Tiểu luận: Tìm hiểu về khu di tích hoàng thành thăng long - Di sản văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Tiểu luận: Tìm hiểu về khu di tích hoàng thành thăng long - Di sản văn hóa du lịch | Đại học Sư Phạm Hà Nội giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

TRƯỜNG ĐẠI HC SƯ PHẠM H NÔ
I
KHOA VIỆT NAM HC
BỘ MÔN DI SẢN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
TIỂU LUẬN MÔN HC
TÌM HIỂU VỀ KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG
LONG
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Quốc Sử
Sinh viên thực hiện: Đă
ng Qunh Chi
MSSV: 705616014
Lớp học: K70C
1
Hà Nội – 2021
Ph( l(c
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................................3
2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................4
4. Bố c(c của bài.........................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG...............5
1.1 Tên gọi, lịch sử hình thành và vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long..............5
1.1.1 Tên gọi..................................................................................................................................5
1.1.2 Lịch sử hình thành.................................................................................................................5
1.1.3 Vị trí phân bổ di tích.............................................................................................................6
1.2 Các di tích trên mặt đất của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long...........................6
1.2.1 Kỳ đài - Cột cờ Hà Nội..........................................................................................................6
1.2.2 Đoan Môn.............................................................................................................................7
1.2.3 Điện Kính Thiên....................................................................................................................7
1.2.4 Nhà D67 và Hầm D67...........................................................................................................7
1.2.5 Hậu Lâu................................................................................................................................8
1.2.6 Chính Bắc Môn.....................................................................................................................8
1.2.7 Tám cổng thành thời Nguyễn................................................................................................8
CHƯƠNG 2: CÁC GIÁ TRỊ CỦA KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG............9
2.1 Giá trị lịch sử.........................................................................................................................9
2.2 Giá trị kiến trúc....................................................................................................................9
2.3 Giá trị văn hóa....................................................................................................................10
2.4 Giá trị phát triển du lịch....................................................................................................10
CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG V VẤN ĐỀ BẢO TỒN CỦA.....................................................10
KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG....................................................................11
3.1 Hiện trạng của khu di tích..................................................................................................11
3.2 Vấn đề bảo tồn....................................................................................................................12
CHƯƠNG 4: Ý NGHĨA CỦA KHU DI TÍCH ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG V ĐẤT NƯỚC
VIỆT NAM.........................................................................................................................................13
4.1 Đối với cộng đồng................................................................................................................13
4.2 Đối với sự phát triển của đất nước Việt Nam....................................................................13
KẾT LUẬN....................................................................................................................................14
2
TI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................15
MỤC LỤC ẢNH............................................................................................................................16
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thủ đô Hà Nội đã được hơn một ngàn năm tuổi kể từ khi vị vua Lý Công Uẩn quyết định
rời kinh đô Hoa Lư về thành Thăng Long vào năm 1010. Nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ với
con sông Hồng như dải lụa vắt ngang thành phố bồi đắp phù sa, khí hậu bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông lý tưởng khiến Hà Nội mang vẻ đẹp thơ mộng. Vùng đất này đã sinh ra nền văn hóa
dân gian với nhiều câu chuyện truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, các lễ hội dân gian, các vị anh
hùng. Không những mang vẻ đẹp thơ mộng ấy mà còn được khoác trên mình sự cổ kính của
các công trình kiến trúc xưa, với hơn 300 di tích lịch sử văn hóa đã được công nhận như Văn
Miếu - Quốc Tử Giám, Chùa Một Cột, Đền Cổ Loa,… Bên cạnh những di tích lịch sử quen
thuộc ấy thì khu di tích Hoàng thành Thăng Long là một quần thể di tích gắn với sự hình
thành của kinh thành Thăng Long.
Hoàng thành Thăng Long là khu di tích giữ vai trò trung tâm quyền lực trọng yếu có bề
dày lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ - từ thời tiền Thăng Long, qua các triều đại Đinh - Tiền Lê,
đến thời kì Thăng Long - Hà Nội với các vương triều Lý - Trần - Lê - Nguyễn). Những di tích
trên mặt đất và được khai quật tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội vừa là
minh chứng cho quá trình giao lưu, tiếp nhận nhiều văn hóa, tư tưởng, học thuyết,… chủ yếu
Trung Quốc và Vương quốc Champa, vừa là minh chứng cho lịch sử dựng nước và giữ
nước của các Vương triều cai trị đất nước Việt Nam.
Hoàng thành Thăng Long hiện nay tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn giữ lại nhiều
hiện vật khảo cổ quý giá, những dấu vết còn sót lại của công trình kiến trúc mang tính lịch sử,
kiến trúc,… tạo thành hệ thống các di tích được xem là quan trọng bậc nhất trong các hệ
thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của Việt Nam. Phản ánh một chuỗi lịch sử nối
tiếp nhau liên tục cai trị đất nước của các triều đại về mặt chính trị, tư tưởng, pháp luật, kinh
tế, hành chính và văn hóa trong gần một ngàn năm. Trên thế giời, thật khó để thấy được một
di tích thể hiện được tính lâu dài xuyên suốt như vậy của sự phát triển về chính trị và văn hóa
như tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long - tác phẩm vô giá về văn hóa lịch sử cần được
thế hệ sau này nghiên cứu và bảo tồn.
3
Chính vì ý nghĩa đó cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn khu
di tích Hoàng thành Thăng Long mà tôi đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về khu di tích Hoàng
thành Thăng Long” để làm báo cáo học tập của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khu di tích Hoàng thành Thăng Long bao gồm K Đài -
cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, điện Kính Thiên, nhà D67 và hầm D67, Bắc Môn, Hậu Lâu và tám
cổng thành dưới thời Nguyễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: những cơ sở lý luận, trong sách, báo,… về khu di
tích này.
- Phương pháp điền dã: khảo sát thực tế, trực tiếp đến tham quan, tìm hiểu,… để năm
bắt thông tin, thực trạng về khu di tích làm căn cứ cho việc nghiên cứu.
4. Bố c(c của bài
Ngoài phần Mở đầu, Phụ lục, Mục lục ảnh và Tài liệu tham khảo thì gồm 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan về khu di tích Hoàng thành Thăng Long
- Chương 2: Các giá trị của khu di tích Hoàng thành Thăng Long
- Chương 3: Hiện trạng và vấn đề bảo tồn của khu di tích Hoàng thành Thăng Long
- Chương 4: Ý nghĩa của khu di tích đối với cộng đồng và đất nước Việt Nam
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG
1.1 Tên gọi, lịch sử hình thành và vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long
1.1.1 Tên gọi
- Tên thường gọi: Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội
- Tên gọi khác: Khu di tích Thành cổ Hà Nội và di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu
1.1.2 Lịch sử hình thành
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long là một phần của kinh thành Thăng Long, cùng
với khu phố cổ và khu phố Pháp là những cấu thành quan trọng nhất tạo ra đô thị Hà Nội thời
cận đại. Khu Di tích là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Đô -
Hà Nội, bắt đầu từ thời Tiền Thăng Long (thế kỷ 7- 9) qua thời Đinh - Tiền Lê (thế kỷ 10) và
phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là trung tâm
chính trị của cả nước, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành
khu di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích ở nước ta.
