Tiểu luận triết giữa kỳ - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Mâu thuẫn là cái tất yếu trong đời sống, nó có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Nhất là trong quá trình phát triển và vận hành của xã hội. Mâu thuẫn tồn tại song hành cùng sự vật hiện sự việc từ lúc sự vật sự việc bắt đầu cho tới khi sự vật sự việc đó kết thúc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỤC LỤC
Lời mở đầu: ................................................................................................................................ 2 1.
Lời giới thiệu .................................................................................................................. 2 2.
Lời cảm ơn ...................................................................................................................... 2
Phần 1: ........................................................................................................................................ 3
Lý luận kết hợp các mặt đối lập theo tinh thần phép biện chứng duy vật. ................................. 3 1.
Nhu cầu xã hội ................................................................................................................ 3 2.
Hướng tiếp cận kết hợp các mặt đối lập ......................................................................... 3 3.
Cách thực hiện ................................................................................................................ 3
Phần 2 ......................................................................................................................................... 6
Sự vận dụng kết hợp các mặt đối lập của Lênin ......................................................................... 6
Phần 3 ......................................................................................................................................... 8
Sự vận dụng kết hợp các mặt đối lập của Đảng ta ...................................................................... 8 1.
Trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ..... 8
1. 1 Kết hợp giữa kinh tế XHCN và kinh tế phi XHCN nhằm xây dựng một nền kinh tế
quá độ với một chế độ sở hữu đa dạng gồm nhiều thành phần kinh tế trong suôt thời kì
quá độ lên CNXH ở nước ta ................................................................................................ 8
1.2 Kết hợp giữa thị trường và kế hoạch trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
đinh hướng CNXH của nước ta hiện nay ............................................................................ 9 2.
Trong hội nhập kinh tế thế giới và khu vực .................................................................. 10
Tài liệu tham khảo: ................................................................................................................... 11 Phan Tính Nghĩa 1
Lời mở đầu
1. Giới thiệu
Mâu thuẫn là cái tất yếu trong đời sống, nó có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên,
xã hội và tư duy con người. Nhất là trong quá trình phát triển và vận hành của xã hội.
Mâu thuẫn tồn tại song hành cùng sự vật hiện sự việc từ lúc sự vật sự việc bắt đầu cho
tới khi sự vật sự việc đó kết thúc. Trong mỗi một sự vật, không phải hình thành chỉ là
một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu
thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Trong xã hội Mâu thuẫn phổ biến
một cách rộng rãi như vậy nhưng quan niệm không đúng về mâu thuẫn trong xã hội,(về
các mặt đối lập, coi đây là những hiện tượng bất thường cần phải loại trừ) vẫn còn tồn
tại. Các quan điểm sai lầm này làm hạn chế sự giải quyết mâu thuẫn, làm chậm lại sự
phát triển của xã hội.Và nó cũng mang lại nhiều khó khăn cho sự phát triển của mỗi con
người nói riêng và xã hội nói chung. Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối
lập là ‘‘hạt nhân’’ của phép biện chứng duy vật vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực của
sự vận động và phát triển cảu thế giới quan và vì nó là chìa khóa, là cơ sở giúp chúng ta
nắm vững thực chất của tất cả các quy luật và phạm trù phép biện chứng duy vật. Vì vậy
việc kết hợp các mặt đối lập một cách biện chứng theo tinh thần của V.I.Lênin mang
một vấn đề quan trọng. Và đề tài của bài tiểu luận này chính là vấn đề này: tư tưởng kết
hợp các mặt đối lập và vận dụng tư tưởng này trong sự phát triển của xã hội, và sự vận
dụng sự kết hợp các mặt đối lập của Lê-nin và Đảng ta.
2. Lời cảm ơn
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Nguyên Ký và cuốn sách “Sự kết
hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” do
thầy làm tác giả đã giúp ích em rất nhiều trong quá trình làm tiểu luận. Cảm ơn thầy đã
đọc và góp ý cho em vào bài tiểu luận này. Đây là đầu em làm tiểu luận, dù đã cố gắng
hết sức nhưng sẽ khó tránh khỏi sai xót, mong nhận xét công tâm và nghiêm khắc để em
có thể khắc phục và tiến bộ. Chân thành cảm ơn thầy. Phan Tính Nghĩa 2 Phần 1:
Lý luận kết hợp các mặt đối lập theo tinh thần phép biện chứng duy vật.
