Tiểu luận: Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------***------- BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Họ tên sinh viên : Nguyễn Phương Anh Mã số sinh viên : 11220418 Lớp
: Kinh tế chính trị Mác Lê Nin_Marketing CLC 64D_ AEP(222)_36 Hà Nội 4/2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...................................................................................................................3
I. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế.............................................3
1.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.................................................................3
1.2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế...................................3
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế...........................................................4
1.4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam
...............................................................................................................................5
1.4.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế.......................................5
1.4.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế.......................................7
II. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.........................7
2.1 Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế...........................7
2.2 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam...........................................9
2.3 Thành tựu trong thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam................11
2.4 Hạn chế trong thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam...................15
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế...............................16
3.1 Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức......................................16
3.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh.......................................................................17
3.3 Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.................18
3.4 Đổi mới sáng tạo công nghệ..........................................................................19
3.5 Nâng cao năng lực cán bộ hội nhập...............................................................20
3.6 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo.......................................20
KẾT LUẬN................................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................22 1 LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và
công nghệ, hội nhập quốc tế là tất yếu, là nhu cầu tồn tại và phát triển của các nước.
Việc các nước trên thế giới hội nhập quốc tế góp phần thúc đẩy thế giới tiến nhanh
trên con đường văn minh, thịnh vượng. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là định
hướng chiến lược lớn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của
Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng,
xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Sau hơn 30 năm đổi mới về kinh tế từ 1986 đến
nay, Việt Nam đã và đang phát triển ổn định, từ một nước đói nghèo vươn lên trở
thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về nông, thủy sản và hội nhập ngày càng sâu
rộng với thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ
thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Hiện nay, cục diện kinh tế
thế giới có nhiều chuyển biến theo hướng phức tạp và khó dự đoán hơn. Tăng trưởng
kinh tế thế giới năm 2023 được dự báo sẽ tiếp tục suy giảm (còn khoảng 2,7%)1, nguy
cơ suy thoái kinh tế, thậm chí khủng hoảng kinh tế ở cấp độ toàn cầu, vấn đề chuyển
dịch chuỗi cung ứng, hay xung đột thương mại giữa Mỹ với một số đối tác, đặc biệt
với Trung Quốc có những diễn biến khó lường. Những sự kiện, diễn biến trên có ảnh
hưởng lớn đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới và động thái chính sách của các
nước trong đó có Việt Nam. Do đó, vấn đề cần thiết là nhận thức đầy đủ hơn những
điểm mới của hội nhập kinh tế quốc tế, xác định các giải pháp để tham gia, đóng góp
đối với tiến trình này nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế
thách thức. Xuất phát từ lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Thực trạng
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay". NỘI DUNG
1 Tổng cục Thống kê (2022), “Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý IV, năm 2022 và năm 2023”, Hà Nội 2
I. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều định nghĩa, trong đó có 2 cách hiểu như sau:
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết
nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng thời
tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung2. Hay hội nhập quốc tế là quá trình liên kết,
gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ
chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc
gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm3.
1.2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu
hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc
gia trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, v.v...trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi bật nhất, nó
vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực
khác. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt động kinh tế vượt qua
mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu
khách quan vì: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân
công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia
tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể
tách rời khỏi nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất
được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế, các
nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội
nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu
đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thanh tựu của cách mạng
công nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển. Trong cuốn sách “Toàn cầu
hóa và những mặt trái”, nhà kinh tế học Joseph Eugene Stiglitz đã bàn về tác động
của toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa đã làm giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang
phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở những nước
đang phát triển, điều vượt xa tầm với thậm chí những người giàu nhất của bất kỳ
2 Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia sự thật, trang 160
3 Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), “Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế”, Hà Nội 3
quốc gia nào một thế kỷ trước đây. Toàn cầu hóa không tốt, không xấu. Nó có sức
mạnh để đem lại vô số điều tốt. Với các nước Đông Á, đã thu được nhiều lợi ích.
