hàng kỹ thuật số hoạt động không hiệu quả, tiềm ẩn nhiều rủi ro thì sẽ không
16
được phép thực hiện việc chuyển đổi này. Các quy định này bảo vệ tối đa quyền lợi
của khách hàng cũng như duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. khi một ngân
hàng chuyển đổi số thất bại sẽ kéo theo nhiều hệ lụy, trong đó, sự bất ổn trong nền
kinh tế, niềm tin của khách hàng bị ảnh hưởng. Do vậy, chuyển đổi số trong ngân hàng
mặc dù mang lại hiệu quả vô cùng lớn nhưng việc thực hiện lại rất phức tạp.
III - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn, trước hết
để thực hiện thành thành công công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Chính phủ nên sớm
một khung pháp lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp
chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore. Đồng
thời, việc sử dụng chính sách kinh tế vĩ cũng như những hạn chế mục tiêu thời kỳ
đầu là cần thiết để kiềm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân hàng khó
kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh tín dụng phát triển kinh tế theo
“kiểu bong bóng” là nguy cơ tổn thương của hệ thống ngân hàng.
Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng đa dạng các
hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính nhằm khai
thông vốn trong nước, đồng thời thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn và kỹ thuật
cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần cần biện pháp mở cửa
đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng… để nâng cao chất lượng tín
dụng.
Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất khi hệ thống ngân hàng
chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị trường vốn
ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây hiện tượng “thừa vốn”,
dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo ngược dòng
vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính.
Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng, mở rộng
tín dụng thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng, ngành công
nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn
đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải chương trình hành động bước đi thích hợp
với những chi tiết cụ thể, với kinh nghiệm của các nước cần phải chế độ kiểm soát
chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy thất thoát vốn. Tuy nhiên nếu sự can
thiệp quá mức mang tính áp đặt của Chính phủ vào hoạt động ngân hàng sẽ trở nên bị
17
gò bó, thiếu tính linh động, gây khó khăn cho ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc
tế.
Kết hợp đồng bộ, việc sửa đổi hệ thống pháp luật điều chỉnh hàng loạt về chính
sách môi trường kinh tế, cải cách hành chính để mở cửa cho ngân hàng nước ngoài đầu
tư, cởi bỏ mọi hạn chế về quyền sở hữu, hình thức hoạt động, kể cả huy động vốn
giao dịch với các đối tác tiền gửi bằng VND thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại
các địa phương; mở rộng việc cung cấp các dịch vụ cao cấp, dịch vụ chăm sóc khách
hàng, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt… trong đó, cần nghiên cứu nâng tỷ lệ
sở hữu của các cổ đông nước ngoài tham gia đầu vào các ngân hàng thương mại
Việt Nam (trên 30%) nhằm thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào thị trường
tài chính Việt Nam.
Để tăng sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi mở rộng cửa
cho ngân hàng nước ngoài đầu tư, Việt Nam cần tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng
theo hướng đại hóa; tăng vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng đủ sức cạnh tranh với
ngân hàng nước ngoài, đồng thời cũng cố các ngân hàng thương mại trên địa bàn các
địa phương để hạn chế sự thâm nhập lan tỏa của các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại đây.
Hàng loạt các ngân hàng hiện nay đã thực hiện việc chuyển đổi số đạt được nhiều
thành công. Chẳng hạn, TPBank đã triển khai hình ngân hàng LiveBank tự động
hoàn toàn giúp khách hàng chỉ mất 3s để nhận diện 30s xử giao dịch;
Techcombank chú trọng phát triển trải nghiệm khách hàng trên Ebanking với mục đích
giảm thời gian chi phí giao dịch cho khách hàng; MB đã tích hợp tất cả các giao
dịch ngân hàng và quản lý tài chính hoàn toàn miễn phí trên app MBBank và BizBank;
Nam A Bank đã ra mắt hệ sinh thái số OneBank… Hiện nay, ngân hàng đã chú trọng
phát triển công nghệ kỹ thuật số vào hệ thống ngân hàng. So sánh với cách thức
chuyển đổi số tại Singapore thì có thể thấy rằng, chuyển đổi số của các ngân hàng tại
Việt Nam có sự khác biệt lớn:
Thứ nhất, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore không đương nhiên được thực
hiện, tứctrước khi chuyển đổi số,phải đáp ứng các điều kiện do MAS quy định.
Còn tại Việt Nam, bất kể ngân hàng nào thực hiện nghiệp vụ ngân hàng và có nhu cầu
thì cũng đều thể thực hiện chuyển đổi số. Cũng như đã đề cập, nhiều hình
18
ngân hàng số nước ta, hoặc chuyển đổi toàn bộ hệ thống hoặc kết hợp cả cách thức
của ngân hàng số và cách thức truyền thống.
Thứ hai, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore khi đã đáp ứng điều kiện thì không
ngay lập tức chuyển đổi số hoàn toàn phải thực hiện theo 02 giai đoạn. Đối với
Việt Nam, giai đoạn thực hiện chuyển đổi số sẽ phụ thuộc vào chiến lược của từng
ngân hàng cũng như chi phí đầu hệ thống nền tảng kỹ thuật số, đào tạo nguồn nhân
lực chuyên môn.
So sánh quy định của hai quốc gia thìthể thấy rằng, ngân hàng kỹ thuật số tại
Singapore chú trọng vào nền tảng của việc xây dựng vận hành công nghệ số trong
ngân hàng, tức là ưu tiên sự an toàn, hạn chế rủi ro xảy ra. Còn quá trình chuyển đổi số
tại các ngân hàng của Việt Nam có phần chú trọng hơn về tính thích nghi thời đại, đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với hướng đi chung của nền kinh tế.
Từ những so sánhphân tích trên, một số đề xuất được đưa ra nhằm nâng cao
chất lượng hiệu quả của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam như
sau:
Thứ nhất, chú trọng vào xây dựng chiến lược. Các ngân ng khi thực hiện
chuyển đổi số cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để đảm bảo cho việc chuyển đổi số
thành công, không được đi tắt, đón đầu, bởi một khi xảy ra bất kỳ một sự cố nào, đặc
biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, thì nó không chỉ ảnh hưởng đến chính hoạt động bình
thường của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Thứ hai, ưu tiên đảm bảo sự an toàn cho khách hàng. Chuyển đổi số trong lĩnh
vực ngân hàng như đã đề cập là quá trình thay đổi cách thức hoạt động từ truyền thống
sang áp dụng các công nghệ kỹ thuật số. Việc chuyển đổi này mặc mang lại nhiều
lợi ích nhưng vẫn sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt sự an toàn bảo mật thông tin
khách hàng. Không chỉ riêng ngân hàng, tất cả các lĩnh vực trong hội thực hiện
chuyển đổi số, lo ngại hàng đầu chính là sự an toàn của thông tin cá nhân khách hàng,
bởi hiện nay, những thông tin rất giá trị, trở thành đối tượng của nhiều cuộc tấn
công mạng, đánh cắp dữ liệu. Do vậy, ngân hàng cần có chính sách, xây dựng hệ thống
bảo mật để đảm bảo rằng thông tin khách hàng, tài liệu bí mật luôn được an toàn.