1. Nhu cầu xã hội
Trong xã hội, luôn tồn tại những mặt đối lặp. Sự đối lập về quyền lợi của người
lao động và chủ doanh nghiệp, sự đối lập về chủ nghĩa cá nhân và tập thể... sự đối lập là
một thức thể tồn tại khác quan và phổ biến xung quanh ta. Vậy ta phải làm như thế nào
để kết hợp các mặt đối lập này, để giúp cho xã hội con người tiếp tục phát triển tốt hơn?
Câu hỏi trên cũng chính là sự bâng khuân của các nhà Triết học theo trường phái
lý luận biện chứng Mác-xít. Vấn đề kết hợp giữa các mặt đối lập đã được đặt ra và tìm
cách giải quyết. Đây là một hoạt động tích cực, chủ động của chủ thể trên cở sở nhận
thức được mâu thuẫn khách quan, nhận thức sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, khi các mâu thuẫn và sự đối lập chưa đến lúc chín muồi (thời điểm bùng nổ sự đấu tranh hay cách mạng).
Xuất phát từ nhận thức phải thống nhất khách quan từ những điểm chung vốn có
của các chủ thể hay các mặt đối lập, đồng thời cũng do nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Con người đã chủ động nghiên cứu, tìm tòi và tiến hành kết hợp các yếu tổ, thậm chí là
các chủ thể hay các mặt đối lập nhằm giải quyết những mâu thuẫn xã hội cụ thể nào đó.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng đem lại lợi ích cho con người, giúp xã hội
loài người tránh được những cuộc đấu tranh đỗ máu vô ích và giúp nhân loại có nhận
thức mới, là nên tảng phát triển trong tương lai.
2. Hướng tiếp cận kết hợp các mặt đối lập
Khi đề cập tới việc thống nhất các mặt đối lập và mâu thuẫn biện chứng các nhà,
Triết học thường tiếp cận từ ba góc độ như sau:
• Thứ nhất, xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận, hay
là sự thống nhất khách quan của chúng.
• Thứ hai, xem xét sự thống nhất giữa các đối lập từ góc độ nhận thức lý luận.
• Thứ ba, xem xét sự thống nhất các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn.
Việc kết hợp các mặt đối lập trong mọi lĩnh vực của xã hội không phải và càng
không nên là một hành động mang tính chủ quan, thậm chí là tùy tiện vô nguyên tắt.
Không phải các mặt đối lặp nào cũng có thể được kết hợp trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh và yếu tố khách quan khác. Việc kết hợp các mặt đối lập là một hành động tích cực
mang nhân tố chủ quan, dựa trên cơ sở lý luận cụ thể, điều kiện khách quan cụ thể cho
phép thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập, và đó phải là một sự đòi hỏi tất yếu trong
quá trình phát triển của xã hội.
Hội đủ những yếu tố trên, cộng với quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập trong một chỉnh thể mâu thuẫn xã hội cụ thể, mặt đối lập đại diện cho sự
tiến bộ sẽ dần dần dành chiến thắng trước mặt đối lặp đại diện cho sự lạc hâu, sẽ là động
lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, phù hợp với quy luật phát triển khác quan.
3. Cách thực hiện
Muốn sự kết hợp của các mặt đối lập diễn ra thành công thì việc kết hợp đó phải
được tiến hành trong điền kiện như sau: Phan Tính Nghĩa 3
Thứ nhất, về mặt khách quan; việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể tiến hành
trong các trường hợp cụ thể sau:
1. Giữa các nhân tố, các lực lượng xã hội, tồn tại với tư cách là những mặt đối
lập của nhau phải có những điểm chung, tương đồng có thể đi tới sự điều hòa, thỏa hiệp
trong một giới hạn nhất định. Trong trường hợp này, chủ thể hoạt động có thể thực hiện
việc kết hợp các mặt đối lập, trong đó chấp nhận một sự thỏa hiệp nào đó, nhằm hướng
sự giải quyết mâu thuẫn xã hội theo hướng có lợi cho chủ thể. Việc kết hợp các mặt đối
lập, với những thỏa hiệp nhất định ở đây không phải là hành động xóa bỏ nguyên tắc
đấu tranh giữa các mặt đối lập. Đây chỉ là hành động đưa cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập vào trong một hình thức cụ thể, có lợi cho chủ thể mà thôi. Trong trường hợp
giữa các mặt đối lập hoàn toàn không có điểm chung, tương đồng, mâu thuẫn xã hội này
hoàn toàn mang tính đối kháng thì việc kết hợp không thể thực hiện một cách đúng đắn
và đem lại hiệu quả mong muốn cho chủ thể.
2. Việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể thực hiện trong điều kiện hoàn cảnh xã
hội thuận lợi (bao gồm cả điều kiện trong nước và quốc tế). Cụ thể đó phải là những
điều kiện hoàn cảnh cho phép chủ thể thực hiện được việc kết hợp theo mong muốn.
Thậm chí đó còn là những điều kiện hoàn cảnh như một đòi hỏi tất yếu khách quan,
buộc chủ thể phải tiến hành giải quyết mâu thuẫn bằng phương thức kết hợp này. Chẳng
hạn, những biến đổi về kinh tế quốc tế hiện nay, về sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay... là những điều kiện khách quan cho phép
chủ thể hoạt động có thể thực hiện sự kết hợp các mặt đối lập.
Thứ hai, về mặt chủ quan: việc kết hợp các mặt đối lập chỉ thực hiện được và đạt
kết quả mong muốn khi chủ thể có đủ năng lực và bản lĩnh chính trị cần thiết đáp ứng
được yêu cầu của sự kết hợp này. Đòi hỏi chủ thể ở đây phải có khả năng sớm nắm bắt
được yêu cầu khách quan cũng như thời cơ thuận lời của việc kết hợp, từ đó tiến hành
tổ chức kết hợp một cách khéo léo, khoa học nhằm hướng cuộc đấu tranh giữa hai mặt
đối lập trong mâu thuẫn theo hướng có lợi cho chủ thể. Vai trò của chủ thể trong việc
kết hợp các mặt đối lập ở đây là có ý nghĩa quyết định. Việc kết hợp các mặt đối lập là
hành động cụ thể trong quá trình giải quyết mâu thuẫn xã hội khách quan, cho nên,
đương nhiên quá trình này ngay từ đầu đã thể hiện và cần phải thể hiện tính định hướng
của nó. Nghĩa là, việc kết hợp các mặt đối lập sẽ được tiến hành nhằm đáp ứng nhu cầu,
lợi ích của chủ thể hoạt động. Song đồng thời, để việc kết hợp này không rơi vào tình
trạng là biểu hiện của hoạt động chủ quan thuần túy, không còn tồn tại với tư cách là sự
phản ảnh tính tất yếu khách quan, lại đòi hỏi việc kết hợp phải được tiến hành một cách
khoa học, phù hợp với bản chất của các mặt đối lập. Cụ thể là việc tiến hành kết hợp các
mặt đối lập phải đảm bảo sao cho các mặt đối lập vẫn thực hiện được cuộc đấu tranh
của chung mà vẫn đáp ứng được yêu cầu của chủ thể. Việc kết hợp các mặt với tư cách
hoạt động chủ quan vẫn phải đảm bảo nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ
không phải kết hợp đi tới sự thủ tiêu cuộc đấu tranh của chúng. Đây chính là điểm khác
biệt cơ bản giữa hoạt động kết hợp các mặt đối lập một cách đúng đắn, có tính khoa học,
với những hoạt động kết hợp phi khoa học, kết hợp sai lầm chủ quan.
Nếu xét về hình thức, có thể chia hoạt động kết hợp ra làm ba loại: Phan Tính Nghĩa 4
Thứ nhất, đó là sự kết hợp khoa học, biện chứng, đúng đắn. Đây là sự kết hợp có
nguyên tắc, đảm bảo nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự phản ánh này phản
ánh đúng đắn tính biện chứng trong mối quan hệ giữa các mặt đối lập là vừa thống nhất lại vừa đấu tranh.
Thứ hai, đó là sự kết hợp mang tính chiết trung. Sự kết hợp này được thực hiện
một cách tùy tiện, vô nguyên tắc. Chủ thể kết hợp đã thực hiện sự kết hợp hoàn toàn dựa
vào ý chí chủ quan, kết hợp bất cứ cái gì, trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào. Đây là
sự kết hợp được tiến hành không dựa trên cơ sở thống nhất khách quan giữa mặt đối lập.
