










Preview text:
lOMoAR cPSD| 58591236 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
1. Phân tích mô hình các chiều cạnh văn hóa của Geert Hofstede ................. 3
1.1. Khoảng cách quyền lực (power distance) .................................................... 3
1.2. Chủ nghĩa cá nhân - chủ nghĩa tập thể (individualism – collectivism) ..... 4
1.3. Mức độ e ngại rủi ro (uncertainty avoidance) ............................................. 4
1.4. Nam tính - nữ tính (masculinity-femininity) ............................................... 5
1.5. Định hướng dài hạn - ngắn hạn (Longterm - Shorterm Orientation -LTO)6
1.6. Sự phóng khoáng - kiềm chế (Indulgence - Restraint - IVR) ..................... 6
2. Áp dụng thực tiễn ............................................................................................ 7
3. Phân tích tình huống ....................................................................................... 8
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 10 MỞ ĐẦU
Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede, đề ra bởi nhà nhân chủng học người
Hà Lan- Geert Hofstede, được coi là khuôn khổ cho sự giao tiếp đa quốc gia. Bằng
việc phân tích nhân tố, mô hình Hofstede miêu tả sự ảnh hưởng của văn hóa xã
hội lên các thành viên trong xã hội và làm thế nào mà các giá trị này liên quan đến hành vi của họ.
Hofstede đã tiếp cận mô hình đầu tiên của mình như một kết quả phân tích
nhân tố của bảng khảo sát nhân lực trên toàn thế giới cho IBM vào khoảng giữa
năm 1967 và 1973. Sau đó, kết quả này đã được phân tích và chắt lọc kỹ càng.
Những lý thuyết ban đầu đã đưa ra bốn khía cạnh cần phân tích của các giá trị văn hóa:
1. Chủ nghĩa cá nhân - chủ nghĩa tập thể (individualism – collectivism)
2. Mức độ e ngại rủi ro (uncertainty avoidance) lOMoAR cPSD| 58591236
3. Khoảng cách quyền lực (power distance)
4. Nam tính - nữ tính (masculinity-femininity)
Một nghiên cứu độc lập tại Hồng Kông đã giúp Hofstede hình thành khía cạnh
thứ năm - định hướng dài hạn (long term orientation), nhằm bao quát các khái
niệm chưa được thảo luận trong mô hình ban đầu. Năm 2010, Hofstede đưa ra
khía cạnh thứ sáu để so sánh sự tự thỏa mãn (các nhu cầu bản thân) so với sự tự
kiềm chế của con người.
Thành quả của Hofstede đã tạo ra một truyền thống nghiên cứu quan trọng
trong lĩnh vực tâm lý đa sắc tộc cũng như nhận được sự hỗ trợ và xác nhận từ các
nhà nghiên cứu và tư vấn tại nhiều lĩnh vực liên quan đến kinh doanh và giao tiếp
quốc tế. Lý thuyết của Hofstede cũng được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như làm mô hình cho nghiên cứu về tâm lý học đa sắc tộc, quản lý quốc
tế và giao tiếp đa văn hóa. Đây cũng là nguồn tư liệu quan trọng và là nguồn cảm
hứng trong các nghiên cứu về những khía cạnh văn hóa đa quốc gia như giá trị và niềm tin của xã hội. NỘI DUNG
Trong vòng 6 năm, từ 1967 đến 1973, ông đã tiến hành một cuộc khảo sát uy
mô lớn trên 117,000 nhân viên IBM. Có thể nói, tại thời điểm đó, Hofstede sở hữu
cơ sở dữ liệu xuyên quốc gia rộng nhất.
Kết quả từ cuộc nghiên cứu ban đầu này đã giúp Hofstede phân loại những
điểm khác biệt trong các nền văn hóa khác nhau theo 4 khía cạnh: power distance,
individualism vs collectivism, uncertainty avoidance, và masculinity vs feminity.
Những năm sau đó, các nghiên cứu của Michael Harris Bond và Michael Minkov đã
giúp bổ sung thêm 2 khía cạnh mới: long-term orientation vs short-term orientation và indulgence vs restraint.