Thời k nhà Đường, đây là trung tâm của An Nam đô hộ phủ, lần đầu tiên vùng đất này
nắm giữ vai trò một trung tâm quyền lực chính trị. Năm 886, Cao Biền xây dựng một thành trì
mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lý. Tháng 7 năm 1010, nhà
vua công bố thiên đô chiếu (chiếu dời đô) để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La.
Tương truyền rằng khi vua Lý Công Uẩn rời kinh đô thì nhìn thấy rồng bay lên nên nhà vua
đã đổi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngay sau khi
dời đô, Lý Công Uẩn đã cho gấp rút xây dựng Kinh thành Thăng Long, đến đầu năm 1011 thì
hoàn thành. Khi mới xây dựng, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam
trùng thành quách gồm: vòng ngoài cùng gọi là La thành hay Kinh thành, bao quanh toàn bộ
kinh đô và men theo nước của 3 con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Kinh
thành là nơi ở và sinh sống của dân cư. Vòng thành thứ hai (ở giữa) là Hoàng thành, là khu
triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều. Thành nhỏ nhất ở trong cùng là
Cấm thành, nơi chỉ dành cho vua, hoàng hậu và số ít cung tần mỹ nữ.
Nhà Trần sau khi lên ngôi đã tiếp quản Kinh thành Thăng Long rồi tiếp tục tu bổ, xây
dựng các công trình mới. Sang đến đời nhà Lê sơ, Hoàng thành cũng như Kinh thành được
xây đắp, mở rộng thêm ra. Trong thời gian từ năm 1516 đến năm 1788 thời nhà Mạc và Lê
trung hưng, Kinh thành Thăng Long bị tàn phá nhiều lần.
5
Đầu năm 1789, vua Quang Trung dời đô về Phú Xuân, Thăng Long chỉ còn là Bắc thành.
Thời Nguyễn, những gì còn sót lại của Hoàng thành Thăng Long lần lượt bị các đời vua
chuyển vào Phú Xuân phục vụ cho việc xây dựng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính
Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc
thành.
Năm 1805, vua Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ và cho xây dựng Thành
Hà Nội theo kiểu Vauban của Pháp với quy mô nhỏ hơn nhiều. Năm 1831, trong cuộc cải cách
hành chính lớn, vua Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Khi chiếm
xong toàn Đông Dương, người Pháp chọn Hà Nội là thủ đô của liên bang Đông Dương thuộc
Pháp và Thành Hà Nội bị phá đi để lấy đất làm công sở, trại lính cho người Pháp. Từ năm
1954, khi bộ đội ta tiếp quản giải phóng thủ đô thì khu vực Thành Hà Nội trở thành trụ sở của
Bộ quốc phòng. Như vậy sự hình thành của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội
thể hiện ở chỗ nó gần như chạy suốt theo cả chiều dài lịch sử hơn 10 thế kỷ của Thăng Long -
Hà Nội, kể từ thành Đại La thời tiền Thăng Long đến thời đại ngày nay.
1.1.3 Vị trí phân bổ di tích
Hiện nay, Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (Bao gồm Thành cổ
Hà Nội và di tích Khỏa cổ học 18 Hoàng Diệu) năm trên một khuôn viên rộng lớn, gần 19ha
(186.3777,9m
2
), thuộc địa bàn phường Điện Biên và phường Quán Thánh, quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội. Giới hạn bởi:
- Phía Bắc giáp: đường Phan Đình Phùng, đường Hoàng Văn Thụ
- Phía Tây giáp: đường Hoàng Diệu, đường Độc Lập và khuôn viên hội trường Ba Đình
- Phía Nam giáp: đường Bắc Sơn và khuôn viên hội trường Ba Đình
- Phía Đông giáp: đường Nguyễn Tri Phương
1.2 Các di tích trên mặt đất của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long
1.2.1 Kỳ đài - Cột cờ Hà Nội
K Đài - Cột cờ Hà Nội cao 33,4m được xây dựng vào năm 1812 trên bệ tam cấp đồ sộ
trượng trưng cho tam tài (thiên, địa, nhân). Cấp dưới cùng mỗi cạnh 42m, cấp trên cùng mỗi
cạnh 15m, cấp giữa có têm các cửa: Cửa Tây (Hồi quang) - ánh sáng phản chiếu, Cửa Đông
(Nghênh Húc) - đón ánh ban mai, Cửa Nam (Hướng Minh) - hướng về ánh sáng. Tháp có
hình bát giác với 54 bậc thang xoáy ốc lên nóc, có 39 cửa nhỏ hình hoa và 6 cửa hình dẻ quạt
để soi sáng và thông hơi. Hiện nay Cột Cờ nằm trong khuân viên Bảo tàng Lịch sử quân sự
Việt Nam - là một biểu tượng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến.
6
1.2.2 Đoan Môn
Đoan Môn được xây dựng từ thời Lê. Đây là cửa chính dành cho nhà vua ra vào Cấm
thành. Cửa Đoan Môn có cấu trúc hình chữ U, từ Đông sang Tây dài 47m, giữa dày 13m, hai
bên dày 27m, có 5 vòm cổng, vòm cổng chính giữa dành cho vua đi. Phía trên là Vọng Lâu -
lầu canh gác của lính canh, đã được trùng tu lại vào năm 1999-2000. Tại di tích Đoan Môn,
năm 1999 các nhà khảo cổ học đã phát hiện được các dấu tích kiến trúc: nền sân gạch thời Lê,
con đường lát gạch hoa chanh thời Trần và dưới cùng là nền đường từ thời nhà Lý.
1.2.3 Điện Kính Thiên
Kính Thiên - là một điểm di tích quan trọng nhất trong khu trung tâm Thành cổ Hà Nội.
Hiện nay chỉ còn lại nền cũ và hai bậc thềm Rồng đá. Vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ
đóng đô ở Thăng Long đã cho xây điện Càn Nguyên trên đỉnh núi Nùng (núi Long Đỗ - Rốn
Rồng). Năm 1092, đã cho xây lại điện, gọi là Thiên An và đến thời Trần vẫn giữ tên gọi ấy.
Đến năm 1428, vua Lê Thái Tổ dựng điện Kính Thiên (Long Thiên) - là nơi ngự của các vua
Nguyễn khi tuần du Bắc Hà hoặc ra nhận sắc phong của nhà Thanh. Năm 1886, sau khi chiếm
đóng thành Hà Nội, thực dân Pháp đã phá cung Kính Thiên và xây tào nhà Trụ sở chỉ huy
pháo binh. Sau này được gọi là nhà Con Rồng, nơi làm việc của Bộ Tổng tham mưu - Bộ
quốc phòng quân đội nhân dân Việt Nam.
1.2.4 Nhà D67 và Hầm D67
Vào năm 1966, Mỹ bắt đầu dùng không quân đánh phá Hà Nội. Năm 1967, mức độ đánh
phá càng ngày càng ác liệt. Để đảm bảo nơi làm việc của cơ quan Tổng hành dinh tròn chiến
tranh, Bộ quốc phòng đã quyết định xây dựng một ngôi nhà trong khu A Thành cổ Hà Nội.
Ngôi nhà được thiết kế năm 1967 nên được gọi là nhà D67.
