Tiểu luận triết học - Đề cương môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội
Tiểu luận triết học - Đề cương môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 39651089
Câu 8: Hãy phân tích cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả, rút ra ý nghĩa
phương pháp luận, ứng dụng trong cuộc sống, học tập?
1: Khái niệm nguyên nhân, kết quả
- Nguyên nhân: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tương tác lẫn nhau giữa
cácmặt trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau
gây nên những biến đổi nhất định
- Kết quả: là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra
=> Nhận thức đúng đắn về nguyên nhân- kết quả giúp ta khắc phục được hạn
chế coi nguyên nhân của mỗi sự vật, hiện tượng, trong những điều kiện nhất
định nằm bên ngoài sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời, khắc phục được thiếu sót
coi nguyên nhân cuối cùng của sự vận động, chuyển hóa của toàn bộ thế giới vật
chất nằm ngoài nó, trong lực lượng phi vật chất nào đó 2: Một số tính chất của
mỗi quan hệ nguyên nhân- kết quả - Tính khách quan:
+ Mỗi liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người
+ Vì mối quan hệ nhân quả vốn có trong bản thân sự vật nên không thể đồng
nhất với khả năng tiên đoán - Tính phổ biến
+ Mối liên hệ nhân quả xảy ra trong mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi lĩnh
vực cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người
+ Không có sự vật, hiện tượng nào không có nguyên nhân của nó. Vấn đề là
chúng ta đã phát hiện, tìm ra nguyên nhân hay chưa - Tính tất yếu
+ Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định có
thể gây ra một kết quả nhất định
+ Cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ cho ra những kết quả như nhau
+ Nếu nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả cho ra
càng ít khác nhau bấy nhiêu
3: Mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định và ngược lại
không có kết quả nào không có nguyên nhân ( có nhân ắt có quả) lOMoAR cPSD| 39651089
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết
quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân
- Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả, một kết quả có thể do
một hoặc nhiều nguyên nhân
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau tùy theo mối quan hệ.
Trong thế giới, không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả cuối cùng - Ví dụ: + Chiến tranh:
/ Nguyên nhân gây nên chiến tranh: do nhu cầu muốn mở rộng lãnh thổ, muốn làm giàu
/ Kết quả: gây nên chết chóc, tàn phá thiên nhiên, kinh tế suy giảm, xã
hội chậm phát triển,…. 5: Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối liên hệ nhân quả có tính chất khách quan và tính phổ biên, nghĩa là không
có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân.
Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được nguyên nhân. Nhiệm
vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn
tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật,
hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ
đầu óc con người, tách rời với thế giới hiện thực.
- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một
hiệntượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước
khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra.
Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả.
Vì vậy trong hoạt động thực tiễn của chúng ta cần phân loại nguyên nhân, tìm
ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,... Đồng thời phải nắm bắt
được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp
tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế
sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiến chúng
ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc
đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
5: Ứng dụng trong đời sống và học tập
- Trong đời sống: Nhờ biết được những hậu quả do tác động lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng trong tự nhiên, con người sẽ lợi dụng được những nguồn năng
lượng phục vụ đời sống hằng ngày lOMoAR cPSD| 39651089
VD: Biết được hiện tượng thủy triều là do sức hút của mặt trăng tạo nên làm
cho nước biển bị cuốn theo hây nên những đơth thủy triều tràn vào đất liền, con
người lợi dụng nó tạo ra nguồn điện
VD: Trước đây người ta hoàn toàn bất lực trước hiện trạng xa lánh những
người nhiễm HIV, AIDS. WHO đã nghiên cứu và xác định rằng chính sự xa lánh
đó là nguyên nhân cơ bản khiến người bị AIDS ngày càng tăng. Ngày nay trong
lĩnh vực truyền thông luôn tăng cường truyên truyền thái độ chia sẻ, cảm thông.