Sự kết hợp chiết trung không đem lại những giá trị đích thực cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, đó là sự kết hợp mang tính cải lương. Đây là sự kết hợp các mặt đối lập
không đảm bảo nguyên tắc đấu tranh giữa chúng với nhau. Sự kết hợp này thể hiện sự
nhượng bộ, thỏa vô điều kiện, sự thiếu bản lĩnh của chủ thể để có thể đưa sự kết hợp tới
kết quả mong muốn. Kết quả tất yếu của sự kết hợp này là sự thất bại của chủ thể hành
động. Như vậy, trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể, tùy vào nội
dung, tính chất của một mối quan hệ giữa các mặt đối lập, cũng như tùy vào điều kiện
hoàn cảnh khách quan (trong nước và ngoài nước), năng lực của chủ thể hoạt động... có
thể tiến hành việc kết hợp các mặt đối lập nhằm để giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ
thể một cách tốt nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho chủ thể.
Từ sự phân tích tư tưởng biện chứng mácxít về sự kết hợp các mặt đối lập ở trên
cho phép rút ra kết luận sau đây: Kết hợp các mặt đối lập là một hoạt động tự giác, tích
cực của chủ thể thực tiễn trong quá trình giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể trong
những điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể nhằm đem lại lợi ích nhất định cho chủ
thể. Đó chính là hoạt động kết hợp những nhân tố, lực lượng xã hội tồn tại với tư cách
là những mặt đối lập của nhau, dựa trên cơ sở nhận thức về tính thống nhất vốn có giữa
những nhân tố, lực lượng xã hội này, đồng thời tôn trọng sự đấu tranh khách quan của chúng. Phan Tính Nghĩa 5 Phần 2
Sự vận dụng kết hợp các mặt đối lập của Lênin
Như chúng ta đã biết, sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, nước Nga phải đối
mặt với vô số khó khăn. Để khắc phục những khó khăn đó và bảo vệ thành tựu cách
mạng, trong giai đoạn sau cách mạng các nhà lãnh đạo Nga lúc bấy giờ đã đưa ra chính
sách “Cộng sản thời chiến”. Ban đầu, chính sách này đã đem lại hiệu quả, tuy nhiên sau
một thời gian thực hiện chính sách này đã đưa nước Nga vào hoàn cảnh ngày càng bi đát hơn.
Trước tình hình cấp bách đó, Lê-nin đã đưa ra “Chính sách kinh tế mớ” gọi tắt là
NEP. Chính sách là một ví dụ tuyệt vời cho ví dụ kết hợp các mặt đối lập. Lê-nin đã vận
dụng trơn tru lý luận và thực tiễn đã giúp nước Nga bước ra khỏi vùng lầy trì trệ và là
nền tảng cho Liên Xô vĩ đại sau này.
Sự kết hợp các mặt đối lập trong NEP được biểu hiện tập trung chủ yếu ở chế độ
kinh tế tư bản chủ nghĩa nhà nước và chính sách thu thuế lương thực.
Đối với việc thực thi chế độ kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước: Thực chất đây
chủ trương kết hợp các mặt đối lập giữa chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội
(CNXH) để giải quyết vấn đề cấp bách của nước Nga lúc bấy giờ. V.I.Lê-nin, nhận thức
rằng, nếu trước kia, trong giai đoạn thời chiến, việc bất hợp tác với CNTB, thực thi chính
sách thời chiến là “vạn bất đắt dĩ”, không thể tránh khỏi; thì giờ đây, trong điều kiện hòa
bình, với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, việc hợp tác với CNTB, việc kết hợp
giữa CNTB và CNXH dưới hình thức kinh tế tư bản nhà nước là điều đáng mong đợi.
Ở đây, V.I.Lê-nin cho rằng: ưu điểm của ngày hôm qua có thể trở thành khuyết điểm
của ngày hôm nay đã được V.I.Lê-nin vận dụng khi thay đổi chính sách Cộng sản thời chiến băng NEP.