Tổng hành dinh - Nhà D67 khu A Bộ quốc phòng, Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương
đã đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam. Đây là
nơi diễn ra nhiều cuộc họp, nhiều sự kiện quan trọng gắn liền với cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của quân và dân ta. Chính vào cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, cuộc tiến
công năm 1972 - đánh thắng hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao nhất là 12 ngày đêm cuối
năm 1972 và tổng tiến công năm 1975 - đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh. Phòng họp D67
chính là nơi hôi tụ những kết tinh và tỏa sáng của tinh hoa và trí tuệ Việt Nam đưa nhân dân ta
đi đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Nhìn bề ngoài D67 là một ngội nhà mái bằng bình thường, kích thước 43.02 x 20.85m
chiều cao đỉnh mái lầ 7.89m nằm dưới lùm cây. Tuy nhiên tính quân sự của nhà D67 hiện rõ
7
khi bước vào bên trong. Tường dày 0.6m, có cách âm, cửa có hai lớp ngoài bằng thép tấm dày
1cm. Trên mái có một lớp cát cản được mảnh róc két và bom bình thường.
Hầm D67 (hầm quân ủy trung ương) được xây dựng vào năm 1967 cùng với nhà D67.
Hầm nằm dưới khoảng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67 dành cho Bộ Chính trị và
Quân ủy trung ương. Hầm sâu khoảng 9m được xây dựng kiến cố để chống bom. Cửa hầm
làm bằng thép tấm có ba cầu thang lên xuống. Hai đường dẫn từ hầm lên hai phòng làm việc
của đại tướng Võ Nguyên Giáp và đại tướng Văn Tiến Dũng trong nhà D67. Đường hầm rộng
1,2m và có 45 bậc thang, ngoài ra còn có một cầu thang phía Nam thông với nhà Con Rồng.
1.2.5 Hậu Lâu
Hậu Lâu - lầu Công chúa, có kiến trúc gốc thời Nguyễn, được xây dựng lại trong thời
Pháp thuộc, xưa là nơi ở của các cung tần mỹ nữ hộ giá nhà vua khi tuần du Bắc Hà. Lầu
được xây bằng gạch, phía dưới hình hộp, phía trên là các công trình kiến trúc với 5 tầng mái
đan xen nhau. Lầu dưới cùng có 3 tầng mái, lầu trên cùng có 2 tầng mái. Mái lợp theo kiểu
ngói ống, trát vữa, xi măng. Bốn góc đao cong, hai góc bờ bên ngoài lắm đầu rồng, hai đầu
hồi đắp hổ phù, hai góc đao đắp hình hồi long bằng vữa.
1.2.6 Chính Bắc Môn
Cửa Bắc - Bắc Môn, quay hướng Bắc, chếch Tây 15 độ, là cổng thành duy nhất còn lại
của Thành cổ Hà Nội, hiện nằm ở 51 Phan Đình Phùng. Cửa Bắc được xây dựng theo kiểu
Vauban, cao 8,71m, rộng 17m, dày 20,48m và có mái hình vòm cuốn cao 4,4m. Cổng thành
được xây dựng bằng gạch, mép cửa kè đá hình chữ nhật, viền trên bằng đá trang trí cánh sen,
phía trên còn có hai ống máng bằng đá được trang trí vân xoắn ốc dùng để thoát nước trên
Vọng Lâu xuống. Trên mặt thành Cửa Bắc còn lưu lại hai vết pháo đại bác (sâu 80cm) do bị
Pháp bắn vào năm 1882. Nơi đây còn thờ hai vị thống đốc đã tuẫn tiết theo thành Hà Nội là
Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
1.2.7 Tám cổng thành thời Nguyễn
Theo Đại Nam nhất thống trí năm 1805, sau khi dựng thành Hà Nội, nhà Nguyễn đã
dựng tường bao từ cửa Đoan Môn quanh nội điện làm hành cung để vua làm việc và nghỉ
ngơi mỗi khi Bắc tuần.
Hiện nay trong khu Thành cổ còn tám cổng cùng với tường bao hành cung bằng gạch vồ
quanh trung tâm thành Hà Nội thời Nguyễn. Phía Nam có hai cổng bên Đoan Môn, phía Bắc
có hai cổng nằm sau trong Hậu Lâu, phía Đông có một cổng ra đường Nguyễn Tri Phương,
phía Tây có một cổng mở ra đường Hoàng Diệu và hai cổng hai bên nền điện Kính Thiên.
8
CHƯƠNG 2: CÁC GIÁ TRỊ CỦA KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG
2.1 Giá trị lịch sử
Hoàng thành Thăng Long là một di tích có nhiều giá trị lịch sử độc đáo. Đó là bề dày lịch
sử của một trung tâm quyền lực chính trị, cho đến nay vẫn giữ vai trò trung tâm của nước Việt
Nam hiện đại. Toàn bộ Khu di tích là trung tâm của Cấm thành, Hoàng thành – nơi ở và làm
việc của vua và Hoàng thất, gắn với các triều đại Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và
lịch sử thăng trầm của Kinh đô Thăng Long, kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỷ 11 đến
thế kỷ 18. Trên thế giới, có nhiều kinh thành có lịch sử trên nghìn năm, nhưng thủ đô một
nước trong thời đại này có bề dày lịch sử với vai trò trung tâm quyền lực gần 13 thế kỷ, trong
đó gần nghìn năm liên tục là kinh đô thì rất hiếm. Tính liên tục và lâu dài của một trung tâm
quyền lực cho đến ngày nay, đó là đặc điểm và giá trị lịch sử nổi bật của khu di tích trung tâm
Hoàng thành Thăng Long. Với những giá trị lịch sử to lớn đó, đã khiến nơi đây là địa điểm có
thể phát triển đa dạng các loại hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, học tập, tham quan, tìm
hiểu… Đồng thời qua đó giáo dục truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc đối với các
thế hệ người Việt Nam.
2.2 Giá trị kiến trúc
Khi nhắc đến Hoàng thành người ta thường nghĩ đến kiến trúc cung đình với những tòa
thành đồ sộ, những lầu son gác tía. Tuy nhiên khác với cố cung của nhà Thanh, nhà Minh, Tử
Cấm Thành của Trung Quốc hay Kinh thành Huế của triều đại nhà Nguyễn, Hoàng thành
Thăng Long có kiến trúc là các tầng di tích và di vật được xếp chồng liên tiếp lên nhau và trải
qua nhiều triều đại lịch sử khác nhau. Mặt bằng kiên trúc rất đa dạng: hình tròn, hình lục giác,
bát giác, mặt bằng hình chữ nhật với nhiều kiểu khác nhau. Kỹ thuật xây dựng kiến trúc da
dạng: nền móng, hệ thống cột… đều rất cầu k, tỉ mỉ và cũng đa dạng về vật liệu. Khu di tích
có khả năng chống chịu tốt và có sự ổn định lâu dài, mang lại những nét chung và nét riêng
trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại. Di tích Hoàng thành Thăng Long cũng thể hiện nét
đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc trong các kiến trúc, di vật, cách xử lý xây dựng kiến trúc đô
thành, cách xử lý quan hệ với thiên nhiên (qua các di chỉ khảo cổ dòng sông, con thuyền).
Nhờ khảo cổ học, ta có thể tìm hiểu về cuộc sống cung đình, thấy sự hội tụ của kiến trúc tiêu
biểu nhất của bề dày văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là việc của thế hệ này, mà của cả những
thế hệ sau.