Và theo một ngiên cứu ở Trung Quốc cho thấy tỉ lệ người nhiễm AIDS giảm
đáng kể. - Trong học tập
+ Với giáo viên: biết được nguyên nhân học sinh học tập sa sút do gia đình cần
động viên, an ủi, quan tâm, dành nhiều thời gian để nói chuyện, chia sẻ với học sinh
+ Với học sinh: biết được kết quả bài kiểm tra kém là cho lười học, cần thay
đổi cách học, lên lớp tập trung lắng nghe bài giảng, chủ động tìm hiểu bài về
nhà, kiến thức bên ngoài để mở mang kiến thức, chủ động hỏi thầy cô, bạn bè
khi có bài tập không hiểu
Câu 7: Hãy phân tích cặp phạm trù cái chung- cái riêng, rút ra ý nghĩa
phương pháp luận, ứng dụng trong cuộc sống và học tập?
1: Khái niệm cái chung, cái riêng -
Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong
những sự vật, hiện tượng khác -
Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình nhất định -
Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ những đặc tính, tính chất
chỉ tồn tại ở một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác
=> Quan niệm về cái chung- cái riêng trong lịch sử -
Chủ nghĩa duy thực cho rằng cái chung tồn tại chân thật, cái riêng chỉ tồn
tại lệthuộc cái chung mà thôi -
Chủ nghĩa duy danh cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại chân thực, cái
chung chỉ có trong trí tưởng tượng của con người mà thôi lOMoAR cPSD| 39651089
2: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung- cái riêng- cái đơn nhất -
Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà
biểu hiện sự tồn tại của nó. Không có cái chung thuần túy nào tồn tại bên ngoài cái riêng
Ví dụ: Trên cơ sở khảo sát tình hình hoặt động cụ thể của một số doanh nghiệp
có thể rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế -
Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có
cái riêng tồn tại độc lập
Ví dụ: Không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệp mà không
theo nguyên tắc chung của thị trường -
Thứ ba: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng
Ví dụ: Khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải
quyết mỗi vấn đề riêng cần phải xem xét đến điều kiện lịch sử cụ thể tạo nên cái đơn nhất của nó -
Thứ tư: Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong quá
trình phát triển của sự vật
Ví dụ: Một sáng kiến khi ra đời- nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng
sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, có thể thông qua
các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, phổ biến
hơn - khi đó cái đơn nhất trở thành cái chung
3: Ý nghĩa phương pháp luận -
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như
một thuộc tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với
cái đơn nhất và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt,
thì các phương pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó
đều không thể như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với
cái chung đó, Vì bản thần cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là
một và không giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được
cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường
hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc
điểm của từng trường hợp. -
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn
cái đơn nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đổ trong điều kiện khác,
không nên sử dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung
đối với trường hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất
định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có
thể biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải
tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái
chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
4: Ứng dụng cái chung- cái riêng trong thực tiễn cuộc sống
Câu 2: Phân tích định nghĩa vật chất của triết học Mác-Lênin? Nêu ý nghĩa
của định nghĩa đó?
1: Định nghĩa vật chất của triết học Mác-Lênin -
Theo triết học Mác-Lênin: “ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tạikhách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” -
Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết quả của việc tổng kết
từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm,
siêu hình về phạm trù vật chất.
2: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin -
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan- cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thứcvà không lệ thuộc vào ý thức, bất kể sự phụ thuộc ấy con người đã nhận
thức được hay chưa nhận thức được
+ Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản
của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật
chất. Trong đó, vật chất và ý thức tồn tại song song cho đến ngày nay. Tuy nhiên
vật chất phải là cái sinh ra trước, nó xuất hiện từ khi chưa xuất hiện loài người
và từ khi chưa có cái được gọi là ý thức
+ Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất
vẫn tồn tại. Như vậy để thấy rằng ý thức có mặt và vận động, phát triển sau đó.
Qua đó, vật chất mang đến các chức năng, tác dụng cần thiết đối với con người.
Đặc biết là vẫn phản ánh được thông qua mắt nhìn, tay sờ. -
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì
đem lại cho con người cảm giác lOMoAR cPSD| 39651089
+ Vật chất luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể.