Đối với chính sách thuế lương thực: Bằng việc cho người dâm được phép tự do
buôn bán, tra đổi sản phẩm sau khi đã nộp thuế cho nhà nước, trên thực tế, nhà nước Xô
Viết đã thực hiện sự kết hợp giữa công tác kế hoạch hóa của nhà nước với sự điều tiết
của thị trường. Giờ đây khi chuyển từ chính sách trưng thu lương thực thừa sang chính
sách thuế lương thực, V.I.Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã nhận được yêu cầu khách quan
của sự tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần vận động cơ chế thị trường với việc tuân
theo quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thị trường.
Qua kinh nghiệm xương máu của chính sách cộng sản thời chiến với việc tách
rời giữa hai mặt kế hoạch và thị trường, giữa công tác kế hoạch hóa của nhà nước Xô
viết và sự điều tiết của thị trường. Lê-nin hiểu rằng, quá trình xây dựng XHCN trên toàn
thế giới nói chung và ở nước Nga nói riêng, không thể diễn ra một cách đơn giản bằng
những sắc lệnh hành chính, với việc tuyệt đối hóa yếu tố kế hoạch nhà nước. Chúng ta
phải chấp nhận sự tồn tại một nền kinh tế thị trường trong chế độ XHCN, lại phải tiến
hành công tác kế hoạch hóa của nhà nước Xô viết một cách hiệu quả. Chính những điều
trên đã giúp nước Nga thoát khỏi tình trạng trì trệ về kinh tế.
Nói tóm lại, chúng ta phải khẳng định rằng trong quá trình lãnh đạo đất nước đi
lên XHCN, V.I.Lê-nin đã thể hiện tư duy biện chứng, linh hoạt, luôn chú trọng đến việc
khai thác các mặt, các yếu tố nào có lợi cho cách mạng Nga, cho quá trình xây dựng Phan Tính Nghĩa 6
XHCN của Liên Xô sau này. Đặc biệt ở đây, V.I.Lê-nin hiện sự cố gắng trao đổi hoặc
tư duy biện chứng hiếm thấy mà một bản lĩnh chính trị vững vàng, thể hiện ở chủ trương
kết hợp các mặt đối lập của CNXH và CNTB, giữa công tác kế hoạch hóa của nhà nước
xã hội chủ nghĩa với cơ chế thị trường nhằm giải quyết những mâu thuẫn nóng bỏng của
nước Nga Xô viết còn bấy giờ. Bằng việc thực hiện kết hợp biện chứng, có nguyên tắc,
nghiêm túc, khoa học - V.I.Lê-nin đã đưa nước Nga Xô viết thoát khỏi khủng hoảng,
tạo tiền đề giúp đất nước phát triển, đáp ứng được những nhu cầu vật chất cơ bản của nhân dân.
Từ những yếu tố trên đã đảm bảo cho việc xây dựng CNXH, đảm bảo một nền
tảng kinh tế vững chắc cho chế độ CNXH. Mặc dù hiện nay Liên Xô không còn tồn tại
nữa do những nguyên nhân và yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Song tư tưởng của
V.I.Lê-nin về sự kết hợp các mặt đối lập trong Chính sách kinh tế mới (NEP), vẫn là
một nét đọc đáo và còn nguyên giá trị trong kho tàng lý luận vô giá của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Đông thời đó xũng là một bài học vô giá cho các quốc gia đang trên con đường
xây dựng XHCN của mình. Bởi vì, trên thực tế, NEP có giá trị phổ biến chứ không phải
chỉcó giá trị đặt thù ở nước Nga. Tư tưởng kết hợp các mặt đối lập trong NEP chính là
sự cụ thể hóa tư tưởng kết hợp các mặt đối lập của chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể
của nước Nga Xô viết và những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ XX. Phan Tính Nghĩa 7 Phần 3
Sự vận dụng kết hợp các mặt đối lập của Đảng ta
1. Trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã được Đảng ta đề ra và
lãnh đạo. mục tiêu của công cuộc đổi mới là phải nhanh chóng đưa đất nước khỏi trì trệ,
khủng hoảng kinh tế - xã hội sau thời kì chiến tranh kéo dài, đồng thời thúc đẩy mạnh
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Muốn vậy, một trong những nhiệm vụ đặt
ra là phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong thời kì đầu đổi mới, do chịu ảnh hưởng của lối tư duy máy móc,
tách rời một cách cứng nhắc giữa các mặt của CNXH và CNTB, đồng thời coi khinh
nền kinh tế thị trường là một nhân tố thuộc CNTB, hoàn toàn xa lạ với CNXH. Thực tế
chúng ta không chấp nhận được tồn tại của kinh tế thị trường trong quá trình đi lên
CNXH ở nước ta. có thể thấy sai lầm chủ quan trong thời kỳ trước đổi mới ở đây là:
• Thứ nhất, tuyệt đối quát sựu đối lập giữa tư bản và công hữu, giữa kinh tế tư
nhân và kinh tế xã hội chủ nghĩa.