Thứ ba, tuân thủ khung pháp lý. Hiện nay, lĩnh vực ngân hàng đã có khung pháp
lý điều chỉnh khá hoàn thiện, góp phần quản lý và kiểm soát hoạt động ngân hàng trở
nên an toàn hiệu quả. Tuy nhiên, ngân hàng số lại là một khía cạnh mới, nhiều vấn
19
đề khác dần phát sinh và các văn bản pháp luật hiện hành chưa có nhiều sự điều chỉnh.
Đây được xem kẽ hở để nhiều đối tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi tội
phạm. Bên cạnh đó, chế quản chưa thống nhất sẽ trở thành rào cản khiến cho
hoạt động chuyển đổi số trở nên khó khăn. Do vậy, việc ban hành các văn bản pháp
luật trong thời điểm hiện nay là điều vô cùng cần thiết.
Như vậy, chuyển đổi số hiện nay xu thế tất yếu của ngành Ngân hàng tại Việt
Nam. So sánh với các quy định của ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore, Việt Nam cần
học hỏi kinh nghiệm từ cơ chế vận hành và quản lý của họ để từ đó, đánh giá thực tiễn
chuyển đổi số tại các ngân hàng trong nước để hướng đi phù hợp hơn. Chuyển đổi
số trong lĩnh vực ngân hàng đang dần thay đổi cuộc sống con người, thay đổi cách vận
hành và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, sự chuyển đổi này đang dần thích ứng với
bước chuyển mình của thời đại số.
20
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn chuyển đổi số, Việt Nam nói chung ngành ngân hàng nói
riêng đều có những chuyển mình rõ rệt. Chuyển đổi số vừa là cơ hội vừa là thách thức
với đất nước chúng ta. Mặc chúng ta đã gặt hái được một số thành tựu nhất định
nhưng để duổi kịp với các nước tư bản trên thế giới thì khoảng cách vẫn còn là rất lớn.
Chính vì vậy, những biện pháp để hỗ trợ tài chính không phải là mục tiêu ngắn hạn mà
phải là các chiến lược dài hạn, phải có lộ trình cụ thể và quá trình xuyên suốt. Đặc biệt
là tính bảo mật thông tin cho khách hàng đối với ngành ngân hàng. Hiện nay việc đánh
cắp dữ liệu thông tin nên có những khung pháp lý nghiêm ngặt hơn.
Trên sở hiểu biết còn nhiều hạn hẹp, thiếu sót, tiểu luận của nhóm chúng em
chắc chắn rất nhiều điều cần góp ý từ phía các bạn để đề tài càng hoàn thiện
hơn.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu từ website:
1. Lan Phương, 05/07/2021, Vai trò của chuyển đổi số trong thời đại ngày nay, Sở
thông tin và truyền thông Ninh Bình
https://tttt.ninhbinh.gov.vn/cong-nghe-thong-tin/vai-tro-cua-chuyen-doi-so-trong-thoi-
dai-ngay-nay-2132.html
2. Ánh Dương, 23/12/2021, Những thành tựu giúp Singapore giữ vững vị thế sáng tạo
trên thế giới, Kênh thông tin kinh tế tài chính Việt Nam –
https://cafef.vn/nhung-thanh-tuu-giup-singapore-giu-vung-vi-the-sang-tao-tren-the-
gioi-20211223173414637.chn
3. Đặng Thu Trà, 05/07/2021, Ngân ng thương mại gì, Luận văn 24
https://luanvan24.com/ngan-hang-thuong-mai-la-gi/
4. 23/12/2021 , Các nghiệp vụ bản của ngân hàng thương mại, Phân tích tài chính-
https://phantichtaichinh.com/cac-nghiep-vu-co-ban-cua-ngan-hang-thuong-mai/
5. 23/08/2022, Ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore và liên hệ Việt Nam – tạp chí ngân
hàng
https://tapchinganhang.gov.vn/ngan-hang-ky-thngan-hang-ky-thuat-so-tai-singapore-
va-lien-he-viet-namuat-so-tai-singapore-va-lien-h.htm
6. 26/01/2006, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Vai trò của ngân hàng nhà nước Việt
Nam,
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet;jsessio
nid=8WHl5mXJKjZj6Xkb3H30T3N8KtU9-
- Tài liệu từ sách:
7. PGS.TS. Kim Ngọc, TS Nguyễn Thanh Nhàn - 2019 - Giáo trình tiền tệ ngân
hàng, Học viện ngân hàng – NXB Thanh niên
8. PGS.TS. Mai Thanh Quế, PGS.TS. Lê Thị Diệu Huyền - 2018 - Giáo trình tài chính
học, Học viện ngân hàng – NXB Lao động
21
| 1/24

Preview text:

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
I - Cơ sở lý thuyết......................................................................................................................3
1. Khái niệm...........................................................................................................................3
2. Phân loại ngân hàng..........................................................................................................3
2.1. Phân loại ngân hàng thương mại dựa vào hình thức sở hữu.........................................3
2.2. Phân loại Ngân hàng thương mại dựa vào chiến lược kinh doanh...............................4
3. Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng................................................................................5
4. Nghiệp vụ tài sản nợ..........................................................................................................6
4.1. Vốn của ngân hàng.......................................................................................................6
4.2. Vốn tiền gửi..................................................................................................................7
4.3. Vốn đi vay....................................................................................................................8
II. Thực trạng của hoạt động trung gian tài chính tại Singapore trong giai đoạn chuyển
đổi số.
..........................................................................................................................................9
II.1. Thực trạng hoạt động ngân hàng Singapore trước giai đoạn chuyển đổi số...........9
1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng Singapore..................................................................9
2. Các loại ngân hàng........................................................................................................10
II.2. Tác động của thời kì chuyển đổi số đến ngân hàng Singapore.... ..........................12
1. Sự xuất hiện của Ngân hàng Kỹ thuật số (Digital Banking).........................................12
2. Kết luận..........................................................................................................................15
III - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam...............................................................................16
KẾT LUẬN..............................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................21 1 LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm
đến vấn để chuyển đổi số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và giao cho Bộ
Thông tin &Truyền thông xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia và trình Đề án cho
Thủ tướng ngay trong năm 2019.
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể nào về chuyển đổi số vì sự khác biệt
của nó ở các ngành nghề và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để có thể định nghĩa một
cách ngắn gọn và dễ hiểu thì chuyển đổi số (Digital Transformation trong tiếng Anh) là
sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp,
tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh
và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc các
hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa và cách thức
hoạt động của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử
nghiệm cái mới. Tại Việt Nam, khái niệm “Chuyển đổi số” thường được hiểu theo
nghĩa là quá trình thay đổi từ mô hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp
số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật
(IoT), điện toán đám mây (Cloud)… nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo,
quy trình làm việc, văn hóa công ty.
Không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng
vai trò quan trọng trong các lĩnh vực khác của xã hội như truyền thông đa phương tiện, y học, giáo dục…
Theo nghiên cứu năm 2017 của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, năm 2017,
tác động mà chuyển đổi số mang lại cho GDP là khoảng 6%, năm 2019 là 25% và tới năm 2021 là 60%.