9
2.3 Giá trị văn hóa
Khu Di sản Văn hóa Thế giới Hoàng thành Thăng Long còn mang giá trị văn hóa to lớn
mà gần như ít có thủ đô nào trên thế giới có được. Giá trị của khu Di sản Văn hóa Thế giới
Hoàng thành Thăng Long đã đáp ứng được ba trong số 6 tiêu chí đánh giá về Di sản Văn hóa
Thế giới của UNESCO đó là thể hiện ở 3 điểm điều sau: Thứ nhất, nơi đây có các di tích trên
mặt đất rất quí giá như: nền điện Kính thiên, Đoan Môn, Bắc Môn, cột cờ Hà Nội, rồi Tổng
hành dinh của Quân đội nhân dân Việt Nam của thời đại Hồ Chí Minh. Hệ thống các di tích
và di vật đã khai quật tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu càng cho chúng ta thấy trong
lòng đất ở khu vực này chứa đựng một chuỗi văn hoá chảy suốt cả lịch sử Thăng Long - Hà
Nội, bao gồm cả thời k tiền Thăng Long ngược lên thành Đại La, đặc biệt từ khi Vua Lý Thái
Tổ định đô Thăng Long cho đến ngày nay. Như vậy, Khu di tích thể hiện ở chỗ nó gần như là
một "bộ lịch sử sống" chảy suốt theo cả chiều dài lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Thứ hai, đây
là kinh thành - nơi hội tụ các di sản văn hoá của cả nước, tinh hoa của nền văn hoá của cả
nước. Hơn thế nữa, nơi đây không phải chỉ kết tinh nền văn hoá của dân tộc, toả sáng ra trong
nước, mà còn là nơi hấp thu các giá trị văn hoá của khu vực và thế giới. Đây vừa là nơi kết
tinh nền văn hoá lâu đời của nước Đại Việt trước đây, Việt Nam hiện nay, vừa là nơi biến các
yếu tố văn hoá ngoại sinh thành nội sinh, làm phong phú và đa dạng thêm cho nền văn hoá
dân tộc. Giá trị thứ ba thể hiện ở nơi đây là trung tâm quyền lực, chính trị của đất nước. Đây
là nơi các vương triều trước đây, cũng như Đảng và Nhà nước trong thời hiện đại đã đưa ra
các quyết sách trong xây dựng đất nước, cũng như trong bảo vệ đất nước, tạo nên các thời k
huy hoàng của lịch sử, vượt lên bao khó khăn, thử thách.
2.4 Giá trị phát triển du lịch
Với những giá trị nổi bật của mình hệ thống di sản Hoàng thành Thăng Long sẽ biến Hà
Nội thành một địa chỉ du lịch lớn của thế kỷ 21. Hoàng thành Thăng Long có đầy đủ các yếu
tố để phát triển du lịch một cách bền vững nhất. Hơn thế nữa, nơi đây có lợi thế hơn so với
các kinh thành ở Việt Nam như kinh thành Huế hay Cố đô Hoa Lư bởi Hoàng thành Thăng
Long nằm ở giữa khu trung tâm của Thủ đô Hà Nội – trung tâm văn hóa, chính trị của cả
nước. Nơi đây có các điểm du lịch gần kề nhau như Văn Miếu Quốc Tử Giám, Lăng Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, Viện Bảo Tàng, Hồ Gươm, Đền Ngọc Sơn... Chính vì vậy, đây là điều kiện
thuận lợi cho những nhà làm du lịch có thể thiết kế những tour du lịch vừa ý nghĩa lại đặc sắc,
thuận lợi cho du khách khi đến du lịch trong ngày có thể tham quan được nhiều nơi mà
khoảng cách giữa các điểm đến lại rất hợp lý. Cùng với những tài liệu lịch sử, những phát
hiện khảo cổ học từ lòng đất Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long thì đây là một điểm đến
10
tiềm năng để phát triển du lịch. Vì thế, đây không chỉ là điểm du lịch văn hóa ngay giữa trung
tâm Hà Nội mà còn gắn bó mật thiết với bề dày của kinh đô ngàn năm văn hiến.
CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG V VẤN ĐỀ BẢO TỒN CỦA
KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG
3.1 Hiện trạng của khu di tích
Vào năm 2010, khu di tích gắn liền với lịch sử kinh thành Thăng Long - Khu Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Trải qua hơn 1000 năm - 10 thế kỉ là quãng thời gian dài đằng đẵng cùng với chiến tranh và
thiên tai đã vùi lấp đi nhiều thứ nhưng diện mạo của kiến trúc kinh thành xưa thì vẫn chưa
phai mờ. Tuy nhiên hiện nay khu di tích đang đứng trước nguy cơ bị loại khỏi danh sách Di
sản văn hóa thế giới do sau khi được cộng nhận, khu di tích vẫn chưa thực hiện đầy đủ cam
kết của Chính phủ với UNESCO, tình trạng xuống cấp đã xảy ra.
Di tích bị lấm bùn: mặc dù Ban Quản lý đã phối hợp với Viện Khảo cổ để khắc phục
nhưng do công tác thi công đào đất xung quanh đã làm việc sụt, lún đất tiếp tục xảy ra. Thêm
vào đó việc đào máy, khoan đã làm nứt vỡ kết cấu các tầng đất của khu di tích phía Bắc. Khu
vực tường bị đổ hiện nay vẫn chưa được xử lý hiệu quả, đất vẫn tiếp tục sụt, lún sâu ảnh
hưởng đến những hố bảo tồn di tích. Ở một số khu vực, máy xúc đã khoét sâu xuống tầng đất
thời Đại La, đã vượt qua chỉ giới bảo tồn di tích ở phía Đông. Viện Khảo cổ nhiều lần yêu cầu
dừng việc sử dụng máy xúc thi công và đưa ra những biện pháp khả thi hơn nhằm đàm bảo
khu di tích không bị phá hủy.
Hiện tượng sa mạc hóa: xuất hiện trên mặc di tích đang diễn ra nhanh vì bị rút cạn nguồn
nước ngầm, do bụi công nghiệp, do rung chấn từ máy thi công,… dự báo tốc độ xuống cấp
của khu di tích sẽ nhanh hơn và mức độ phá hủy là có nguy cơ trong tương lai.
Vấn đề quản lý: do nhà khách Bộ Quốc phòng và hai gia đình đang sử dụng đất thuộc
khu vực khu di tích vẫn chưa thể di dời đi nên ảnh hưởng đến vấn đề quản lý. Việc thi công
nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình không tuân theo quy định xây dựng, nhiều dự định bàn
giao được thực hiện rất chậm, có khi chưa hoàn thành. Mỗi một khu vực chịu sự quản lý từ
các đơn vị khác nhau khiến việc bảo tồn chưa được thống nhất. Việc phân công, quản lý
không rõ ràng, thiếu sự phối hợp đã dẫn đến việc khu di tích không được chăm sóc, giữ gìn
theo đúng cách nó cần như việc chống nấm mốc, bảo tồn vật liệu,…
Chính vì vậy trong tương lai, Hà Nội nói chung, khu di tích Hoàng thành Thăng Long
nói riêng cần phải xem xét lại việc bảo tồn và quản lý. Bởi nếu không thực hiện đúng nguyên
lý, đúng kỹ thuật sẽ dẫn đến hậu quả không lường trước được. Nên có kế hoạch mở rộng diện
tích khai quật, nghiên cứu làm rõ giá trị các kiến trúc di tích tại khu Trung tâm Thành cổ.