• Thứ hai, tách rời giữa kế hoạch và thị trường.
Đây là sai lầm do những yếu tố khách quan, chính sách bao cấp nó đã tỏ ra thật
hiệu quả trong thời kì kháng chiến chống Đế quốc Mỹ, nó là một trong những nhân tố
quan trọng giúp nhân dân ta đánh thắng quân Mỹ. Tuy nhiên, khi hòa bình lặp lại, ta đã
chưa nhận thứ đúng và đủ về vai trò của nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế
phi CNXH, quy luật cung - cầu... Vào giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, chúng ta đã
nhận ra sai lầm trên và tiến hành cải cách đổi mới, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng
trì trệ về kinh tế, xã hội bất ổn và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân..
Việc đổi mới trên theo tôi là một biểu của sự tất yếu của việc kết hộp các mặt đối
lập trong quá trình xây dụng CNXH. Từ chỗ tuyệt đối hóa đấu tranh các mặt đối lập;
dẫn tới việc trong thực tiễn khi phải đối mặt với những mâu thuẫn khách quan, giữa
CNXH với CNTB, tư hữu và công hữu. Và giờ đây chúng ta đã nhận ra mặt tương đồng
giữa CNTB với CNXH và tiến hành kết hợp chúng trong công cuộc đổi mới năm 1986.
Việc kết hợp đó chúng ta thực hiện ở trên hai sự kết hợp chính chính:
1. 1 Kết hợp giữa kinh tế XHCN và kinh tế phi XHCN nhằm xây dựng một nền
kinh tế quá độ với một chế độ sở hữu đa dạng gồm nhiều thành phần kinh tế trong
suôt thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.
Trong quá trình xây dựng và lãnh đạo đất nước, Đảng ta đã vận dụng những tư
tưởng, phương pháp giải quyết vấn đề mang tính biện chứng của V.I.Lê-nin, vận dụng
sáng tạo vào việc xây dựng chính sách kinh tế đổi mới ở nước ta. Phương hướng đổi
mới cơ bản của Đảng ta về vấn đề quan hệ sản xuất ở đây là phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu đa dạng, vận động theo cơ chế thị trường
đặt dưới sự quản lý của nhà nước theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đánh giá lại con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của đất nước,
Đảng ta nhận thức được rằng nếu vẫn duy trì một nền kinh tế thuần nhất về mặt sở hữu Phan Tính Nghĩa 8
công thì sẽ không khai thác hết mọi tiềm năng, thế mặt kinh tế - xã hội của quốc gia để
thúc đẩy phát triển một nền kinh tế năng động , thậm chí là kiềm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Dù nước ta đang theo đuổi mô hình nền kinh tế nhiều thành phần và mỗi thành
phần kinh tế trong nền kinh tế đều có một vị trí và vai trò nhất định, song Đảng và nhà
nước ta khẳng định kinh tế nhà nước (KTNN) phải giưc vai trò chủ đạo, đồng thời KTNN
kết hợp với kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng cho nề kinh tế quốc dân. Đây chính
là nhân tố thể hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Kế thừa tư tương biện chúng của V.I.Lê-nin, trong quá trình đổi mới kinh tế,
Đảng ta luôn khăng đinh vai trò chủ đạo của KTNN, nhưng vẫn khẳng định vị trí và vai
trò của các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, trong đó có cả thành
phần kinh tế tư bản nhà nước. Đảng chủ trương phát triển kinh tế tư bản nhà nước nhất
là dưới hình thức liên doanh, liên kết giữa KTNN với tư bản trong và ngoài nước, vì lợi
ích của hai bên. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy phát triển nền
kinh tế đất nước ở trình độ lạc hậu về nhiều mặt. Việc thực hiện phát triển kinh tế tư bản
nhà nước nói riêng và nền kinh tế nhiều thành phần nó chung đã động viên, khai thác
được khả năng to lớn về công nghệ tiên tiến, nguồn vốn khổng lồ, trình độ quản lý khoa
học vượt trội. Tất cả những yếu tố đều phục vụ cho lợi ích chiến lược của nước ta trên
con đường xây dựng CNXH.