Nhưng ở phần lớn các nước khác, toàn cầu hóa không đem lại lợi ích tương xứng.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay. Đối với các
nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử
dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài nguyên, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm của các nước cho phát triển của mình. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường
có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút
ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày
càng rõ rệt. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế còn giúp mở của thị trường, thu hút
vốn, thúc đẩy công nghiệp hóa, tăng tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và
nâng cao thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế thì các nước
đang và kém phát triển cũng phải đối mặt với không ít thách thức và rủi ro do chủ
nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ
biến quá trình toàn cầu hóa thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo
quỹ đạo tư bản chủ nghĩa: đó là gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài, tình trạng
bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước đang phát triển và
phát triển. Chính vì vậy, các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp
lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình
diện và đầy nghịch lý4.
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập thành công. Hội nhập là
tất yếu, tuy nhiên không phải thực hiện hội nhập bằng mọi giá. Quá trình hội nhập
phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu, quá trình này đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng như các mối quan hệ quốc tế
thích hợp. Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn
thiện và hiệu lực thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc tế,...là
những điều kiện chủ yếu để thực hiện hội nhập thành công. Thứ hai, thực
hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhâp kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó, hội nhập kinh tế
quốc tế có thể được coi là nông, sâu thùy theo mức độ tham gia của một nước vào các
quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Xét về hình thức,
4 Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia sự thật, trang 162 4
hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước
gồm nhiều hình thức đa dạng như: đối thương, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ,...
1.4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên kết giữa nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới. Do đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra sự
tác động theo hai chiều hướng là tích cực và tiêu cực.
1.4.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to
lớn trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng. Cụ thể là:
Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ, vốn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Hội nhập kinh tế thực chất là mở cửa thị trường vì
vậy khi Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng
với việc được hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các
chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường
thế giới. Chỉ tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang các nước thành viên tăng đáng kể. Năm đầu tiên hội nhập ASEAN,
tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN chỉ đạt mức khiêm tốn 3,5
tỷ USD. Năm 2020, mặc dù chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN tuy có sụt giảm nhưng vẫn đạt mức
53,6 tỷ USD, tăng 15,4 lần so với năm 1995, chiếm 9,8% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước.
Hình 1. 1: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn 1995-2020 (Đơn vị tỷ USD)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như
vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người 5 lao động.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài,
viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang
vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta ra
làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta
có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây
cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính
của Việt Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm
1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong việc nâng
cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam:
trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và
đa phương các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam trước đây được giải quyết thông
qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều đó góp phần ổn định
cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu
khoa học công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội
nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế
giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó mà các kỹ thuật và
công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa
chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kỹ thuật công nghệ quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
các nhà kinh doanh được đào tạo trong và ngoài nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày
càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây
Việt Nam chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu.
Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế 6
giới, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN,
WTO, APEC…Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn
định, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
1.4.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh đem lại những lợi ích to lớn nó cũng đặt ra
nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là:
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản,
gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến
động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và
rủi ro cho các nước và nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm gia tăng
khoảng cách giàu – nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển nhu nước ta
phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng
tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà
nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an
ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp,...
II. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
2.1 Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Cùng với sự chuyển biến của bối cảnh trong và ngoài nước, quan điểm và nhận
thức của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế cũng có những thay đổi, làm kim chỉ nam
cho các chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước trong từng thời kỳ. Nếu như tại
Đại hội V (1982), Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở rộng sự hợp tác toàn diện giữa
nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế” thì đến Đại hội
Đảng VI (1986) Đảng đã xác định quan hệ kinh tế quốc tế giai đoạn này không chỉ 7
tập trung vào Liên xô và các nước trong cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa mà phải mở
rộng quan hệ với các nước thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc
tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi5. Đây là quan điểm
mở đường cho việc “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ
chức kinh tế” của Việt nam giai đoạn sau này (Đại hội VII năm 1991). Tuy nhiên,
thuật ngữ “hội nhập” chỉ được chính thức được đề cập tại Đại hội VIII (năm 1996)
khi Đảng xác định nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn mới phải đổi mới cơ chế kinh tế
đối ngoại, hội nhập với khu vực và thế giới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng (năm 1996), lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng đã xác định việc đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển của đất
nước. Nghị quyết nhấn mạnh “xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và
thế giới hướng mạnh về xuất khẩu”, "Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài", "tích cực và chủ động
thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế".