Kết quả nghiên cứu của McKensey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động
của chuyển đổi số tới GDP của nước Mỹ là khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%,
còn ở các nước Châu Âu là khoảng 36%. Từ đây, có thể thấy khả năng tác động của
chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất lớn.
Tốc độ phát triển của công nghệ đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau
trong đời sống và ngành ngân hàng cũng không ngoại lệ. Nó đã mở ra kỷ nguyên mới 2
cho ngành ngân hàng để tối ưu hóa tất cả các thủ tục phức tạp, tiếp cận đến khách hàng
nhanh gọn nhất có thể. Chính vì vậy chủ đề mà nhóm chúng em tập trung nghiên cứu
là: “Trung gian tài chính của các quốc gia trong giai đoạn chuyển đổi số” và đất
nước mà chúng em hướng đến để tìm hiểu chính là Singapore.
VIỆN PHÁT TRIỂN QUẢN LÍ, ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT KẾ SINGAPORE
Đồ họa: Straits Times
Thành tựu của Singapore phần lớn nhờ các chính sách thuộc cấp thành phố lẫn
quốc gia của nước này - đặc biệt là trong các dịch vụ chính phủ điện tử, giáo dục và
các chiến lược đô thị hoá lấy con người làm trung tâm. Lựa chọn Singapore là đất
nước để nghiên cứu với mục tiêu sẽ tìm ra được những “bí kíp” của nước bạn để rút ra
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 3
I - Cơ sở lý thuyết 1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là
thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ sự chuyển hướng phân biệt tài sản có, Ngân hàng thương mại được hiểu là
một ngân hàng có những đặc trưng sau:
 Tiền gửi của công chúng (có kỳ hạn, không có kỳ hạn và tiết kiệm)
 Vốn tự có của các ngân hàng do các cổ đông góp
 Vốn vay của công chúng bằng cách phát hành phiếu nợ (trái phiếu, cổ phiếu)
 Vốn hoặc tài sản do các đơn vị đem lại cầm cố
Đối tượng cho vay của Ngân hàng thương mại chủ yếu là: Thương mại sản xuất
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp…đầu tư hoặc hùn hạp xây dựng xí nghiệp, khu
công nghiệp rồi bán lại cổ phần.
2. Phân loại ngân hàng
2.1. Phân loại ngân hàng thương mại dựa vào hình thức sở hữu
Dựa vào hình thức sở hữu các Ngân hàng thương mại được chia ra thành các loại
gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng
liên doanh, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, Ngân hàng tư nhân.
 Ngân hàng thương mại quốc doanh: là Ngân hàng được thành lập từ vốn
thuộc ngân sách nhà nước, là trụ cột của nền kinh tế. Ở Việt nam, ban đầu
những ngân hàng này là những ngân hàng chuyên doanh, đến năm 1992 thì
đổi tên thành ngân hàng kinh doanh đa năng. Ví dụ: Ngân hàng TMCP Vietinbank.
 Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP): là Ngân hàng được thành lập từ
vốn góp của các cổ đông, kinh doanh đa năng. Hệ thống ngân hàng TMCP
bao gồm hai loại: Ngân hàng TMCP đô thị và Ngân hàng TMCP nông thôn.
Hiện nay, tất cả các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đều là ngân hàng
TMCP và được thức hiện đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng. ví
dụ: Ngân hàng TMCP SeaBank, Ngân hàng TMCP ACB,… 4
 Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng do các liên doanh góp vốn, tỷ lệ đóng
góp của các đối tác nước ngoài không không quá 50% vốn điều lệ. Ví dụ:
Ngân hàng Liên doanh ShinhanVina, Ngân hàng liên doanh INdovina
 Ngân hàng tư nhân: Do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân đó. Loại
hình Ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp; thường có mối
quan hệ tốt với khách hàng. Tuy nhiên, loại hình ngân hàng tư nhân theo
cách tiếp này chưa xuất hiện tại Việt Nam
2.2. Phân loại Ngân hàng thương mại dựa vào chiến lược kinh doanh
Dựa vào chiến lược kinh doanh các Ngân hàng thương mại được chia ra thành:
Ngân hàng thương mại bán buôn, Ngân hàng thương mại bán lẻ, Ngân hàng thương
mại vừa bán buôn vừa bán lẻ:  Ngân
hàng thương mại bán buôn: là Ngân hàng thương mại tập trung nhằm
đến đối tượng khách hàng là các công ty, các tập đoàn kinh tế, các doanh
nghiệp, các xí nghiệp lớn. Doanh mục sản phẩm ngân hàng loại này cung cấp
cho khách hàng thường không đa dạng tuy nhiên giá trị của từng giao dịch thường rất lớn.  Ngân
hàng thương mại bán lẻ: là ngân hàng tập trung khai thác nhóm đối
tượng khách hàng là cá nhân hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng
loại này thường chú trọng đến việc đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng các
nhu cầu của nhiều khách hàng. Tuy giá trị của từng sản phẩm không lớn
nhưng bù lại là một lực lượng khách hàng rất lớn. Hoạt động của ngân hàng
này chủ yếu là huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, và cho vay để giải
quyết vấn đề tiêu dùng hoặc các dự án sản xuất với quy mô nhỏ và vừa  Ngân
hàng thương mại vừa bán buôn, vừa bán lẻ: Là ngân hàng thực hiện
song song cả hoạt động bán buôn và bán lẻ. Ngân hàng này nhằm vào tất cả
các khách hàng từ cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ đến tổng
công ty, các tập đoàn lớn. Ví dụ: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
(VietinBank), Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (Seabank). 5
3. Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng
Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ liên
quan đến việc sử dụng các khoản vốn sử dụng các khoản vốn huy động được từ Nghiệp vụ tài sản nợ.
- Nghiệp vụ ngân quỹ: Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên, ngân hàng luôn giữ tiền mặt dưới các dạng sau
 Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng: dùng để duy trì mức tồn quỹ tiền mặt để
thực hiện chi trả trong ngày
 Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng
 Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: để phục vụ các hoạt động thanh toán
giữa các ngân hàng thông qua vai trò trung gian thanh toán của NHTW
 Tiền gửi trong quá trình thu: là khoản phát sinh do quan hệ thanh toán vãng
lai giữa các ngân hàng, khi ngân hàng hàng đã ghi vào bên nợ nhưng thực
chất lại chưa nhận được tiền
- Nghiệp vụ cho vay: Hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu
của các Ngân hàng trung gian nói chúng và Ngân hàng thương mại nói riêng. Hoạt
động cho vay rất đa dạng và phong phú. Có thể nêu một số loại hình như sau:
 Cho vay trước: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho người
đi vay một khoản tiền vay nhất định sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả
lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc
 Cho vay thấu chi: là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó Ngân
hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai
trong một hạn mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng với khách hàng. Hình thức cho vay này thường chỉ được áp dụng
cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.
 Cho vay chiết khấu là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại
các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên
thương phiếu. Khi đến hạn trả tiền thì ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi
trên thương phiếu ở người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của Ngân hàng
chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu 6
 Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng tài trợ cho nhu
cầu tiêu dùng của cá nhân. Tín dụng tiêu dùng thường dưới hình thức cho
vay để mua trả góp hoặc cho vay qua việc phát hành thẻ tín dụng.