1.2 Kết hợp giữa thị trường và kế hoạch trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường đinh hướng CNXH của nước ta hiện nay
Trong đổi mới kinh tế, gấn liền với việc xây dựng một nền kinh tế đa dạng hoá
về sở hữu, đa dạng thành phần kinh tế là vấn đề xây dựng cơ chế thị trường có định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai mặt của nền kinh tế thị trường: việc tồn tại một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tất yếu sẽ nảy sinh yêu cầu về sự điều tiết của cơ chế
thị trường. Trong quá trình đổi mới, đi lên CNXH ở nước ta, chúng ta đã thực hiện
đường lối phát triển nhất quán và lâu dài nền kinh tế với sự đa dạng hóa, đa dạng thành
phần kinh tế. Cùng với tinh thần ấy, chúng đã chủ động tham gia hội nhập với nền kinh
tế thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, không phân biệt chế độ chính
trị miễn đem lại lợi ích cho đất nước, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển khúc ngắn lên CNXH của mình.
Để thực hiện tốt nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì lại đòi hỏi phải có
một cơ chế kinh tế thích hợp và được biểu hiện bằng một cơ chế quản lý cụ thể. Cơ chế
kinh tế phù hợp với một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tất yếu phải là cơ chế
thị trường. Bởi lẽ chỉ có cơ chế thị trường mới đảm bảo cho nền kinh tế này vận động
trong quỹ đạo của sự tuân thủ quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Nếu không có thị
trường, ôi không trung theo cơ chế thị trường thì nó kinh tế hàng hoá sẽ không thể phát triển được.
Tuy nhiên, cũng phải thấy, rằng bản thân cơ chế thị trường không phải chỉ có mặt
tích cực. Cơ chế thị trường còn có cả những mặt tiêu cực. Chính sự tồn tại cơ chế thị
trường với sự tác động mạnh của quy luật cung - cầu đã góp phần kích thích việc chạy
theo lợi nhuận quá đà làm mất đạo đức con người. Những hành vi cạnh tranh không lành Phan Tính Nghĩa 9
mạnh trong kinh doanh, sản xuất bất chấp sức khỏe người tiêu dùng và cuộc sống của
cộng đồng cũng xuất phát từ đó.
Trong điều kiện nền kinh tế ở nước ta, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ lẻ, rõ ràng
cơ chế thị trường với công tác kế hoạch nhà nước có sự đối lập nhau, có khả năng triệt
tiêu tác dụng của nhau nếu không được xử lý đúng đắn.
Bước vào đổi mới, với nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa thị trường và
kế hoạch trong nên kinh tế thống nhất, nhận thức sự cần thiết của cơ chế thị trường trong
nền kinh tế phát triển có kế hoạch, Đảng ta xác định phải đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế. Chúng ta hiểu rằng thị trường không phải là đặc trưng riêng của CNTB mà kế hoạc
cũng không phải là đặc trưng riêng của CNXH, thị trường là sản phẩm của nền sản xuất hàng hóa nói chung.
Việc kết hợp giữa công tác kế hoạch hóa của nhà nước với sự điều tiết của cơ chế
thị trường thực hiện gắn liền với quá trình xóa bỏ cơ chế thị trường được thực hiện gắng
liền với quá trình xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quả lý
kinh tế dựa trên hạch toán kinh tế. Nhằm khai thác tốt cả hai mặt tích cực và tiêu cực
của cơ chế thị trường, càn phải đẩy mạnh công tác kê hoạch ở tầm vĩ mô đi liền với kiểm
kê, kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế đa thành phần vận động theo
cơ chế thị trường nhưng phải có sự đinh hướng CNXH.
Thực tế những năm thực hiện đổi mới kinh tế vừa qua ở nước ta đã chứng tỏ, việc
thực hiện sự kêt hợp các mặt đối lập giữa tư hữu và công hữu, thị trường và kế hoạch
trên cơ sở đảm bảo vai trò chủ đạo của thành phần KTNN, đảm bảo tính kế hoạch ở tầm
chiến lược, vĩ mô là giải pháp đúng đắn.