Giai đoạn sau này (Đại hội IX, X, XI, XII), Đảng đã nhấn mạnh tới việc chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế song vẫn phải đảm bảo độc lập tự chủ. Khác
với giai đoạn trước, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực của giai
đoạn này không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở các lĩnh vực khác, thể hiện tinh
thần hội nhập toàn diện với khu vực và thế giới.
Nhằm thực hiện các quan điểm đó, nhiều văn bản đã được ban hành. Cụ thể:
Ngày 27-11-2001, Bô • Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về
hô •i nhâ •p kinh tế quốc tế”; ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về mô •t số chủ trương, chính sách lớn để
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Viê •t Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới”; Ngày 10-4-2013, Bô • Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-
NQ/TW về hô •i nhâ •p quốc tế; Ngày 7 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam; Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII ngày 5/11/2016… Đây là các văn kiê •n quan trọng, có ý nghĩa
chiến lược, làm rõ và thống nhất nhâ •n thức trong toàn Đảng, toàn dân về hô •i nhâ •p
quốc tế trong tình hình mới.
2.2 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
5 Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính (2017), “Những kết quả đạt được sau 30 năm đổi mới về hội nhập kinh tế quốc tế”, ngày 9 tháng 3 8
Sau gần 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã từng bước hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với
các nước, tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế. Chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước được hiện thực hóa một cách sinh động:
Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu
vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện
thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn. Nối lại các quan hệ
với các nước lớn: Trung Quốc, Hoa Kỳ, kết quả Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh
cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, Tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995, tháng 7/2000, ký Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Khai thông và phát triển quan hệ với Nhật Bản và năm 1992
Chính phủ Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam. Năm 1991, Chính phủ Australia
bãi bỏ lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam.
Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
hầu hết các nước trong tổ chức Liên hiệp quốc và có quan hệ kinh tế - thương mại,
gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai
lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Về hợp tác đa phương và khu vực, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với
các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Quỹ
tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế,
thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Năm
1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham gia khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), từ tháng 1 năm 1996 bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và
các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của
AFTA, ngoài ra Việt Nam còn tham gia đàm phán các hiệp định, chương trình như:
Hiệp định về thương mại, dịch vụ, chương trình hợp tác trong các lĩnh vực giao
thông, nông nghiệp... Tháng 3 năm 1996, Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn đàn
hợp tác Á - Âu (ASEM). Tháng 6 năm 1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn
đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đến cuối năm 1998 được
công nhận chính thức là thành viên của tổ chức này. Đây là Diễn đàn hợp tác kinh tế
được thành lập từ năm 1998, đến nay có 21 nền kinh tế thành viên ở châu Á, châu Mỹ 9
và châu Đại Dương. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các hoạt động của Diễn
đàn này một cách có hiệu quả.
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng
01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này. Đây là sự kiện đánh dấu sự
hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia nhập WTO, Việt
Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ, theo
hướng minh bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng cho việc xây dựng một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Điểm nổi bật hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là tháng 10/2015 Việt
Nam đã hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) vào tháng 02/2016. Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một
khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp
định thế kỷ 21. Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận
dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt
Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối
ngoại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.