11
| 1/18

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HC SƯ PHẠM H NÔI KHOA VIỆT NAM HC
BỘ MÔN DI SẢN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
TIỂU LUẬN MÔN HC
TÌM HIỂU VỀ KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Quốc Sử Sinh viên thực hiện: Đă ng Qunh Chi MSSV: 705616014 Lớp học: K70C 1 Hà Nội – 2021 Ph( l(c
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................................3
2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................4
4. Bố c(c của bài.........................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG...............5
1.1 Tên gọi, lịch sử hình thành và vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long..............5
1.1.1 Tên gọi..................................................................................................................................5
1.1.2 Lịch sử hình thành.................................................................................................................5
1.1.3 Vị trí phân bổ di tích.............................................................................................................6
1.2 Các di tích trên mặt đất của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long...........................6
1.2.1 Kỳ đài - Cột cờ Hà Nội..........................................................................................................6
1.2.2 Đoan Môn.............................................................................................................................7
1.2.3 Điện Kính Thiên....................................................................................................................7
1.2.4 Nhà D67 và Hầm D67...........................................................................................................7
1.2.5 Hậu Lâu................................................................................................................................8
1.2.6 Chính Bắc Môn.....................................................................................................................8
1.2.7 Tám cổng thành thời Nguyễn................................................................................................8
CHƯƠNG 2: CÁC GIÁ TRỊ CỦA KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG............9
2.1 Giá trị lịch sử.........................................................................................................................9
2.2 Giá trị kiến trúc....................................................................................................................9
2.3 Giá trị văn hóa....................................................................................................................10
2.4 Giá trị phát triển du lịch....................................................................................................10
CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG V VẤN ĐỀ BẢO TỒN CỦA.....................................................10
KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG....................................................................11
3.1 Hiện trạng của khu di tích..................................................................................................11
3.2 Vấn đề bảo tồn....................................................................................................................12
CHƯƠNG 4: Ý NGHĨA CỦA KHU DI TÍCH ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG V ĐẤT NƯỚC
VIỆT NAM.........................................................................................................................................13
4.1 Đối với cộng đồng................................................................................................................13
4.2 Đối với sự phát triển của đất nước Việt Nam....................................................................13
KẾT LUẬN....................................................................................................................................14 2
TI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................15
MỤC LỤC ẢNH............................................................................................................................16 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thủ đô Hà Nội đã được hơn một ngàn năm tuổi kể từ khi vị vua Lý Công Uẩn quyết định
rời kinh đô Hoa Lư về thành Thăng Long vào năm 1010. Nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ với
con sông Hồng như dải lụa vắt ngang thành phố bồi đắp phù sa, khí hậu bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông lý tưởng khiến Hà Nội mang vẻ đẹp thơ mộng. Vùng đất này đã sinh ra nền văn hóa
dân gian với nhiều câu chuyện truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, các lễ hội dân gian, các vị anh
hùng. Không những mang vẻ đẹp thơ mộng ấy mà còn được khoác trên mình sự cổ kính của
các công trình kiến trúc xưa, với hơn 300 di tích lịch sử văn hóa đã được công nhận như Văn
Miếu - Quốc Tử Giám, Chùa Một Cột, Đền Cổ Loa,… Bên cạnh những di tích lịch sử quen
thuộc ấy thì khu di tích Hoàng thành Thăng Long là một quần thể di tích gắn với sự hình
thành của kinh thành Thăng Long.
Hoàng thành Thăng Long là khu di tích giữ vai trò trung tâm quyền lực trọng yếu có bề
dày lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ - từ thời tiền Thăng Long, qua các triều đại Đinh - Tiền Lê,
đến thời kì Thăng Long - Hà Nội với các vương triều Lý - Trần - Lê - Nguyễn). Những di tích
trên mặt đất và được khai quật tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội vừa là
minh chứng cho quá trình giao lưu, tiếp nhận nhiều văn hóa, tư tưởng, học thuyết,… chủ yếu
là Trung Quốc và Vương quốc Champa, vừa là minh chứng cho lịch sử dựng nước và giữ
nước của các Vương triều cai trị đất nước Việt Nam.
Hoàng thành Thăng Long hiện nay tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn giữ lại nhiều
hiện vật khảo cổ quý giá, những dấu vết còn sót lại của công trình kiến trúc mang tính lịch sử,
kiến trúc,… tạo thành hệ thống các di tích được xem là quan trọng bậc nhất trong các hệ
thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của Việt Nam. Phản ánh một chuỗi lịch sử nối
tiếp nhau liên tục cai trị đất nước của các triều đại về mặt chính trị, tư tưởng, pháp luật, kinh
tế, hành chính và văn hóa trong gần một ngàn năm. Trên thế giời, thật khó để thấy được một
di tích thể hiện được tính lâu dài xuyên suốt như vậy của sự phát triển về chính trị và văn hóa
như tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long - tác phẩm vô giá về văn hóa lịch sử cần được
thế hệ sau này nghiên cứu và bảo tồn. 3
Chính vì ý nghĩa đó cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn khu
di tích Hoàng thành Thăng Long mà tôi đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về khu di tích Hoàng
thành Thăng Long” để làm báo cáo học tập của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khu di tích Hoàng thành Thăng Long bao gồm K Đài -
cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, điện Kính Thiên, nhà D67 và hầm D67, Bắc Môn, Hậu Lâu và tám
cổng thành dưới thời Nguyễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: những cơ sở lý luận, trong sách, báo,… về khu di tích này.
- Phương pháp điền dã: khảo sát thực tế, trực tiếp đến tham quan, tìm hiểu,… để năm
bắt thông tin, thực trạng về khu di tích làm căn cứ cho việc nghiên cứu. 4. Bố c(c của bài
Ngoài phần Mở đầu, Phụ lục, Mục lục ảnh và Tài liệu tham khảo thì gồm 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan về khu di tích Hoàng thành Thăng Long
- Chương 2: Các giá trị của khu di tích Hoàng thành Thăng Long
- Chương 3: Hiện trạng và vấn đề bảo tồn của khu di tích Hoàng thành Thăng Long
- Chương 4: Ý nghĩa của khu di tích đối với cộng đồng và đất nước Việt Nam 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG
1.1 Tên gọi, lịch sử hình thành và vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long 1.1.1 Tên gọi
- Tên thường gọi: Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội
- Tên gọi khác: Khu di tích Thành cổ Hà Nội và di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu
1.1.2 Lịch sử hình thành
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long là một phần của kinh thành Thăng Long, cùng
với khu phố cổ và khu phố Pháp là những cấu thành quan trọng nhất tạo ra đô thị Hà Nội thời
cận đại. Khu Di tích là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Đô -
Hà Nội, bắt đầu từ thời Tiền Thăng Long (thế kỷ 7- 9) qua thời Đinh - Tiền Lê (thế kỷ 10) và
phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là trung tâm
chính trị của cả nước, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành
khu di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích ở nước ta.
Thời k nhà Đường, đây là trung tâm của An Nam đô hộ phủ, lần đầu tiên vùng đất này
nắm giữ vai trò một trung tâm quyền lực chính trị. Năm 886, Cao Biền xây dựng một thành trì
mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lý. Tháng 7 năm 1010, nhà
vua công bố thiên đô chiếu (chiếu dời đô) để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La.