Sẽ không có một quốc gia nào là high power distance hoàn toàn hoặc low
power distance hoàn toàn. Mọi nền văn hóa đề sẽ bao gồm yếu tố từ cả hai nhóm, chỉ
là nền văn hóa này có xu hướng thiên về cực này. Bên cạnh đó, do những yếu tố cá
nhân, sẽ có sự khác biệt giữa những người trong cùng một nền văn hóa. lOMoAR cPSD| 58591236
1. Phân tích mô hình các chiều cạnh văn hóa của Geert Hofstede
1.1. Khoảng cách quyền lực (power distance)
Power distance là chỉ số thể hiện mức độ mà những thành viên ít quyền lực
hơn trong một tổ chức, tập thể chấp nhận và tin rằng quyền lực phân bổ không đồng đều.
Điều này thể hiện khoảng cách quyền lực, mức độ bình đẳng giữa cá nhân và
người quản lý của cá nhân.
Một ví dụ thực tiễn là với những người thuộc văn hóa Low power distance,
việc bất bình đẳng được xem là hiển nhiên. Người quản lý của cá nhân có quyền lực
tối thượng, và cá nhân được mong sẽ lắng nghe và theo sát chỉ dẫn, phân công của
người quản lý thay vì chủ động nắm việc.
Với chỉ số power distance 70/100, Việt Nam được xem là một quốc gia High power distance.
Ở Việt Nam, vì đã được dạy từ bé truyền thống tôn sư trọng đạo, học sinh thể
hiện sự tôn kính với thầy cô và có xu hướng không phản biện sự giảng dạy của thầy cô.
Bên cạnh đó còn có các nước High power distance khác như Ấn Độ (77), Trung
Quốc (80), Nga (93), Slovakia (100). lOMoAR cPSD| 58591236
Còn ở một quốc gia Low power distance, khoảng cách giữa người quản lý và
nhân viên chỉ là một thứ nhân tạo, được tạo ra để khiến cho công việc trơn tru hơn.
Những người ở cấp trên sẽ cố gắng làm giảm khoảng cách giữa họ với nhân
viên bằng việc trở nên thân thiện, khuyến khích lắng nghe và phản biện từ nhân viên.
Một số nước Low power distance có thể kể đến như Mỹ (40), Úc (38), Đức (35).
1.2. Chủ nghĩa cá nhân - chủ nghĩa tập thể (individualism –collectivism)
Individualism vs Collectivism là mức độ mức độ hòa nhập của cá nhân với tập
thể và cộng đồng. (Collectivism ở đây không được sử dụng với hàm ý chính trị nào
hết; nó chỉ đơn thuần là một từ được sử dụng trong nhân chủng học, đối nghĩa với từ Indivudualism).
Trong một đất nước Individualism, nhu cầu của cá nhân sẽ được thỏa mãn
trước nhu cầu của tập thể. Sự tự lập được đánh giá cao, và sự tự do của mỗi cá nhân
là điều ai cũng mong muốn.
Ở những quốc gia Individualism, sự kết nối về cảm xúc giữa các cá nhân khá
lỏng lẻo, ngoại trừ gia đình và một vài người bạn thân.
Ngược lại, ở một quốc gia Collectivisim, sự thành công của một tập thể bảo
chứng cho sự thành công của mỗi cá nhân; do đó một người có trách nhiệm rất lớn
đối với tập thể của mình. Sự hòa thuận và lòng trung thành được đánh giá cao; và có
sự phân định rạch ròi giữa “người trong nhóm” với “người ngoài nhóm”.
Một ví dụ thực tiễn là ở những quốc gia Individualism như Mỹ (91), Canada
(81), Hà Lan (80), có thể thấy khá thân thiện và dễ kết bạn, vì với họ, các mối quan
hệ thường chỉ mang tính nhất thời. Và đương nhiên vì thế, họ sẽ không ngại thẳng
thắn và làm mất lòng cá nhân.
Còn ở các quốc gia Collectivism như Việt Nam (20), Hàn Quốc (18), Indonesia
(14), cá nhân sẽ ngại góp ý thẳng hắn vì sợ sẽ làm mất lòng người khác.
1.3. Mức độ e ngại rủi ro (uncertainty avoidance)
Uncertainty avoidance mức độ lo lắng của các thành viên trong xã hội về những
tình huống không chắc chắn hoặc không biết. Nhiều quốc hia sẽ cố gắng tránh rủi ro lOMoAR cPSD| 58591236
hết mức có thể. Với họ, những diều khác lạ, sự thay đổi đều mang tính nguy hiểm,
đáng sợ; mới chưa chắc đã tốt.