Việt Nam còn đăng cai tổ chức APEC 2 lần: lần đầu tiên vào năm 2006 và lần
thứ hai vào năm 2017. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tin cậy và tín nhiệm
cao của các nền kinh tế thành viên cũng như cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Dư
luận Quốc tế đều cho rằng Việt Nam đã tôn vinh đậm nét hình ảnh của một thành
viên năng động, đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đồng thời mở ra cơ hội mới cho
nền kinh tế toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập chặt chẽ với khu vực và thế giới. Tính
đến tháng 01/2022, Việt Nam đã tham gia thiết lập 17 Hiệp định thương mại tự do với
60 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới. STT FTA Hiện trạng Đối tác
FTAs đã có hiệu lực 1 AFTA Có hiệu lực từ 1993 ASEAN 2 ACFTA Có hiệu lực từ 2003 ASEAN, Trung Quốc 3 AKFTA Có hiệu lực từ 2007 ASEAN, Hàn Quốc 4 AJCEP Có hiệu lực từ 2008 ASEAN, Nhật Bản 5 VJEPA Có hiệu lực từ 2009 Việt Nam, Nhật Bản 6 AIFTA Có hiệu lực từ 2010 ASEAN, Ấn Độ 10 7 AANZFTA Có hiệu lực từ 2010 ASEAN, Australia, New Zealand 8 VCFTA Có hiệu lực từ 2014 Việt Nam, Chi Lê 9 VKFTA Có hiệu lực từ 2015 Việt Nam, Hàn Quốc
Việt Nam, Nga, Belarus, Amenia, 10
VN – EAEU FTA Có hiệu lực từ 2016 Kazakhstan, Kyrgyzstan
Việt Nam, Canada, Mexico, Peru,
Có hiệu lực từ 30/12/2018, CPTPP
Chi Lê, New Zealand, Australia, 11
có hiệu lực tại Việt Nam từ (Tiền thân là TPP)
Nhật Bản, Singapore, Brunei, 14/1/2019 Malaysia
Có hiệu lực tại Hong Kong (Trung Quốc), Lào, Myanmar, Thái Lan,
Singapore và Việt Nam từASEAN, Hong Kong (Trung 12 AHKFTA 11/06/2019 Quốc)
Có hiệu lực đầy đủ với toàn
bộ các nước thành viên từ ngày 12/02/2021. 13 EVFTA
Có hiệu lực từ 01/08/2020
Việt Nam, EU (27 thành viên)
Có hiệu lực tạm thời từ 14 UKVFTA
01/01/2021, có hiệu lựcViệt Nam, Vương quốc Anh chính thức từ 01/05/2021
ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, 15 RCEP
Có hiệu lực từ 01/01/2022
Nhật Bản, Australia, New Zealand FTA đang đàm phán V iệt Nam
– Khởi động đàm phán thángViệt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na uy, 16 EFTA FTA 5/2012 Iceland, Liechtenstein)
Việt Nam – IsraelKhởi động đàm phán tháng 17 Việt Nam, Israel FTA 12/2015
Hình 2. 1: Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 01/2022
Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập
2.3 Thành tựu trong thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được một
số thành tựu nhất định, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc
gia, tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố 11
niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân và gửi đi thông điệp đến cộng đồng quốc tế sự
thân thiện của người dân Việt Nam, điều này góp vào sự nghiệp phát triển và đổi mới
của đất nước, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị
thế của nước ta trên trường quốc tế.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xă hội, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường
trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…;
thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng
tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập
trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công
nghệ và giá trị gia tăng cao hơn…
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt
Nam đã phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu Việt Nam, mở rộng các loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu.
Thương mại quốc tế đã đóng góp phần lớn cho tăng trưởng GDP của Việt Nam và
góp phần lớn vào tạo việc làm cho lao động.
Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5%
so với năm 2021. Đây là con số kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây. Trong đó xuất
khẩu tăng 10,6%, nhập khẩu tăng 8,4%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 ước
tính xuất siêu 11,2 tỷ USD (năm 2021 xuất siêu 3,32 tỷ USD), đồng thời là năm thứ 7
liên tiếp xuất siêu.6 Về xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU
giai đoạn 8/2020-7/2022 đạt 83,4 tỷ USD, tức trung bình 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn
24% kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019. Tỷ lệ hàng xuất khẩu
tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% năm 2021 và
24,5% trong 6 tháng đầu năm 2022. Đặc biệt, EVFTA đã tạo tác động lan tỏa tới
nhiều khu vực dân cư khi các sản phẩm tận dụng tốt nhất các ưu đãi thuế quan
EVFTA được ghi nhận là gạo (100%), giày dép (74-98%), thủy sản (70-76%), nhựa
và các sản phẩm nhựa (53-70%)...7 Trong khi đó, với Hiệp định CPTPP chính thức có
hiệu lực tại Việt Nam ngày 14/1/2019, chỉ trong vòng 2 năm (năm 2019 và 2020),
kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và 10 nước CPTPP đã đạt 77,4 và 78,2
tỷ USD, tương ứng tăng 3,9% và 5% so với năm 2018. Riêng về kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang 10 nước CPTPP năm 2019 đạt 39,5 tỷ USD, tăng 7,2% so với
6 Vũ Khuê (2022), “Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 732,5 tỷ USD”, Tạp chí điện tử, ngày 29 tháng 12