Tương truyền rằng khi vua Lý Công Uẩn rời kinh đô thì nhìn thấy rồng bay lên nên nhà vua
đã đổi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngay sau khi
dời đô, Lý Công Uẩn đã cho gấp rút xây dựng Kinh thành Thăng Long, đến đầu năm 1011 thì
hoàn thành. Khi mới xây dựng, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam
trùng thành quách gồm: vòng ngoài cùng gọi là La thành hay Kinh thành, bao quanh toàn bộ
kinh đô và men theo nước của 3 con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Kinh
thành là nơi ở và sinh sống của dân cư. Vòng thành thứ hai (ở giữa) là Hoàng thành, là khu
triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều. Thành nhỏ nhất ở trong cùng là
Cấm thành, nơi chỉ dành cho vua, hoàng hậu và số ít cung tần mỹ nữ.
Nhà Trần sau khi lên ngôi đã tiếp quản Kinh thành Thăng Long rồi tiếp tục tu bổ, xây
dựng các công trình mới. Sang đến đời nhà Lê sơ, Hoàng thành cũng như Kinh thành được
xây đắp, mở rộng thêm ra. Trong thời gian từ năm 1516 đến năm 1788 thời nhà Mạc và Lê
trung hưng, Kinh thành Thăng Long bị tàn phá nhiều lần. 5
Đầu năm 1789, vua Quang Trung dời đô về Phú Xuân, Thăng Long chỉ còn là Bắc thành.
Thời Nguyễn, những gì còn sót lại của Hoàng thành Thăng Long lần lượt bị các đời vua
chuyển vào Phú Xuân phục vụ cho việc xây dựng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính
Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc thành.
Năm 1805, vua Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ và cho xây dựng Thành
Hà Nội theo kiểu Vauban của Pháp với quy mô nhỏ hơn nhiều. Năm 1831, trong cuộc cải cách
hành chính lớn, vua Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Khi chiếm
xong toàn Đông Dương, người Pháp chọn Hà Nội là thủ đô của liên bang Đông Dương thuộc
Pháp và Thành Hà Nội bị phá đi để lấy đất làm công sở, trại lính cho người Pháp. Từ năm
1954, khi bộ đội ta tiếp quản giải phóng thủ đô thì khu vực Thành Hà Nội trở thành trụ sở của
Bộ quốc phòng. Như vậy sự hình thành của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội
thể hiện ở chỗ nó gần như chạy suốt theo cả chiều dài lịch sử hơn 10 thế kỷ của Thăng Long -
Hà Nội, kể từ thành Đại La thời tiền Thăng Long đến thời đại ngày nay.
1.1.3 Vị trí phân bổ di tích
Hiện nay, Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (Bao gồm Thành cổ
Hà Nội và di tích Khỏa cổ học 18 Hoàng Diệu) năm trên một khuôn viên rộng lớn, gần 19ha
(186.3777,9m2), thuộc địa bàn phường Điện Biên và phường Quán Thánh, quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội. Giới hạn bởi:
- Phía Bắc giáp: đường Phan Đình Phùng, đường Hoàng Văn Thụ
- Phía Tây giáp: đường Hoàng Diệu, đường Độc Lập và khuôn viên hội trường Ba Đình
- Phía Nam giáp: đường Bắc Sơn và khuôn viên hội trường Ba Đình
- Phía Đông giáp: đường Nguyễn Tri Phương
1.2 Các di tích trên mặt đất của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long
1.2.1 Kỳ đài - Cột cờ Hà Nội
K Đài - Cột cờ Hà Nội cao 33,4m được xây dựng vào năm 1812 trên bệ tam cấp đồ sộ
trượng trưng cho tam tài (thiên, địa, nhân). Cấp dưới cùng mỗi cạnh 42m, cấp trên cùng mỗi
cạnh 15m, cấp giữa có têm các cửa: Cửa Tây (Hồi quang) - ánh sáng phản chiếu, Cửa Đông
(Nghênh Húc) - đón ánh ban mai, Cửa Nam (Hướng Minh) - hướng về ánh sáng. Tháp có
hình bát giác với 54 bậc thang xoáy ốc lên nóc, có 39 cửa nhỏ hình hoa và 6 cửa hình dẻ quạt
để soi sáng và thông hơi. Hiện nay Cột Cờ nằm trong khuân viên Bảo tàng Lịch sử quân sự
Việt Nam - là một biểu tượng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến. 6 1.2.2 Đoan Môn
Đoan Môn được xây dựng từ thời Lê. Đây là cửa chính dành cho nhà vua ra vào Cấm
thành. Cửa Đoan Môn có cấu trúc hình chữ U, từ Đông sang Tây dài 47m, giữa dày 13m, hai
bên dày 27m, có 5 vòm cổng, vòm cổng chính giữa dành cho vua đi. Phía trên là Vọng Lâu -
lầu canh gác của lính canh, đã được trùng tu lại vào năm 1999-2000. Tại di tích Đoan Môn,
năm 1999 các nhà khảo cổ học đã phát hiện được các dấu tích kiến trúc: nền sân gạch thời Lê,
con đường lát gạch hoa chanh thời Trần và dưới cùng là nền đường từ thời nhà Lý.
1.2.3 Điện Kính Thiên
Kính Thiên - là một điểm di tích quan trọng nhất trong khu trung tâm Thành cổ Hà Nội.
Hiện nay chỉ còn lại nền cũ và hai bậc thềm Rồng đá. Vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ
đóng đô ở Thăng Long đã cho xây điện Càn Nguyên trên đỉnh núi Nùng (núi Long Đỗ - Rốn
Rồng). Năm 1092, đã cho xây lại điện, gọi là Thiên An và đến thời Trần vẫn giữ tên gọi ấy.
Đến năm 1428, vua Lê Thái Tổ dựng điện Kính Thiên (Long Thiên) - là nơi ngự của các vua
Nguyễn khi tuần du Bắc Hà hoặc ra nhận sắc phong của nhà Thanh. Năm 1886, sau khi chiếm
đóng thành Hà Nội, thực dân Pháp đã phá cung Kính Thiên và xây tào nhà Trụ sở chỉ huy
pháo binh. Sau này được gọi là nhà Con Rồng, nơi làm việc của Bộ Tổng tham mưu - Bộ
quốc phòng quân đội nhân dân Việt Nam.
1.2.4 Nhà D67 và Hầm D67
Vào năm 1966, Mỹ bắt đầu dùng không quân đánh phá Hà Nội. Năm 1967, mức độ đánh
phá càng ngày càng ác liệt. Để đảm bảo nơi làm việc của cơ quan Tổng hành dinh tròn chiến
tranh, Bộ quốc phòng đã quyết định xây dựng một ngôi nhà trong khu A Thành cổ Hà Nội.
Ngôi nhà được thiết kế năm 1967 nên được gọi là nhà D67.