Nghiệp vụ cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng.
Nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản có của Ngân Hàng (khoảng 70%)
- Nghiệp vụ đầu tư : là nghiệp vụ mà ngân hàng dùng vốn của mình mua các
chứng khoán (các chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty lớn-luật của
Mỹ không cho phép ngân hàng được phép nắm giữ cổ phiếu) hoặc đầu tư theo dự án
- Những tài sản khác: đó là những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc,
trang thiết bị dùng cho hoạt động do Ngân hàng sở hữu
4. Nghiệp vụ tài sản nợ 4.1. Vốn của ngân hàng
Là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó bao gồm vốn tự có và vốn coi như tự có. 4.1.1 Vốn tự có:
Vốn điều lệ là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, được ghi trong bản điều lệ
của ngân hàng, và được hình thành ngay từ khi ngân hàng thương mại được thành lập.
Vốn điều lệ có thể được điều chỉnh tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
Quỹ dự trữ: quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp
rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Việc hình
thành các quỹ này nhằm làm tăng vốn tự có của Ngân hàng, đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh. 4.1.2. Vốn coi như tự có
Vốn coi như tự có bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây
là những khoản vốn đã được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng
tạm thời chưa được sử dụng
- Vốn tự có cơ bản gồm: cổ phần thường, cổ phần ưu đãi dài hạn, thặng dư vốn,
lợi nhuận không chia, dự phòng chung các khoản dự trữ vốn khác, các phương tiện ủy
thác có thể chuyển đổi và dự phòng lỗ tín dụng 7
- Vốn tự có bổ sung gồm: cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu bổ sung và giấy nợ 4.2. Vốn tiền gửi
Khái niệm: Là vốn do NHTM huy động từ các cá nhân và các tổ chức thông qua
việc thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền gửi, thanh toán và các nghiệp vụ kinh doanh
khác và được dùng để làm vốn kinh doanh.
Tính chất: Không thuộc sở hữu của NHTM, tính biến động cao, chiếm tỷ trọng
lớn hơn trong tổng nguồn vốn của NHTM, ảnh hưởng tới chi phí rủi ro của NHTM TG không kỳ hạn TG có kỳ hạn TG tiết kiệm Là loại tiền gửi mà KH Là tiền được gửi vào Là loại tiền mà gửi vào NH trong một ngân hàng nhằm mục
Khái niệm người gửi tiền có thể khoảng thời gian xác đích tích lũy an toàn và
rút ra bất cứ lúc nào định với mục đích sinh hưởng lãi lời Thường là doanh Thường là KH cá nhân Đối tượng
nghiệp hoặc tổ chức có KH cá nhân hoặc tổ có tiền nhàn rỗi có nhu khách tiền nhàn rỗi trong chức gửi tiền cầu gửi tiền vào tài hàng khoảng thời gian nhất khoản tiết kiệm tại NH định An toàn tài sản và Tích lũy, sinh lời, an Mục tiêu thực hiện các khoản Sinh lời, an toàn toàn thanh toán qua NH Hợp đồng tiền gửi/ Hợp đồng tiền gửi/ Hình thức
chứng nhận tiền gửi chứng nhận tiền gửi có Sổ tiết kiệm thể hiện không kỳ hạn kỳ hạn 4.3. Vốn đi vay
- Khái niệm: là nguồn vốn hình thành do quan hệ vay mượn giữa NHTM với các
tổ chức tín dụng khác với ngân hàng nhà nước
- Đáp ứng nhu cầu thanh khoản nhanh chóng, mức ổn định trung bình 8
- Lãi suất thường xuyên biến động
4.3.1. Vay từ ngân hàng trung ương
Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cho phép
thành lập hoạt động đều hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng trung ương trong trường
hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới
hai hình thức: chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá và cho vay thế chấp hay ứng trước.
4.3.2. Vay ngắn hạn các khoản dự trữ của các tổ chức tín dụng khác
Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo quy định
của ngân hàng trung ương. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại
có những ngày cho vay quá nhiều dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ bắt buộc tại ngân hàng
trung ương. Trong khi đó lại có một vài ngân hàng thương mại khác thừa dự trữ. Để
đảm bảo dự trữ theo quy định của ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại thiếu
hụt dự trữ sẽ vay của ngân hàng thương mại có dự trữ dư thừa. Thời hạn của loại cho
vay này rất ngắn, thường không quá một tuần.
4.3.3. Vay từ các công ty
Ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại còn có thể vay trực tiếp từ các công ty:
Vay ngắn hạn bằng các Hợp đồng mua lại: Hợp đồng mua lại là hợp đồng trong
đó ngân hàng bán các tín phiếu kho bạc mà mình đang nắm giữ cho các tổ chức kinh tế
đang tạm thời thừa tiền mặt, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài
ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn. Về thực chất đây là một công cụ để vay
nợ ngắn hạn (thường không quá hai tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín
phiếu kho bạc làm vật thế chấp.
Vay từ công ty mẹ: Ở các nước phát triển, một công ty hoặc tập đoàn kinh doanh
có thể là chủ của một hoặc nhiều ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng thương mại
phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền từ thị trường, nó sẽ chịu sự quản lý và
ràng buộc của ngân hàng trung ương về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Các công ty mẹ của
ngân hàng thường thay thế nó phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hay các loại 9
thương phiếu để huy động vốn, sau đó chuyển vốn huy động được về cho ngân hàng
hoạt động dưới hình thức cho vay lại.
4.3.4. Vay từ thị trường tài chính trong nước
Các ngân hàng thương mại có thể vay từ thị trường tài chính thông qua phát hành
các chứng từ có giá như chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng - thường với
thời gian đáo hạn không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành và trái phiếu ngân hàng -
với thời hạn vay thường từ 2 năm trở lên.
4.3.5. Vay nước ngoài
Các ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc
phát hành phiếu nợ để vay tiền ở nước ngoài. Do loại tiền sử dụng trong thanh toán
quốc tế hiện nay là USD cho nên vay tiền ở nước ngoài thường vay bằng USD. 4.4. Các nguồn vốn khác
- Là vốn được hình thành trong quá trình cung cấp dịch vụ cho KH (vốn trong
thanh toán và nghiệp vụ đại lý): Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư
để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng v.v...
- Mức độ ổn định không cao - Chi phí thấp
II. Thực trạng của hoạt động trung gian tài chính tại Singapore trong
giai đoạn chuyển đổi số.
II.1. Thực trạng hoạt động ngân hàng Singapore trước giai đoạn chuyển đổi số
1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng Singapore
Singapore được biết là một trung tâm kinh tế tài chính Châu Á Thái Bình Dương
với mạng lưới liên kết to lớn trên quốc tế. Đất nước này còn là nơi tập trung chuyên
sâu của nhiều trụ sở chính thuộc những công ty đa vương quốc và là một cầu nối giữa
những doanh nghiệp quốc tế với thị trường Châu Á Thái Bình Dương.