7 Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI (2023), “Doanh nghiệp Việt Nam sau hai năm thực thi Hiệp định EVFTA”, ngày 17 tháng 2 12
năm 2018 và năm 2020 đạt 38,7 tỷ USD, tăng 5% so với năm 2018 khi chưa có hiệp
định. Trong đó, nếu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu sang 2 thị trường mới chưa có
FTA là Canada và Mexico thì trong năm 2020 xuất khẩu sang Canada tăng 12,1%,
Mexico tăng 11,8% so với năm 2019. Đây cũng chính là hai thị trường có tỷ lệ sử
dụng C/O mẫu CPTPP cao nhất trong số các thành viên. Kết quả này càng khẳng định
cho những dự báo về sự tăng trưởng tích cực khi Việt Nam gia nhập Hiệp định CPTPP.8
Bốn là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả khởi
sắc. Kể từ khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực (năm 1988), FDI vào Việt
Nam ngày càng tăng cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Việc thực
hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO đã giúp
hoàn thiện và làm minh bạch hệ thống pháp luật, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam
đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Hình 2. 2: Vốn đầu tư nước ngoài 2 tháng qua các năm, cơ cấu vốn đầu tư 2 tháng
đầu năm 2022 và các nhà đầu tư hàng đầu
Số liệu được Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố cho
8 Trịnh Minh Anh (2021), “Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, ngày 12 tháng 5 13
thấy, tổng vốn FDI đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua của cổ phần tính đến
20/2/2022 của cả nước đạt gần 5 tỷ USD. Ngoài vốn đầu tư đăng ký mới giảm thì cả
vốn điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần đều tăng mạnh so với cùng kỳ. Đáng kể đến
là loạt 3 dự án FDI “khủng” điều chỉnh tăng vốn lên tới hàng tỷ USD. Đó là dự án
Đầu tư xây dựng hạ tầng khu đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh (Singapore) điều
chỉnh tăng vốn đầu tư thêm gần 941 triệu USD; Dự án Công ty TNHH Samsung
Electro-mechanics Việt Nam (Hàn Quốc) điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 920 triệu
USD tại Thái Nguyên và Dự án Nhà máy chế tạo thiết bị điện tử, phương tiện thiết bị
mạng và các sản phẩm âm thanh đa phương tiện (Hồng Kông) điều chỉnh tăng vốn
đầu tư thêm gần 306 triệu USD tại Bắc Ninh... Hơn nữa, theo Cục Đầu tư nước ngoài,
vốn FDI đăng ký mới tuy giảm mạnh song số lượng dự án đầu tư mới lại tăng
(45,2%). Điều này cho thấy niềm tin của nhà đầu tư vào kết quả phòng chống dịch
Covid-19 của Chính phủ, cũng như môi trường đầu tư tại Việt Nam trong bối cảnh bình thường mới.
Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện
tích cực môi trường trong nước Hội nhập kinh tế quốc tế tạo hiệu ứng tích cực thúc
đẩy cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hoàn thiện môi trường kinh
doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong dài hạn,
tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, minh bạch, dễ dự đoán hơn và
ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Trong thời gian gần 10 năm
trở lại đây, để thực hiện các cam kết gia nhập WTO như tự do hóa quyền kinh doanh
xuất, nhập khẩu, xóa bỏ các hạn chế xuất, nhập khẩu, xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu gây
bóp méo cạnh tranh, giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh
nghiệp, các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, minh bạch hóa chính
sách… hệ thống pháp luật của ta đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng
ngày càng trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng trong nước.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có 108 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt
Nam trong năm 2022. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 6,46 tỷ
USD, chiếm 23,3% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 39,7% so với cùng kỳ 2021.
Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 4,88 tỷ USD, giảm 1,5% so với cùng kỳ. Nhật Bản
đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,78 tỷ USD, chiếm gần 17,3% tổng
vốn đầu tư, tăng 22,7% so với cùng kỳ.9
9 “108 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam trong năm 2022”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 27 tháng 12 năm 2022 14
2.4 Hạn chế trong thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu, Việt Nam vẫn còn những hạn chế trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, những bất cập chủ yếu là:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ
bản của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải
thiện về căn bản. Tăng trưởng thời gian qua phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín
dụng, lao động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động
hay hàm lượng tri thức, công nghệ.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao như mong muốn, chậm đổi mới chính sách
liên quan đến thu hút FDI. Việc thu hút các dự án FDI tăng về số lượng, nhưng chất
lượng chưa đảm bảo, công nghệ chưa tốt, đặc biệt công nghệ trong những lĩnh vực
Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng.