2. Trong hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta phát động và lãnh đạo không chỉ thực
hiện trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước mà còn diễn ra trong bối cảnh
quốc tế có những thay đổi to lớn và sâu sắc. Chính những biến đổi quốc tế đó đã tác
động, gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển, hoạch định đường lối của quốc gia.
Những sự biến đổi ấy cũng đã đặt ra cho mọi quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới về yêu
cầu khách quan hội nhập. Đối với nước ta, công cuộc đổi mới trên thực tế cũng chịu sự
tác động, chi phối đáng kể của những biến đổi quốc tến và xu hướng khách quan đó, tiêu biểu như:
1. Sự khủng hoảng và đi tới sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở cuối
thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỉ XX.
2. Bản thân CNTB hiện đại cũng đã có sự thay đổi, điều chỉnh, thích nghi với những
biến đổi quốc tế. Mặc dù sự thay đổi, điều chỉnh đó không làm thay đổi bản chất
của một chế độ bất công, song cũng thể hiện một số giá trị tích cực nhất định.
3. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra một cách mạnh mẽ với trình độ
ngày càng cao, tạo ra những thành tựu to lớn làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nhân loại.
4. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, ngày càng diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến
đời sống của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Phan Tính Nghĩa 10
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương mở rộng hợp tác quốc tê, hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng được khẳng đinh rõ nét và đầy đủ hơn. Đảng ta chủ trương xây dựng
một nền kinh tế mở, trên tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên hay các bên cùng có lợi.
Có thể khẳng đinh, độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng cho sự độc lập tự chủ về
mọi mặt, đặt biệt là về chính trị. Thực tế là, trong bối cảnh toàn cầu hóa, trong bối cảnh
các nước có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, ngày càng xuất hiện ý thức coi trọng độc
lập chủ quyền quốc gia, coi trọng lợi ích dân tộc trong quá trình hợp tác quốc tế của một
quốc gia cụ thể. Vì vậy, không thể có quan niệm giản đơn rằng đã hội nhập thì không
nên đặt vấn đề về việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Song đồng thời, cũng không
nên quan niệm rằng đã xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ thì không thể tiến hành hội
nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì, độc lập tự chủ ở đây là sự độc lập tự chủ của nền kinh tế
mở, một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc kết hợp giữa hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ sẽ cho phép chúng ta, trong khi vẫn khai thác được tiềm năng bên ngoài lẫn bên
trong nước, thực hiện được việc kết hợp giữa nội lực và ngoại lực, đạt được mục tiêu
phát triển kinh tế, đồng thời vẫn duy trì được sự ổn định, đọc lập tự chủ về chính trị.
Bên cạnh việc tiến hành hợp tác với các nước CNTB một cách linh hoạt, mềm
dẻo và có nguyên tắc, Đảng ta còn khẳng định rõ, trong quá trình chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực, giữa trong nước và quốc tế, phải phát
huy cao độ nguồn nội lực. Nội lực là một yếu tố quyết định và phải khai thác hiệu quả
nguồn lực bên ngoài. Để tăng cường sức mạnh nội lực phải xây dựng một nền kinh tế
đủ tiềm lực. Ngoại lực là một yếu tố bổ trợ thiết thực để giúp nền kinh tế phát triển,
chúng ta phải biết tận dụng nội lực để nâng cao trình độ công nghệ, khoa học kĩ thuật
và các yếu tố khác để nâng cao nội lực quốc gia.
Quá trình hội nhập quốc tế nhằm là đỏi hỏi khách quan của toàn cầu hóa, Đảng
ta đã quán triệt tinh thần biện chứng về sự kết hợp cá mặt đối lập trong NEP. Yêu cầu
của một sự kết hợp có nguyên tắc, dựa trên nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập,
nguyên tắc đi theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, đã được Đảng ta thể hiện rõ trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác với CNTB. Chính sự kết hợp biện chứng, có
nguyên tắc như vậy đã cho phép quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của ta
đạt nhiều thành tựu quan trọng và góp phần quan trọng trong việc xây dựng CNXH ở nước ta.
Tài liệu tham khảo:
1. TS Trần Nguyên Kí (2021) “Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” Phan Tính Nghĩa 11