Khó để tìm ra một ngành nào khác góp phần sự tăng trưởng vượt bậc của quốc
đảo này hơn ngành ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Singapore nổi tiếng với những
dịch vụ mang tầm quốc tế cho người mua trong và ngoài nước. 10
Có hai yếu tố chính dẫn đến thành công xuất sắc cho mạng lưới hệ thống ngân hàng Singapore là:
Sự Ổn định – Singapore nhiều năm liền đứng đầu trong danh sách những ngân
hàng với tính ổn định cao nhất trên thế giới. Điều này được khả thi hóa do hệ thống
ngân hàng được điều hành bởi một chính phủ hiệu quả, với hệ thống nhà nước pháp
quyền và chỉ số tham nhũng cực kỳ thấp.
Tính Bảo mật – Tính bảo mật của khách hàng được đảm bảo trong mục 47 của
Đạo luật Ngân hàng. Trừ khi có căn cứ luật pháp chứng minh trốn thuế hay tội phạm
tài chính, thông tin khách hàng sẽ không được tiết lộ ra công chúng. 2. Các loại ngân hàng
Tại Singapore, có hai loại ngân hàng chính – trong nước và quốc tế. Nhìn chung,
những ngân hàng trong nước có quyền tự do cung ứng những dịch vụ ngân hàng nhiều
hơn những ngân hàng quốc tế.
2.1. Ngân hàng nội địa
Hiện tại, toàn bộ những ngân hàng trong nước ở Singapore đều hoạt động giải trí
như một ngân hàng toàn nhiệm vụ. Loại ngân hàng này phân phối phong phú những
dịch vụ theo luật Ngân hàng được cho phép, gồm có thông tin tài khoản vãng lai và
thông tin tài khoản tiết kiệm ngân sách và chi phí, máy ATM, thẻ tín dụng thanh toán
và thẻ ghi nợ, thế chấp ngân hàng và cho vay.
Có ba ngân hàng nội địa chính yếu ở Singapore :
DBS – sát nhập với Ngân hàng POSB vào năm 1998. Việc này giúp DBS hoàn
toàn có thể lan rộng ra thị trường của mình lên bốn triệu người dùng. DBS là ngân
hàng lớn nhất Khu vực Đông Nam Á tính theo quy mô và gia tài. Ngân hàng cũng có
hơn 100 văn phòng và số lượng máy ATM cao nhất ở Singapore, điều này khiến DBS
hoàn toàn có thể truy vấn từ mọi nơi trên quốc đảo này.
UOB – được xây dựng vào năm 1935. UOB là ngân hàng lớn thứ ba ở Khu vực
Đông Nam Á, với gần 70 Trụ sở tại Singapore và 500 trên toàn quốc tế. UOB phân
phối những dịch vụ khác nhau như ngân hàng kinh doanh nhỏ/thương mại, quản lý tài
sản, và những dịch vụ bảo hiểm. Ngân hàng này nổi tiếng với tính năng UOB One
Account vì mang lại lãi suất vay khá mê hoặc. 11
OCBC – Đây là ngân hàng lớn thứ hai tại Singapore, có chi nhánh và văn phòng
đại diện tại 18 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2019, ngân hàng này được
Tạp chí Global Finance trao giải Ngân hàng Tốt nhất Thế giới. Đáng chú ý, tài
khoảncủa nó không yêu cầu số dư trung bình tối thiểu hàng tháng, phù hợp cho những
ai không muốn gặp phải vấn đề khi số dư của họ thấp hơn mức quy định.
2.2. Ngân hàng quốc tế
Ngân hàng Toàn Nghiệp vụ (Full Bank) – là những ngân hàng có quyền lan rộng
ra khu vực kinh doanh thương mại lên đến 25 khu vực, tham gia mạng lưới ATM liên
kết trong nước, và cho vay thời gian ngắn cho chủ thẻ tín dụng thanh toán trải qua
ngân hàng địa phương. Ví dụ cho loại ngân hàng này gồm có HSBC, Bank of America,
India Bank, Bank of China và Standard Chartered.
Ngân hàng Bán buôn (Wholesale Bank) – ngân hàng phân phối phong phú dịch
vụ cho những người mua lớn như những cơ quan cơ quan chính phủ, những tập đoàn
lớn đa vương quốc và những tổ chức triển khai kinh tế tài chính khác. Các dịch vụ
được phân phối thường gồm có quy đổi tiền tệ, mua và bán và sáp nhập, tư vấn và ứng
trước tiền mặt. Ví dụ : National nước Australia Bank Ltd., Barclays Bank, Land Bank
of Taiwan và Korea Development Bank.
Ngân hàng ngoại cảnh Offshore – những ngân hàng ngoại cảnh này thực thi
thanh toán giao dịch trải qua hai đơn vị chức năng kế toán khác nhau, Đơn vị ngân
hàng trong nước và Đơn vị tiền tệ châu Á. Tất cả những ngân hàng offshore ở
Singapore đều hoạt động giải trí như Trụ sở của ngân hàng quốc tế. Ví dụ như Bank of
Taiwan, Bank of New Zealand, Shinhan Bank, và Philippine National Bank.
Ngân hàng Chuyên doanh (Merchant Bank) – ngân hàng chuyên doanh hoạt
động giải trí dưới sự giám sát của Đạo luật Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS Act). Họ
phân phối những dịch vụ như quản trị hạng mục góp vốn đầu tư, bảo lãnh phát hành và
sắp xếp cho vay. Ví dụ : Schroder và Co. (Asia) Ltd., Bordier và CIE (Singapore), và Ltd., Axis Bank Ltd. 12
II.2. Tác động của thời kì chuyển đổi số đến ngân hàng Singapore
1. Sự xuất hiện của Ngân hàng Kỹ thuật số (Digital Banking)
1.1. Ngân hàng kỹ thuật số là gì?
Ngân hàng kỹ thuật số (KTS) là một mô hình mới trong mạng lưới hệ thống ngân
hàng Singapore. Nó hoàn toàn có thể cung ứng phong phú những dịch vụ kinh tế tài
chính như những ngân hàng truyền thống lịch sử.
Điểm độc lạ chính ở đây là ngân hàng KTS sẽ không có văn phòng thanh toán
giao dịch, những dịch vụ này sẽ trọn vẹn trực tuyến. Điều này được cho phép người
mua trấn áp những khoản tiết kiệm chi phí và kinh tế tài chính của họ từ điện thoại
cảm ứng mưu trí và máy tính bất kỳ nơi nào.
Ngân hàng DBS được công nhận là Ngân hàng số đầu tiên trên thế giới. Ngân
hàng UOB đầu tư hơn 2 tỷ SGD cho hạ tầng, nền tảng công nghệ API, cải thiện trải
nghiệm khách hàng từ nắm 2014 đến nay.
Chính phủ Singapore đã dành sự ưu tiên về ngân sách và cơ chế thuận lợi để
GovTech xây dựng lực lượng mạnh về công nghệ, triển khai, nghiên cứu phát triển các
giải pháp và nền tảng số, đặc biệt cho lĩnh vực tài chính - ngân hàng Fintech.