Họ tôn trọng truyền thống và xã hội của họ được điều chỉnh bởi các quy tắc,
trật tự và luôn tìm kiếm một “sự thật” chung.
Ở cực còn lại, có những quốc gia không ngại mạo hiểm và thất bại.Việc thử nghiệm,
mắc lỗi sai là cách để họ học hỏi và phát triển sản phẩm. Sự khác biệt là rất thú vị và
cái mới thường tốt hơn cái cũ. Có quy tắc chung và mọi người được khuyến khích tự
do phát triển và cũng tự chịu trách nhiệm cho những rủi ro xảy đến.
Việt Nam được xem là một nước Positive với số điểm 30, cùng nhóm với Mỹ
(46), Singapore (8), Jamaica (13). Cực còn lại là các nước như Nhật Bản
(92), Bỉ (94), Hy Lạp (100).
1.4. Nam tính - nữ tính (masculinity-femininity)
Ở khía cạnh này, Masculinity và Feminity mang nghĩa khá rộng, không chỉ thể
hiện vai trò truyền thống của nam và nữ trong xã hội.
Masculinity vs Feminity còn là khía cạnh thể hiện điều gì được xã hội xem là
quan trọng: thành tích hay quá trình, tính cạnh trạnh hay sự hòa hợp.
Các xã hội Masculinity sẽ có sự phân biệt rạch ròi và có khoảng cách khá lớn
về vai trò của nam và nữ.
Đây cũng là những quốc gia đánh giá cao sự cạnh tranh, sự quyết đoán, và cho
rằng vật chất rất quan trọng. Ho định nghĩa thành công dựa trên những thành quả vật chất của một người.
Trái lại, ở xã hội Feminity, chú trọng sự cộng tác và sự khiêm tốn. Thành công
ở đây sẽ được định nghĩa bằng việc bạn có được người khác kính trọng, ngưỡng mộ không.
Nhìn chung hai slogan đại diện cho hai trường phái Masculinity vs Feminity
là: “live to work” vs “work to live”.
Nhật Bản là nước có chỉ số Masculinity rất cao (95) và theo phân tích của
Hofstede, nếu định mở một văn phòng tại Nhật Bản, bạn chỉ có thể có thành công lớn lOMoAR cPSD| 58591236
nếu chỉ định một nhân viên nam dẫn dắt đội và có lực lượng nam giới áp đảo trong nhóm.
Việt Nam (40) được xem là một quốc gia Feminity, cùng với các quốc gia khác
như Hàn Quốc (39), Thái Lan (34), Thụy Điển (5).
1.5. Định hướng dài hạn - ngắn hạn (Longterm - Shorterm Orientation - LTO)
Khía cạnh này không chỉ nói đến dịnh hướng trong tương lai, mà còn đề cập
đến việc xã hội đánh giá các giá trị xã hội lâu đời và truyền thống như thế nào.
Đây là chiều thứ năm mà Hofstede thêm vào sau khi tìm ra mối liên kết mạnh
mẽ với triết học Nho giáo của các quốc gia châu Á.
Những quốc gia có Long-term orientation tập trung vào những mục tiêu dài
han. Các nước này có xu hướng liên kết các kinh nghiệm trong quá khứ để giải quyết
các vấn đề trong thực tại và tương lai. Người dân nước này do đó sẽ có tính tiết kiệm
và luôn chú trọng sự bền bỉ, nhất quán trog công việc.
Ở chiều ngược lại, xã hội có Short-term orientation tập trung vào các mục tiêu
ngắn hạn, hướng tới thành công trước mắt. Họ cho rằng hiện tại có tầm quan trọng
lớn hơn so với tương lai sau này.
Việt Nam là một nước có Long-term orientation (57), cùng nhóm với các nước
khác như Đức (83), Trung Quốc (87), Hàn Quốc (100). Ở chiều còn lại là các nước
như Ai Cập (8), Úc (23), Mỹ (26).
1.6. Sự phóng khoáng - kiềm chế (Indulgence - Restraint - IVR)
Đây là khía cạnh cuối cùng được Hofstede bổ sung vào lý thuyết của mình.