Tổng hành dinh - Nhà D67 khu A Bộ quốc phòng, Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương
đã đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam. Đây là
nơi diễn ra nhiều cuộc họp, nhiều sự kiện quan trọng gắn liền với cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của quân và dân ta. Chính vào cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, cuộc tiến
công năm 1972 - đánh thắng hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao nhất là 12 ngày đêm cuối
năm 1972 và tổng tiến công năm 1975 - đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh. Phòng họp D67
chính là nơi hôi tụ những kết tinh và tỏa sáng của tinh hoa và trí tuệ Việt Nam đưa nhân dân ta
đi đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Nhìn bề ngoài D67 là một ngội nhà mái bằng bình thường, kích thước 43.02 x 20.85m
chiều cao đỉnh mái lầ 7.89m nằm dưới lùm cây. Tuy nhiên tính quân sự của nhà D67 hiện rõ 7
khi bước vào bên trong. Tường dày 0.6m, có cách âm, cửa có hai lớp ngoài bằng thép tấm dày
1cm. Trên mái có một lớp cát cản được mảnh róc két và bom bình thường.
Hầm D67 (hầm quân ủy trung ương) được xây dựng vào năm 1967 cùng với nhà D67.
Hầm nằm dưới khoảng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67 dành cho Bộ Chính trị và
Quân ủy trung ương. Hầm sâu khoảng 9m được xây dựng kiến cố để chống bom. Cửa hầm
làm bằng thép tấm có ba cầu thang lên xuống. Hai đường dẫn từ hầm lên hai phòng làm việc
của đại tướng Võ Nguyên Giáp và đại tướng Văn Tiến Dũng trong nhà D67. Đường hầm rộng
1,2m và có 45 bậc thang, ngoài ra còn có một cầu thang phía Nam thông với nhà Con Rồng. 1.2.5 Hậu Lâu
Hậu Lâu - lầu Công chúa, có kiến trúc gốc thời Nguyễn, được xây dựng lại trong thời
Pháp thuộc, xưa là nơi ở của các cung tần mỹ nữ hộ giá nhà vua khi tuần du Bắc Hà. Lầu
được xây bằng gạch, phía dưới hình hộp, phía trên là các công trình kiến trúc với 5 tầng mái
đan xen nhau. Lầu dưới cùng có 3 tầng mái, lầu trên cùng có 2 tầng mái. Mái lợp theo kiểu
ngói ống, trát vữa, xi măng. Bốn góc đao cong, hai góc bờ bên ngoài lắm đầu rồng, hai đầu
hồi đắp hổ phù, hai góc đao đắp hình hồi long bằng vữa. 1.2.6 Chính Bắc Môn
Cửa Bắc - Bắc Môn, quay hướng Bắc, chếch Tây 15 độ, là cổng thành duy nhất còn lại
của Thành cổ Hà Nội, hiện nằm ở 51 Phan Đình Phùng. Cửa Bắc được xây dựng theo kiểu
Vauban, cao 8,71m, rộng 17m, dày 20,48m và có mái hình vòm cuốn cao 4,4m. Cổng thành
được xây dựng bằng gạch, mép cửa kè đá hình chữ nhật, viền trên bằng đá trang trí cánh sen,
phía trên còn có hai ống máng bằng đá được trang trí vân xoắn ốc dùng để thoát nước trên
Vọng Lâu xuống. Trên mặt thành Cửa Bắc còn lưu lại hai vết pháo đại bác (sâu 80cm) do bị
Pháp bắn vào năm 1882. Nơi đây còn thờ hai vị thống đốc đã tuẫn tiết theo thành Hà Nội là
Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
1.2.7 Tám cổng thành thời Nguyễn
Theo Đại Nam nhất thống trí năm 1805, sau khi dựng thành Hà Nội, nhà Nguyễn đã
dựng tường bao từ cửa Đoan Môn quanh nội điện làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần.
Hiện nay trong khu Thành cổ còn tám cổng cùng với tường bao hành cung bằng gạch vồ
quanh trung tâm thành Hà Nội thời Nguyễn. Phía Nam có hai cổng bên Đoan Môn, phía Bắc
có hai cổng nằm sau trong Hậu Lâu, phía Đông có một cổng ra đường Nguyễn Tri Phương,
phía Tây có một cổng mở ra đường Hoàng Diệu và hai cổng hai bên nền điện Kính Thiên. 8
CHƯƠNG 2: CÁC GIÁ TRỊ CỦA KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG
2.1 Giá trị lịch sử
Hoàng thành Thăng Long là một di tích có nhiều giá trị lịch sử độc đáo. Đó là bề dày lịch
sử của một trung tâm quyền lực chính trị, cho đến nay vẫn giữ vai trò trung tâm của nước Việt
Nam hiện đại. Toàn bộ Khu di tích là trung tâm của Cấm thành, Hoàng thành – nơi ở và làm
việc của vua và Hoàng thất, gắn với các triều đại Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và
lịch sử thăng trầm của Kinh đô Thăng Long, kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỷ 11 đến
thế kỷ 18. Trên thế giới, có nhiều kinh thành có lịch sử trên nghìn năm, nhưng thủ đô một
nước trong thời đại này có bề dày lịch sử với vai trò trung tâm quyền lực gần 13 thế kỷ, trong
đó gần nghìn năm liên tục là kinh đô thì rất hiếm. Tính liên tục và lâu dài của một trung tâm
quyền lực cho đến ngày nay, đó là đặc điểm và giá trị lịch sử nổi bật của khu di tích trung tâm
Hoàng thành Thăng Long. Với những giá trị lịch sử to lớn đó, đã khiến nơi đây là địa điểm có
thể phát triển đa dạng các loại hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, học tập, tham quan, tìm
hiểu… Đồng thời qua đó giáo dục truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc đối với các
thế hệ người Việt Nam.
2.2 Giá trị kiến trúc
Khi nhắc đến Hoàng thành người ta thường nghĩ đến kiến trúc cung đình với những tòa
thành đồ sộ, những lầu son gác tía. Tuy nhiên khác với cố cung của nhà Thanh, nhà Minh, Tử
Cấm Thành của Trung Quốc hay Kinh thành Huế của triều đại nhà Nguyễn, Hoàng thành
Thăng Long có kiến trúc là các tầng di tích và di vật được xếp chồng liên tiếp lên nhau và trải
qua nhiều triều đại lịch sử khác nhau. Mặt bằng kiên trúc rất đa dạng: hình tròn, hình lục giác,
bát giác, mặt bằng hình chữ nhật với nhiều kiểu khác nhau. Kỹ thuật xây dựng kiến trúc da
dạng: nền móng, hệ thống cột… đều rất cầu k, tỉ mỉ và cũng đa dạng về vật liệu. Khu di tích
có khả năng chống chịu tốt và có sự ổn định lâu dài, mang lại những nét chung và nét riêng
trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại. Di tích Hoàng thành Thăng Long cũng thể hiện nét
đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc trong các kiến trúc, di vật, cách xử lý xây dựng kiến trúc đô
thành, cách xử lý quan hệ với thiên nhiên (qua các di chỉ khảo cổ dòng sông, con thuyền).