Vào đầu năm 2020, Cơ quan Tiền tệ Singapore đã cấp giấy phép hoạt động giải
trí ngân hàng KTS cho bốn công ty.Giấy phép ngân hàng kỹ thuật số có ý nghĩa trong
việc giúp các dịch vụ tài chính dễ tiếp cận hơn đối với các phân khúc chưa được phục
vụ như các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo quy định của nước này, giấy phép ngân
hàng kỹ thuật số gồm hai loại là DFB (giấy phép ngân hàng kỹ thuật số đầy đủ) và
DWB (giấy phép ngân hàng bán buôn kỹ thuật số). Có thể thấy rằng, bản chất ban đầu
là các doanh nghiệp không hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, do vậy, khi các doanh
nghiệp mong muốn thực hiện các nghiệp vụ dưới dạng số hóa thì doanh nghiệp phải
tiến hành xin giấy phép ngân hàng kỹ thuật số. Để được cấp giấy phép ngân hàng kỹ
thuật số thì đơn vị xin cấp phải đáp ứng các điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, ít nhất một pháp nhân trong nhóm ứng viên có từ 03 năm trở lên trong
việc điều hành một doanh nghiệp hiện có trong lĩnh vực công nghệ hoặc thương mại
điện tử. Ở đây, điều kiện về hiểu biết công nghệ số được xem là tiêu chí bắt buộc đầu
tiên để một doanh nghiệp thực hiện ngân hàng kỹ thuật số, có thể vì xuất phát từ chính
tính chất quan trọng của các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nên khi chúng được 13
vận hành với một cách thức khác, cách thức số, so với cách thức truyền thống, thì
MAS đã đặt ra điều kiện này với chủ đích là nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng
công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng và tạo niềm tin nơi khách hàng.
Thứ hai, chứng minh khả năng đáp ứng các điều kiện về vốn. Đối với DFB, vốn
thanh toán tối thiểu ban đầu là 15 triệu đô la Singapore trước khi tăng dần lên 1,5 tỷ đô
la Singapore; còn với DWB, số vốn đã trả là 100 triệu đô la Singapore. Ở đây, điều
kiện về vốn được xem là yếu tố quan trọng bởi nếu không đáp ứng, thì doanh nghiệp
không thể thực hiện chuyển đổi số bởi lĩnh vực ngân hàng mang tính chất rủi ro cao,
nếu không đáp ứng tiêu chí về nguồn vốn thì doanh nghiệp không thể duy trì được quá
trình vận hành liên tục, dòng vốn không ổn định, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của
khách hàng và sự bình thường trong hoạt động ngân hàng.
Thứ ba, tính bền vững trong mô hình kinh doanh của ngân hàng kỹ thuật số bằng
cách đưa ra các dự báo tài chính 05 năm của ngân hàng được đề xuất và nó phải theo
hướng có lợi nhuận. Dự báo này phải được xem xét bởi một chuyên gia độc lập với
ngân hàng. Để đảm tính chính xác, sự trung thực thì việc đánh giá bởi một chuyên gia
bên ngoài là điều cần thiết.
Đối tượng của đơn xin cấp phép hoạt động ngân hàng kỹ thuật số là các công ty
có trụ sở chính tại Singapore và do người có quốc tịch là Singapore kiểm soát. Tiêu chí
kiểm soát ở đây được xác định dựa trên yếu tố phần trăm cổ phần mà người này nắm
giữ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nước ngoài vẫn có thể tham gia hoạt động ngân hàng
kỹ thuật số với điều kiện là thành lập một liên doanh với một công ty trong nước và
cũng phải đáp ứng yêu cầu về trụ sở chính và quyền kiểm soát như đã đề cập. Một vấn
đề đặt ra là sau khi được cấp giấy phép, các ngân hàng kỹ thuật số sẽ không hoạt động
ngay mà MAS sẽ chia thành hai giai đoạn với mục đích là giảm thiểu rủi ro cho ngân
hàng số thời điểm ban đầu, cụ thể:
Giai đoạn đầu: Ngân hàng kỹ thuật số sẽ bị hạn chế. Tại thời điểm bắt đầu, tức là
02 năm đầu, ngân hàng kỹ thuật số sẽ phải tuân thủ các hạn chế sau:
- Giới hạn về tiền gửi: Tiền gửi tổng hợp sẽ được giới hạn ở mức 50 triệu đô la
Singapore và tiền gửi của cá nhân sẽ được giới hạn ở mức 75 triệu đô la Singapore.
Ngoài ra, ngân hàng kỹ thuật số chỉ có thể nhận tiền gửi từ một nhóm nhỏ như đối tác
kinh doanh, nhân viên hoặc các bên có liên quan. 14
- Hạn chế kinh doanh: Ngân hàng số chỉ có thể cung cấp các sản phẩm tín dụng
và đầu tư đơn giản, điều này cũng đồng nghĩa rằng, ngân hàng không được cung cấp
các sản phẩm đầu tư phức tạp và mang tính chất rủi ro cao. Bên cạnh đó, ngân hàng kỹ
thuật số cũng sẽ không được tham gia vào các hoạt động đầu tư như trong công cụ
phái sinh, tự do kinh doanh và không được thiết lập hoạt động tại hai thị trường nước
ngoài trở lên. MAS ngoài việc giới hạn số tiền gửi của cá nhân, tổ chức thì còn chi
phối cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tức ngân hàng kỹ thuật số chỉ được
phép kinh doanh trong phạm vi cho phép và có những hoạt động không được thực hiện.
- Vốn trả trước tối thiểu: Thấp hơn xuất phát từ phạm vi hoạt động hạn chế, cụ
thể là ở mức 15 triệu đô la Singapore.
Tất cả các hạn chế trên xuất phát từ mục đích giúp cho ngân hàng kỹ thuật số
trong giai đoạn đầu có thể làm quen và thích nghi với cách thức hoạt động số, nhận
biết cơ chế vận hành cũng như đánh giá tình hình, hiệu quả hoạt động của ngân hàng,
từ đó, có hướng điều chỉnh phù hợp. Một khi ngân hàng kỹ thuật số đã hoàn thành giai
đoạn đầu này thì các hạn chế từ MAS về tiền gửi và tự do kinh doanh sẽ được nới
lỏng, số vốn trả góp tối thiểu sẽ được nâng lên tương ứng với hồ sơ rủi ro.
Giai đoạn hai: Là giai đoạn chuyển tiếp của giai đoạn đầu, lúc này, ngân hàng kỹ
thuật số sẽ được hoạt động đầy đủ:
Động thái này nhằm mục đích mục tiêu tự do hóa hơn nữa ngành kinh tế tài
chính, làm cho nền kinh tế tài chính kỹ thuật số của vương quốc này bắt kịp với quốc
tế và mang lại nhiều thời cơ góp vốn đầu tư hơn cho những công ty quốc tế.
1.2. Các loại ngân hàng kỹ thuật số
Hiện tại, có hai loại ngân hàng kỹ thuật số – ngân hàng toàn nhiệm vụ KTS và ngân hàng bán buôn KTS.