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt
Nam vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Các ngành kinh tế,
các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng vươn ra chiếm lĩnh thị trường
khu vực và thế giới chưa nhiều, một số sản phẩm đã bắt đầu gặp khó khăn trong cạnh
tranh, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm.
Thứ tư, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy
đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi
khi lúng túng trong việc xác định hướng đi. Các thị trường bất động sản, tài chính, lao
động, khoa học - công nghệ tuy đã hình thành và phát triển nhưng vẫn cần có sự cải thiện.
Thứ năm, đã xuất hiện các điểm “cổ chai” về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn
nhân lực... gây cản trở cho quá trình phát triển. Trong đó, nguồn nhân lực và cơ sở hạ
tầng là các nội dung đặc biệt quan trọng, cần lưu tâm để có thể vượt qua thách thức,
nắm bắt cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, một số địa phương lúng túng trong việc triển khai công tác hội nhập
kinh tế quốc tế. Vẫn tồn tại khoảng cách khá xa về năng lực và thiếu sự gắn kết, hỗ
trợ giữa khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Công tác thông tin truyền thông về hội nhập, năng lực giải quyết tranh chấp
thương mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế; chưa tận dụng được hết các cơ hội do các hiệp định FTA mang lại.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những chủ đề kinh tế có tác động tới toàn 15
bộ tiến trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, liên quan trực tiếp đến quá
trình thực hiện định hướng và mục tiêu phát triển đất nước. Với những tác động đa
chiều của hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước Việt Nam cần
phải tính toán một cách phù hợp để hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
3.1 Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức
Ngày 5/11/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết
số 06- NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới. Nghị quyết chỉ rõ:
Thứ nhất, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc
tế nói chung; nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội, đặc biệt là của doanh
nghiệp, doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội, thách thức và
những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho
từng ngành hàng, hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng; chú trọng công tác bảo vệ
chính trị nội bộ. Chủ động, kịp thời phát hiện, đấu tranh với các luận điệu, quan điểm
sai trái, thù địch; bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện luật pháp trực tiếp liên quan đến hội nhập
kinh tế quốc tế, phù hợp với Hiến pháp, tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy luật của
kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; nội luật hóa theo lộ trình
phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về
thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, lao động - công đoàn…
bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc
tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; nâng cao nhận thức
và năng lực pháp lý, đặc biệt là luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế, trước hết là
của cán bộ chủ chốt các ngành và chính quyền các cấp, doanh nghiệp, cán bộ làm
công tác tố tụng, đội ngũ luật sư và những người trực tiếp làm công tác hội nhập kinh
tế quốc tế; hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển doanh
3.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng đang tạo sức ép cạnh tranh ngày
càng gay gắt trên cả ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Vấn đề lớn đặt ra 16
là làm sao thực hiện hiệu quả các FTA thế hệ mới để tăng cường được nội lực, nâng
cao được năng suất, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nuôi dưỡng và phát triển được
nhiều “gien Việt” trong nền kinh tế. Mặt khác, chúng ta cần tiếp tục nỗ lực củng cố ổn
định kinh tế vĩ mô, có năng lực thích nghi và điều chỉnh linh hoạt trước những biến
động kinh tế thế giới và khu vực. Việc đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất và năng lực cạnh tranh là tiền đề và là giải pháp quyết định để nâng cao
nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của hội nhập quốc tế. Trong đó (1)
Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung ưu tiên đổi mới, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh
tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế;
giữ vững an ninh kinh tế; (2) Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược; hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại; chú trọng phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
Ưu tiên phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là khoa học - công nghệ
hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh
của nền kinh tế; (3) Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên
phạm vi cả nước và từng vùng, địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ
trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các
ngành, lĩnh vực trọng tâm trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới. Tập trung ưu tiên cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu
lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín
dụng; đổi mới, cơ cấu lại khu vực sự nghiệp công lập; cơ cấu lại nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ… Đồng thời, đổi mới phương thức thực hiện liên kết, phối hợp
trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa; (4) Xây dựng
và triển khai các chính sách hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng ở hầu hết các ngành và
lĩnh vực kinh tế để khu vực kinh tế này thực sự trở thành một động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế, một lực lượng nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế; (5)
Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; đẩy nhanh phổ cập
ngoại ngữ, trọng tâm là tiếng Anh trong giáo dục các cấp. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn
kết đào tạo với doanh nghiệp; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản 17
xuất kinh doanh; (6) Giám sát thường xuyên, tăng cường công tác dự báo về tăng
trưởng xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, năng suất lao động, xuất khẩu lao động,
xác định cơ cấu trong mỗi ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế để có cơ sở đánh giá
hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế và kịp thời điều chỉnh chính sách, biện pháp.