Chỉ số này thể hiện mức độ mỗi con người cố gắng kiểm soát những mong
muốn, nhu cầu của bản thân.
Nền văn hóa Indulgence sẽ cho phép bạn tự do làm những gì mình thích. Một
xã hội cho phép hưởng thụ thường tạo niềm tin cho cá nhân rằng chính họ, quản lý
cuộc sống và cảm xúc của mình.
Ở chiều ngược lại, con người trong xã hội Restraint thường không chú trọng
nhiều đến thời gian giải trí để thỏa mãn sự hài lòng của bản thân. lOMoAR cPSD| 58591236
Những cá nhân sống trong xã hội này sẽ luôn cảm thấy hành động của mình bị
giới hạn bởi những quy tắc, và những hoạt động nuông chiều bản thân sẽ làm họ cảm thấy sai trái.
Các quốc gia Restraint có thể kể đến là Việt Nam (35), Ấn Độ (26), Pakistan
(0); và ở chiều Indulgence sẽ là các nước Mexico (97), Đan Mạch (70), Mozambique (80).
2. Áp dụng thực tiễn
Việc áp dụng mô hình văn hóa của Hofstede được thể hiện rõ nhất trong kinh doanh.
Lấy ví dụ về McDonald’s. Ở Mỹ, McDonald’s thường tập trung quảng cáo,
chạy chương trình khuyến mãi mua một tặng một (một hamburger tặng 1 khoai tây
chiên), trong khi ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, McDonald sẽ
thường chạy quảng cáo các combo từ 2 - 4 người, combo gia đình.
Lý do là vì McDonald hiểu được Mỹ là một nền văn hóa individualism, trong
khi các nước như Trung Quốc, Việt Nam là collectivism. Hiểu về những khía cạnh
văn hóa của Hofstede còn giúp cho chính cá nhân bạn hòa hợp tốt hơn về môi trường văn hóa mới.
Là một người Việt Nam, sống trong xã hội High power distance, cá nhân sẽ
cần thay đổi cách làm việc để hòa hơp với môi trường làm việc của Đức, một xã hội Low power distance.
Mô hình văn hóa của Hofstede có thể giúp cá nhân trong các lĩnh vực như:
ngoại giao, kinh doanh, marketing, quản lý,... mang tính quốc tế. lOMoAR cPSD| 58591236
3. Phân tích tình huống
Tình huống của Hoa có thể được phân tích dựa trên Lý thuyết Phát triển Bản
sắc của Erik Erikson, đặc biệt là giai đoạn Khủng hoảng bản sắc (Identity vs. Role
Confusion) ở thanh niên.
Hoa đang đối mặt với khủng hoảng bản sắc nghề nghiệp khi cô cảm thấy không
phù hợp với công việc kế toán theo mong muốn của gia đình, trong khi bản thân lại
đam mê giảng dạy âm nhạc. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng này xuất phát từ mâu
thuẫn giữa giá trị cá nhân và kỳ vọng xã hội.
Gia đình mong muốn cô có một công việc ổn định, trong khi cô lại khao khát
theo đuổi nghệ thuật. Điều này khiến Hoa cảm thấy bối rối, không chắc chắn về con
đường phía trước. Thiếu sự tự nhận thức rõ ràng cũng góp phần làm gia tăng khủng
hoảng khi cô chưa có đủ trải nghiệm thực tế để đánh giá khả năng thành công trong lĩnh vực âm nhạc.
Bên cạnh đó, áp lực từ xã hội và nỗi sợ rủi ro cũng khiến cô do dự, lo lắng về
sự ổn định tài chính nếu chuyển hướng nghề nghiệp.
Để vượt qua khủng hoảng này, Hoa cần bắt đầu bằng việc tự đánh giá bản thân,
có thể thông qua các bài trắc nghiệm nghề nghiệp hoặc nhờ sự tư vấn từ chuyên gia
để xác định rõ hơn về năng lực và đam mê của mình.
Bên cạnh đó, cô có thể thử nghiệm và khám phá bằng cách tham gia giảng dạy
âm nhạc bán thời gian, theo học các khóa đào tạo hoặc gặp gỡ những người đã thành
công trong lĩnh vực này để tìm hiểu thực tế.