Ngân hàng Toàn nghiệp vụ Kỹ thuật số (Digital Full Bank)
– Ngân hàng Toàn diện KTS được cho phép nền tảng của nó phân phối người
mua những dịch vụ ngân hàng thương mại và kinh doanh bán lẻ như tiền gửi, cho vay
và góp vốn đầu tư gia tài;
– Hai ví dụ mới nhất cho loại ngân hàng này là tập đoàn lớn Grab-Singtel và Sea Limited. 15
Ngân hàng Bán buôn Kỹ thuật số (Digital Wholesale Bank)
– Ngân hàng Bán buôn Kỹ thuật số được phép Giao hàng những doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME) với những dịch vụ ngân hàng phi kinh doanh bán lẻ;
– Hai ví dụ cho loại ngân hàng này gồm có Ant Group và tập đoàn lớn liên kết
kinh doanh giữa Greenland Financial Holdings, Linklogis Hong Kong, và Beijing Co-
operative Equity Investment Fund Management.
1.3. Ảnh hưởng của ngân hàng KTS đối với nền kinh tế Singapore
Tạo ra một mô hình dịch vụ mới dựa trên công nghệ tiên tiến hoàn toàn có thể
theo kịp vận tốc tăng trưởng nhanh gọn của ngành fintech – công nghệ tiên tiến kinh tế tài chính;
Cung cấp những dịch vụ ngân hàng trên nền tảng trực tuyến thay cho ngân hàng
truyền thống lịch sử hoạt động giải trí trải qua những phòng thanh toán giao dịch;
Tạo thời cơ cho ngành ngân hàng kỹ thuật số lan rộng ra mạng lưới người mua
và có nhiều thông tin hơn về những loại sản phẩm và dịch vụ lấy người mua làm TT.
Việc này được triển khai bằng cách thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với những nhà
sản xuất giải pháp thanh toán giao dịch hoặc nền tảng thương mại điện tử.
Ngành ngân hàng kỹ thuật số sẽ tạo ra một thiên nhiên và môi trường cạnh tranh
đối đầu hơn cho nhóm ngân hàng truyền thống lịch sử, thôi thúc quy trình kỹ thuật số
hóa và tăng cấp nhân sự của họ với rất đầy đủ kiến thức và kiến thức và kỹ năng về kỹ thuật số. 2. Kết luận
Hệ thống ngân hàng của Singapore là một trong những lý do chính góp phần vào
sự thành công của Singapore – một trung tâm tài chính toàn cầu.
Nhà nước Singapore đã và đang đưa ra nhiều chủ trương khác nhau để tự do hóa
ngành kinh tế tài chính và mở ra cánh cửa rộng hơn để nghênh đón những khoản góp
vốn đầu tư từ những công ty trong và ngoài nước.
Có thể thấy rằng, để trở thành ngân hàng kỹ thuật số là điều không dễ dàng, bởi
nó phải vừa đáp ứng các điều kiện do MAS đặt ra, vừa phải đảm bảo quy định về
chuyển đổi từ ngân hàng truyền thống sang ngân hàng kỹ thuật số. Có nghĩa rằng, nếu
ngân hàng không đáp ứng một trong các điều kiện đã đặt ra, hoặc giai đoạn đầu của
ngân hàng kỹ thuật số hoạt động không hiệu quả, tiềm ẩn nhiều rủi ro thì sẽ không 16
được phép thực hiện việc chuyển đổi này. Các quy định này bảo vệ tối đa quyền lợi
của khách hàng cũng như duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Vì khi một ngân
hàng chuyển đổi số thất bại sẽ kéo theo nhiều hệ lụy, trong đó, sự bất ổn trong nền
kinh tế, niềm tin của khách hàng bị ảnh hưởng. Do vậy, chuyển đổi số trong ngân hàng
mặc dù mang lại hiệu quả vô cùng lớn nhưng việc thực hiện lại rất phức tạp.
III - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn, trước hết
để thực hiện thành thành công công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Chính phủ nên sớm có
một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp lý và cơ
chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore. Đồng
thời, việc sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô cũng như những hạn chế mục tiêu thời kỳ
đầu là cần thiết để kiềm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân hàng khó
kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh tín dụng phát triển kinh tế theo
“kiểu bong bóng” là nguy cơ tổn thương của hệ thống ngân hàng.
Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng đa dạng các
hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính nhằm khai
thông vốn trong nước, đồng thời thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn và kỹ thuật
cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần cần có biện pháp mở cửa
đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng… để nâng cao chất lượng tín dụng.
Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là khi hệ thống ngân hàng
chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị trường vốn
ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây hiện tượng “thừa vốn”,
dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo ngược dòng
vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính.
Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng, mở rộng
tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng, ngành công
nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn
đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải có chương trình hành động bước đi thích hợp
với những chi tiết cụ thể, với kinh nghiệm của các nước cần phải có chế độ kiểm soát
chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Tuy nhiên nếu sự can
thiệp quá mức mang tính áp đặt của Chính phủ vào hoạt động ngân hàng sẽ trở nên bị 17
gò bó, thiếu tính linh động, gây khó khăn cho ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Kết hợp đồng bộ, việc sửa đổi hệ thống pháp luật điều chỉnh hàng loạt về chính
sách môi trường kinh tế, cải cách hành chính để mở cửa cho ngân hàng nước ngoài đầu
tư, cởi bỏ mọi hạn chế về quyền sở hữu, hình thức hoạt động, kể cả huy động vốn và
giao dịch với các đối tác tiền gửi bằng VND và thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại
các địa phương; mở rộng việc cung cấp các dịch vụ cao cấp, dịch vụ chăm sóc khách
hàng, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt… trong đó, cần nghiên cứu nâng tỷ lệ
sở hữu của các cổ đông nước ngoài tham gia đầu tư vào các ngân hàng thương mại
Việt Nam (trên 30%) nhằm thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào thị trường tài chính Việt Nam.
Để tăng sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi mở rộng cửa
cho ngân hàng nước ngoài đầu tư, Việt Nam cần tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng
theo hướng đại hóa; tăng vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng đủ sức cạnh tranh với
ngân hàng nước ngoài, đồng thời cũng cố các ngân hàng thương mại trên địa bàn các
địa phương để hạn chế sự thâm nhập và lan tỏa của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại đây.
Hàng loạt các ngân hàng hiện nay đã thực hiện việc chuyển đổi số đạt được nhiều
thành công. Chẳng hạn, TPBank đã triển khai mô hình ngân hàng LiveBank tự động
hoàn toàn giúp khách hàng chỉ mất 3s để nhận diện và 30s xử lý giao dịch;
Techcombank chú trọng phát triển trải nghiệm khách hàng trên Ebanking với mục đích
giảm thời gian và chi phí giao dịch cho khách hàng; MB đã tích hợp tất cả các giao
dịch ngân hàng và quản lý tài chính hoàn toàn miễn phí trên app MBBank và BizBank;
Nam A Bank đã ra mắt hệ sinh thái số OneBank… Hiện nay, ngân hàng đã chú trọng
phát triển công nghệ kỹ thuật số vào hệ thống ngân hàng. So sánh với cách thức
chuyển đổi số tại Singapore thì có thể thấy rằng, chuyển đổi số của các ngân hàng tại
Việt Nam có sự khác biệt lớn:
Thứ nhất, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore không đương nhiên được thực
hiện, tức là trước khi chuyển đổi số, nó phải đáp ứng các điều kiện do MAS quy định.