3.3 Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là sự nghiệp
của toàn dân tộc. Để giữ vững độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tăng
cường đa dạng hóa và mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều đối tác, thực hiện hội
nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt theo nhiều phương, nhiều tuyến, nhiều
tầng là cách thức để tạo ra một dải lựa chọn, khiến cho Việt Nam không bị lệ thuộc
vào bên ngoài. Tăng cường sức mạnh quốc gia là yếu tố then chốt để giảm sự “tùy
thuộc bất đối xứng” không có lợi cho Việt Nam. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia
chính là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của nội lực kết
hợp với sức mạnh của ngoại lực, sức mạnh tổng hợp của kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hóa. Khi giải quyết các vấn đề toàn cầu, cần phải tăng cường sức mạnh mềm của
đất nước để các chính sách quốc gia có được sự ủng hộ và giúp đỡ cao của cộng đồng quốc tế.
Chiến lược thu hút FDI trong giai đoạn mới cần hạn chế được tối đa các tiềm
ẩn bất lợi đối với độc lập kinh tế, bảo đảm an ninh trật tự xã hội, quốc phòng của đất
nước từ góc độ kinh tế, địa - chính trị. Tại Hội nghị tổng kết 30 năm đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức tại Hà Nội ngày 4/10/2018,
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo các bộ, ngành hoàn thiện khung pháp luật
liên quan đến đầu tư, trong đó có thực hiện chủ trương hợp tác đầu tư nước ngoài có
ưu tiên, chọn lọc gắn với mục tiêu nâng tầm trình độ nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế tự chủ.
Xây dựng nền kinh tế tự chủ là điều rất cần thiết và sống còn. Sự phát triển,
hưng thịnh của một quốc gia phải là do doanh nghiệp dân tộc đảm nhiệm, thay vì phụ
thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài. Vì thế, tại Hội nghị, Thủ tướng yêu cầu các
bộ, ngành, chính quyền địa phương khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước
liên doanh, liên kết, góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài trong các dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới, công nghiệp hỗ
trợ... Từ tư duy thụ động, bị nhà đầu tư nước ngoài vào “mua”, nay chuyển sang các
doanh nghiệp trong nước có thể chủ động “mua” lại các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam để tiếp thu thị trường, kênh phân phối, làm chủ công nghệ, quản 18
lý và phát triển các sản phẩm quốc gia.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện cơ bản để Việt Nam thực
hiện mục tiêu xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3.4 Đổi mới sáng tạo công nghệ
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, Việt Nam cần thúc
đẩy mạnh mẽ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, định vị đất nước ở vị trí cao
hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu và thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước. Đây
chính là những nhân tố thuận lợi để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đổi mới mô
hình tăng trưởng nhằm tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập và phát triển nhanh, bền
vững hơn. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là tìm kiếm động lực mới cho
phát triển gắn với cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 và lợi thế của đất nước như công
nghệ thông tin, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh, các ngành dịch vụ
được phát triển từ cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 (thương mại điện tử, chuỗi cung
ứng và vận tải thông minh, công nghệ tài chính…), y tế, du lịch chất lượng cao. Phát
triển những lĩnh vực này không chỉ tạo nhiều việc làm mới, mà còn tạo nhu cầu và thị
trường cho đổi mới, sáng tạo công nghệ.