Nhờ khảo cổ học, ta có thể tìm hiểu về cuộc sống cung đình, thấy sự hội tụ của kiến trúc tiêu
biểu nhất của bề dày văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là việc của thế hệ này, mà của cả những thế hệ sau. 9
2.3 Giá trị văn hóa
Khu Di sản Văn hóa Thế giới Hoàng thành Thăng Long còn mang giá trị văn hóa to lớn
mà gần như ít có thủ đô nào trên thế giới có được. Giá trị của khu Di sản Văn hóa Thế giới
Hoàng thành Thăng Long đã đáp ứng được ba trong số 6 tiêu chí đánh giá về Di sản Văn hóa
Thế giới của UNESCO đó là thể hiện ở 3 điểm điều sau: Thứ nhất, nơi đây có các di tích trên
mặt đất rất quí giá như: nền điện Kính thiên, Đoan Môn, Bắc Môn, cột cờ Hà Nội, rồi Tổng
hành dinh của Quân đội nhân dân Việt Nam của thời đại Hồ Chí Minh. Hệ thống các di tích
và di vật đã khai quật tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu càng cho chúng ta thấy trong
lòng đất ở khu vực này chứa đựng một chuỗi văn hoá chảy suốt cả lịch sử Thăng Long - Hà
Nội, bao gồm cả thời k tiền Thăng Long ngược lên thành Đại La, đặc biệt từ khi Vua Lý Thái
Tổ định đô Thăng Long cho đến ngày nay. Như vậy, Khu di tích thể hiện ở chỗ nó gần như là
một "bộ lịch sử sống" chảy suốt theo cả chiều dài lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Thứ hai, đây
là kinh thành - nơi hội tụ các di sản văn hoá của cả nước, tinh hoa của nền văn hoá của cả
nước. Hơn thế nữa, nơi đây không phải chỉ kết tinh nền văn hoá của dân tộc, toả sáng ra trong
nước, mà còn là nơi hấp thu các giá trị văn hoá của khu vực và thế giới. Đây vừa là nơi kết
tinh nền văn hoá lâu đời của nước Đại Việt trước đây, Việt Nam hiện nay, vừa là nơi biến các
yếu tố văn hoá ngoại sinh thành nội sinh, làm phong phú và đa dạng thêm cho nền văn hoá
dân tộc. Giá trị thứ ba thể hiện ở nơi đây là trung tâm quyền lực, chính trị của đất nước. Đây
là nơi các vương triều trước đây, cũng như Đảng và Nhà nước trong thời hiện đại đã đưa ra
các quyết sách trong xây dựng đất nước, cũng như trong bảo vệ đất nước, tạo nên các thời k
huy hoàng của lịch sử, vượt lên bao khó khăn, thử thách.
2.4 Giá trị phát triển du lịch
Với những giá trị nổi bật của mình hệ thống di sản Hoàng thành Thăng Long sẽ biến Hà
Nội thành một địa chỉ du lịch lớn của thế kỷ 21. Hoàng thành Thăng Long có đầy đủ các yếu
tố để phát triển du lịch một cách bền vững nhất. Hơn thế nữa, nơi đây có lợi thế hơn so với
các kinh thành ở Việt Nam như kinh thành Huế hay Cố đô Hoa Lư bởi Hoàng thành Thăng
Long nằm ở giữa khu trung tâm của Thủ đô Hà Nội – trung tâm văn hóa, chính trị của cả
nước. Nơi đây có các điểm du lịch gần kề nhau như Văn Miếu Quốc Tử Giám, Lăng Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, Viện Bảo Tàng, Hồ Gươm, Đền Ngọc Sơn... Chính vì vậy, đây là điều kiện
thuận lợi cho những nhà làm du lịch có thể thiết kế những tour du lịch vừa ý nghĩa lại đặc sắc,
thuận lợi cho du khách khi đến du lịch trong ngày có thể tham quan được nhiều nơi mà
khoảng cách giữa các điểm đến lại rất hợp lý. Cùng với những tài liệu lịch sử, những phát
hiện khảo cổ học từ lòng đất Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long thì đây là một điểm đến 10
tiềm năng để phát triển du lịch. Vì thế, đây không chỉ là điểm du lịch văn hóa ngay giữa trung
tâm Hà Nội mà còn gắn bó mật thiết với bề dày của kinh đô ngàn năm văn hiến.
CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG V VẤN ĐỀ BẢO TỒN CỦA
KHU DI TÍCH HONG THNH THĂNG LONG
3.1 Hiện trạng của khu di tích
Vào năm 2010, khu di tích gắn liền với lịch sử kinh thành Thăng Long - Khu Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Trải qua hơn 1000 năm - 10 thế kỉ là quãng thời gian dài đằng đẵng cùng với chiến tranh và
thiên tai đã vùi lấp đi nhiều thứ nhưng diện mạo của kiến trúc kinh thành xưa thì vẫn chưa
phai mờ. Tuy nhiên hiện nay khu di tích đang đứng trước nguy cơ bị loại khỏi danh sách Di
sản văn hóa thế giới do sau khi được cộng nhận, khu di tích vẫn chưa thực hiện đầy đủ cam
kết của Chính phủ với UNESCO, tình trạng xuống cấp đã xảy ra.
Di tích bị lấm bùn: mặc dù Ban Quản lý đã phối hợp với Viện Khảo cổ để khắc phục
nhưng do công tác thi công đào đất xung quanh đã làm việc sụt, lún đất tiếp tục xảy ra. Thêm
vào đó việc đào máy, khoan đã làm nứt vỡ kết cấu các tầng đất của khu di tích phía Bắc. Khu
vực tường bị đổ hiện nay vẫn chưa được xử lý hiệu quả, đất vẫn tiếp tục sụt, lún sâu ảnh
hưởng đến những hố bảo tồn di tích. Ở một số khu vực, máy xúc đã khoét sâu xuống tầng đất
thời Đại La, đã vượt qua chỉ giới bảo tồn di tích ở phía Đông. Viện Khảo cổ nhiều lần yêu cầu
dừng việc sử dụng máy xúc thi công và đưa ra những biện pháp khả thi hơn nhằm đàm bảo
khu di tích không bị phá hủy.
Hiện tượng sa mạc hóa: xuất hiện trên mặc di tích đang diễn ra nhanh vì bị rút cạn nguồn
nước ngầm, do bụi công nghiệp, do rung chấn từ máy thi công,… dự báo tốc độ xuống cấp
của khu di tích sẽ nhanh hơn và mức độ phá hủy là có nguy cơ trong tương lai.
Vấn đề quản lý: do nhà khách Bộ Quốc phòng và hai gia đình đang sử dụng đất thuộc
khu vực khu di tích vẫn chưa thể di dời đi nên ảnh hưởng đến vấn đề quản lý. Việc thi công
nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình không tuân theo quy định xây dựng, nhiều dự định bàn
giao được thực hiện rất chậm, có khi chưa hoàn thành. Mỗi một khu vực chịu sự quản lý từ
các đơn vị khác nhau khiến việc bảo tồn chưa được thống nhất. Việc phân công, quản lý
không rõ ràng, thiếu sự phối hợp đã dẫn đến việc khu di tích không được chăm sóc, giữ gìn
theo đúng cách nó cần như việc chống nấm mốc, bảo tồn vật liệu,…
Chính vì vậy trong tương lai, Hà Nội nói chung, khu di tích Hoàng thành Thăng Long
nói riêng cần phải xem xét lại việc bảo tồn và quản lý. Bởi nếu không thực hiện đúng nguyên
lý, đúng kỹ thuật sẽ dẫn đến hậu quả không lường trước được. Nên có kế hoạch mở rộng diện
tích khai quật, nghiên cứu làm rõ giá trị các kiến trúc di tích tại khu Trung tâm Thành cổ. 11