Ngoài ra, giao tiếp với gia đình cũng là một bước quan trọng, giúp cô trình bày
rõ ràng mong muốn và kế hoạch của mình, từ đó nhận được sự thấu hiểu và ủng hộ từ người thân.
Một giải pháp khả thi là xây dựng lộ trình chuyển đổi hợp lý, có thể bắt đầu
bằng việc làm kế toán trong ngắn hạn để đảm bảo tài chính, đồng thời học thêm về
âm nhạc để từng bước chuyển sang công việc yêu thích.
Tình huống của Hoa có thể được phân tích thông qua Lý thuyết Phát triển
Bản sắc của Erik Erikson, đặc biệt là giai đoạn Tạo dựng bản sắc (Identity vs. lOMoAR cPSD| 58591236
Role Confusion), khi một cá nhân phải xác định rõ vai trò và con đường của mình trong xã hội.
Đồng thời, Lý thuyết Phát triển Nghề nghiệp của Donald Super cũng phù hợp
khi nhấn mạnh rằng lựa chọn nghề nghiệp không phải là quyết định cố định ngay từ
đầu mà là một quá trình phát triển theo thời gian. Vì vậy, Hoa có thể cho mình cơ hội
khám phá và điều chỉnh lộ trình để tìm ra con đường phù hợp nhất. Khủng hoảng bản
sắc là một giai đoạn bình thường trong quá trình trưởng thành, và nếu biết cách đối
diện, phân tích và lên kế hoạch hợp lý, cô hoàn toàn có thể đưa ra lựa chọn đúng đắn cho tương lai của mình. lOMoAR cPSD| 58591236 KẾT LUẬN
Mô hình các chiều cạnh văn hóa của Geert Hofstede cung cấp một khung lý thuyết
quan trọng giúp phân tích và so sánh sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia cũng
như tác động của chúng đến hành vi tổ chức, quản lý và giao tiếp trong môi trường
toàn cầu. Thông qua sáu chiều cạnh văn hóa, Hofstede đã giúp làm rõ cách các giá
trị văn hóa ảnh hưởng đến quyết định, thái độ và cách ứng xử của con người trong
nhiều lĩnh vực khác nhau.
Mô hình này có giá trị ứng dụng rộng rãi trong quản trị kinh doanh, giao tiếp
liên văn hóa, chiến lược phát triển kinh tế và hoạch định chính sách, đặc biệt là trong
bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Tuy nhiên, mô hình cũng có những hạn chế nhất định, như tính cố định tương
đối của các chiều cạnh, sự thiếu linh hoạt trong việc phản ánh sự thay đổi văn hóa
theo thời gian, và khả năng khái quát hóa có thể chưa hoàn toàn phù hợp với từng cá nhân trong một quốc gia.
Dù vậy, với những đóng góp quan trọng của mình, mô hình Hofstede vẫn là
một trong những công cụ phân tích văn hóa có ảnh hưởng lớn nhất, giúp các cá nhân
và tổ chức hiểu rõ hơn về sự khác biệt văn hóa, từ đó tối ưu hóa chiến lược giao tiếp,
hợp tác và quản lý trong môi trường đa văn hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách:
1. Hofstede, G. (2001). Hệ quả văn hóa: So sánh giá trị, hành vi, thể chế và tổ
chức giữa các quốc gia (Tái bản lần 2). Nhà xuất bản Sage.
2. Hofstede, G., Hofstede, G. J., & Minkov, M. (2010). Văn hóa và tổ chức:
Phần mềm tư duy của con người (Tái bản lần 3). Nhà xuất bản McGraw-Hill. Bài báo khoa học:
3. Hofstede, G. (1983). Văn hóa quốc gia qua bốn chiều cạnh: Một lý
thuyếtnghiên cứu về sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia. Tạp chí Nghiên cứu
Quản lý & Tổ chức Quốc tế, 13(1–2), 46–74.
https://doi.org/10.1080/00208825.1983.11656358 lOMoAR cPSD| 58591236
4. Minkov, M., & Hofstede, G. (2011). Sự phát triển của học thuyếtHofstede.
Quản lý Văn hóa Đa quốc gia: Một Tạp chí Quốc tế, 18(1), 10–20.
https://doi.org/10.1108/13527601111104269