Tại hội thảo chuyên đề “Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa
chuỗi cung ứng” diễn ra trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 4, ông
Ngô Khải Hoàn – Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết:
Tương lai của chuỗi cung ứng là số hóa và tự vận hành. Đại dịch Covid-19 đã thúc
đẩy một số xu hướng đã có từ trước diễn ra nhanh hơn, trong đó dễ nhận thấy nhất là
xu hướng tự động hóa, rô-bốt hóa, và chuyển đổi số. Xu hướng này hứa hẹn những
lợi ích vô cùng lớn đối với các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày –
những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam10.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần kiên trì theo đuổi mô hình tăng trưởng mới
dựa trên nền tảng là năng suất và đổi mới sáng tạo. Với những nước đang trong giai
đoạn đầu quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam thì giải pháp nhanh chóng và hiệu
quả nhất để tăng nhanh năng suất lao động là thu hút vốn FDI vào các hoạt động dịch
vụ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp có giá trị cao hơn. Đồng thời, kết nối những
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với các tập đoàn đa quốc gia thông qua trao đổi
thông tin, cải tiến kỹ năng và chuyển giao công nghệ. Chúng ta cần có những chiến
10 Thùy Dương, Thanh Minh (2022), Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số giúp phát triển kinh tế tự chủ, thích ứng hội
nhập, Hội thảo chuyên đề “Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng”, thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 05/06/2022, Ban Kinh tế Trung ương 19
lược mới, định hướng mới trong việc thu hút FDI để khu vực này đóng vai trò quan
trọng hơn trong việc chuyển giao, nắm bắt công nghệ, tăng năng suất lao động cho nền kinh tế.
3.5 Nâng cao năng lực cán bộ hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong đó doanh nhân,
doanh nghiệp là lực lượng đi đầu. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần nỗ lực hoàn thiện,
thực hiện quyết liệt, hiệu quả và thực chất các cơ chế, chính sách thúc đẩy doanh
nghiệp Việt Nam tranh thủ tốt cơ hội, lợi ích của hội nhập quốc tế. Việc xây dựng
năng lực cho đội ngũ cán bộ hội nhập theo hướng chuyên nghiệp, bản lĩnh, có trình
độ chuyên môn, kỹ năng thời đại số trở nên rất cấp bách và cần thiết. Mọi sự hợp tác,
hỗ trợ của các bạn bè quốc tế trong lĩnh vực nâng cao năng lực đều được hoan nghênh.
3.6 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang ngày càng gia tăng,
những biến động lớn trên thế giới cả về kinh tế, chính trị sau khủng hoảng kinh tế tài
chính thế giới năm 2008 đã và đang tác động lớn đến các quốc gia, khu vực, Việt
Nam cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo chiến lược xu
hướng thế giới, cục diện và tác động của tình hình thế giới đối với Việt Nam. Trên cơ
sở đó, đề xuất việc điều chỉnh, bổ sung những nội dung cần thiết để thực hiện thắng
lợi đường lối độc lập, tự chủ của Đảng, không ngừng nâng cao vị thế và sức mạnh
quốc gia, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới. KẾT LUẬN
Có thể nói, chặng đường hơn 30 năm đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 20
Nam từ 1986 đến nay là một quá trình đầy thử thách, khó khăn. Vậy nên cơ hội và
thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của
nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh
đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn
kết của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối
cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành công đạt được có ý nghĩa lịch sử,
tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 1.
Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB
Chính trị quốc gia sự thật, trang 160,162. 2.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), “Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế”. 3.
Trịnh Minh Anh (2021), “Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Văn phòng Ban
Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế. 4.
Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính (2017), “Những kết quả đạt được sau 30
năm đổi mới về hội nhập kinh tế quốc tế”. 5.
Thùy Dương, Thanh Minh (2022), Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số giúp phát
triển kinh tế tự chủ, thích ứng hội nhập, Hội thảo chuyên đề “Đổi mới công
nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng”, thành phố Hồ Chí Minh,
ngày 05/06/2022, Ban Kinh tế Trung ương. 6.
Vũ Khuê (2022), “Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 732,5 tỷ
USD”, Tạp chí điện tử. 7.
Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI (2023), “Doanh nghiệp Việt Nam sau
hai năm thực thi Hiệp định EVFTA”. 8.
“108 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam trong năm 2022”, Báo điện tử Chính phủ, năm 2022. 9.
Tổng cục Thống kê (2022), “Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý
IV, năm 2022 và năm 2023”, Hà Nội. 22