Còn tại Việt Nam, bất kể ngân hàng nào thực hiện nghiệp vụ ngân hàng và có nhu cầu
thì cũng đều có thể thực hiện chuyển đổi số. Cũng như đã đề cập, có nhiều mô hình 18
ngân hàng số ở nước ta, hoặc chuyển đổi toàn bộ hệ thống hoặc kết hợp cả cách thức
của ngân hàng số và cách thức truyền thống.
Thứ hai, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore khi đã đáp ứng điều kiện thì không
ngay lập tức chuyển đổi số hoàn toàn mà phải thực hiện theo 02 giai đoạn. Đối với
Việt Nam, giai đoạn thực hiện chuyển đổi số sẽ phụ thuộc vào chiến lược của từng
ngân hàng cũng như chi phí đầu tư hệ thống nền tảng kỹ thuật số, đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn.
So sánh quy định của hai quốc gia thì có thể thấy rằng, ngân hàng kỹ thuật số tại
Singapore chú trọng vào nền tảng của việc xây dựng và vận hành công nghệ số trong
ngân hàng, tức là ưu tiên sự an toàn, hạn chế rủi ro xảy ra. Còn quá trình chuyển đổi số
tại các ngân hàng của Việt Nam có phần chú trọng hơn về tính thích nghi thời đại, đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với hướng đi chung của nền kinh tế.
Từ những so sánh và phân tích trên, một số đề xuất được đưa ra nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, chú trọng vào xây dựng chiến lược. Các ngân hàng khi thực hiện
chuyển đổi số cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để đảm bảo cho việc chuyển đổi số
thành công, không được đi tắt, đón đầu, bởi một khi xảy ra bất kỳ một sự cố nào, đặc
biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, thì nó không chỉ ảnh hưởng đến chính hoạt động bình
thường của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Thứ hai, ưu tiên đảm bảo sự an toàn cho khách hàng. Chuyển đổi số trong lĩnh
vực ngân hàng như đã đề cập là quá trình thay đổi cách thức hoạt động từ truyền thống
sang áp dụng các công nghệ kỹ thuật số. Việc chuyển đổi này mặc dù mang lại nhiều
lợi ích nhưng vẫn sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là sự an toàn và bảo mật thông tin
khách hàng. Không chỉ riêng ngân hàng, mà tất cả các lĩnh vực trong xã hội thực hiện
chuyển đổi số, lo ngại hàng đầu chính là sự an toàn của thông tin cá nhân khách hàng,
bởi hiện nay, những thông tin rất có giá trị, trở thành đối tượng của nhiều cuộc tấn
công mạng, đánh cắp dữ liệu. Do vậy, ngân hàng cần có chính sách, xây dựng hệ thống
bảo mật để đảm bảo rằng thông tin khách hàng, tài liệu bí mật luôn được an toàn.
Thứ ba, tuân thủ khung pháp lý. Hiện nay, lĩnh vực ngân hàng đã có khung pháp
lý điều chỉnh khá hoàn thiện, góp phần quản lý và kiểm soát hoạt động ngân hàng trở
nên an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, ngân hàng số lại là một khía cạnh mới, nhiều vấn 19
đề khác dần phát sinh và các văn bản pháp luật hiện hành chưa có nhiều sự điều chỉnh.
Đây được xem là kẽ hở để nhiều đối tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi tội
phạm. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý chưa thống nhất sẽ trở thành rào cản khiến cho
hoạt động chuyển đổi số trở nên khó khăn. Do vậy, việc ban hành các văn bản pháp
luật trong thời điểm hiện nay là điều vô cùng cần thiết.
Như vậy, chuyển đổi số hiện nay là xu thế tất yếu của ngành Ngân hàng tại Việt
Nam. So sánh với các quy định của ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore, Việt Nam cần
học hỏi kinh nghiệm từ cơ chế vận hành và quản lý của họ để từ đó, đánh giá thực tiễn
chuyển đổi số tại các ngân hàng trong nước để có hướng đi phù hợp hơn. Chuyển đổi
số trong lĩnh vực ngân hàng đang dần thay đổi cuộc sống con người, thay đổi cách vận
hành và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, sự chuyển đổi này đang dần thích ứng với
bước chuyển mình của thời đại số. 20 KẾT LUẬN
Trong giai đoạn chuyển đổi số, Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói
riêng đều có những chuyển mình rõ rệt. Chuyển đổi số vừa là cơ hội vừa là thách thức
với đất nước chúng ta. Mặc dù chúng ta đã gặt hái được một số thành tựu nhất định
nhưng để duổi kịp với các nước tư bản trên thế giới thì khoảng cách vẫn còn là rất lớn.
Chính vì vậy, những biện pháp để hỗ trợ tài chính không phải là mục tiêu ngắn hạn mà
phải là các chiến lược dài hạn, phải có lộ trình cụ thể và quá trình xuyên suốt. Đặc biệt
là tính bảo mật thông tin cho khách hàng đối với ngành ngân hàng. Hiện nay việc đánh
cắp dữ liệu thông tin nên có những khung pháp lý nghiêm ngặt hơn.
Trên cơ sở hiểu biết còn nhiều hạn hẹp, thiếu sót, tiểu luận của nhóm chúng em
chắc chắn có rất nhiều điều cần góp ý từ phía cô và các bạn để đề tài càng hoàn thiện hơn. 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tài liệu từ website:
1. Lan Phương, 05/07/2021, Vai trò của chuyển đổi số trong thời đại ngày nay, Sở
thông tin và truyền thông Ninh Bình
https://tttt.ninhbinh.gov.vn/cong-nghe-thong-tin/vai-tro-cua-chuyen-doi-so-trong-thoi- dai-ngay-nay-2132.html
2. Ánh Dương, 23/12/2021, Những thành tựu giúp Singapore giữ vững vị thế sáng tạo
trên thế giới, Kênh thông tin kinh tế tài chính Việt Nam –
https://cafef.vn/nhung-thanh-tuu-giup-singapore-giu-vung-vi-the-sang-tao-tren-the- gioi-20211223173414637.chn
3. Đặng Thu Trà, 05/07/2021, Ngân hàng thương mại là gì, Luận văn 24 –
https://luanvan24.com/ngan-hang-thuong-mai-la-gi/
4. 23/12/2021 , Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại, Phân tích tài chính-
https://phantichtaichinh.com/cac-nghiep-vu-co-ban-cua-ngan-hang-thuong-mai/
5. 23/08/2022, Ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore và liên hệ Việt Nam – tạp chí ngân hàng
https://tapchinganhang.gov.vn/ngan-hang-ky-thngan-hang-ky-thuat-so-tai-singapore-
va-lien-he-viet-namuat-so-tai-singapore-va-lien-h.htm
6. 26/01/2006, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Vai trò của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet;jsessio
nid=8WHl5mXJKjZj6Xkb3H30T3N8KtU9- - Tài liệu từ sách:
7. PGS.TS. Tô Kim Ngọc, TS Nguyễn Thanh Nhàn - 2019 - Giáo trình tiền tệ ngân
hàng, Học viện ngân hàng – NXB Thanh niên
8. PGS.TS. Mai Thanh Quế, PGS.TS. Lê Thị Diệu Huyền - 2018 - Giáo trình tài chính
học, Học viện ngân hàng – NXB Lao động 21