Các thực thể này do các đặc tính bản thể luận vốn có của nó , nên khi tác động
trực tiếp hay gián tiếp vào các giác quan sẽ đem lại cho con người cảm giác -
Thứ ba, vật chất là cái ý thức mà chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
+ Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện
tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất.
+ Những gì có được trong các hiện tượng tinh thần đều là chép lại, chụp lại, là
bản sao của sự vật, hiện tượng tồn tại với tư cách hiện thực khách quan. 3: Ý
nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác- Lênin
=> Với định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học -
Bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại -
Khắc phục cuộc khủng hoảng trong khao học tự nhiên, định hướng cho sự
pháttriển của nó trong việc tìm kiếm các dạng thức, hình thành mới của vật chất trong thể giới -
Đồng thời, là cơ sở để xác định vật chất trong xã hội, là nên tàng lí luận
khoa học để phân tích một cách suy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4: Ý nghĩa phương pháp luận với con người hiện nay -
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng
tính khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan của mình. Nếu
không tôn trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh chủ quan. -
Ý có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phảnánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có
thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế
giới khách quan. Nếu quá coi trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh bi quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ
bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
Câu 4: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nguồn gốc của ý thức? lOMoAR cPSD| 39651089
=> Tại sao có rất nhiều động vật có não nhưng chỉ có con người là có ý thức?
Phải chăng là do con người có chữ viết riêng, có lao động,… Theo Kito giáo, họ
cho rằng: “ Con người do chúa tạo ra, linh hồn con người cũng là sản phẩm của
chúa. Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguồn gốc ý thức
của con người gồm 2 yếu tố: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên -
Con người có bộ não tổ chức hoàn thiện nhất, tinh vi và phức tạp nhất.
Não bao gồm 14-15 tỉ nơron thần kinh, khoảng 100 tỉ tế bào, các tế bào liên kết
đến các giác quan phản ứng và tạo ra ý thức Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý thức chính là bộ óc và sự hoạt động cùng
các mối quan hệ thế giới khách quan và con người. Trong đó thì thế giới khách
quan có sự tác động tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý
thức từ con người đối với thế giới khách quan. Tóm lại, ý thức là sự phản ánh về
thế giới khách quan từ con người. -
Phản ánh là tái tạo lại đặc điểm của tổ chức vật chất này với tổ chức vật
chất khác. Phản ánh bao gồm:
+ Phản ánh vật lý hóa học: một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho vật chất vô
sinh. Phản ánh đó được thể hiện qua biến đổi về lý, hóa, cơ khi có sự tác động
lẫn nhau bởi các dạng vật chất vô sinh. Hình thức được phản ánh chưa định
hướng lựa chọn mà chỉ mang tính thụ động của vật nhận tác động
+ Phản ánh sinh học: hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng giới tự
nhiên hữu sinh. Qúa trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được thể hiện qua
tính kích thích, phản xạ và tính cảm ứng.
+ Phản ánh tâm lí: là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được phát triển đến
trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện dưới cơ chế phản
xạ có điều kiện lên những tác động môi trường sống.
+ Phản ánh ý thức: hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi con người
* Nguồn gốc xã hội
=> Lao động và ngôn ngữ chính là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp tạo thành
nguồn gốc xã hội của ý thức. - Lao động:
+ Là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên
tạo ra nhiều sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tai và phát triển của con người.
Trong quá trình lao động thì con người có sự tác động tới thế giới khách quan để
bộc lộ những kết cấu, thuộc tính, quy luật vận động, theo đó biểu hiện ra những
hiện tượng nhất định để con người quan sát được
+ Trong lao động con người phát triển và hoàn thiện thân xác của mình lOMoAR cPSD| 39651089
+ Giúp trí tuệ của con người phát triển, tư suy, ý thức phát triển hơn + Vai trò của lao động:
/ Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn của con người
/ Hoàn thiên, phát triển thân xác chúng ta ( có dáng đi thẳng, các giác quan
được hoàn thiện, từ đó nhận thức ngày càng tốt hơn ) - Ngôn ngữ
+ Là cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất nhân tạo có vai trò trong
thể hiện, lưu trữ nội dung ý thức
+ Vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành của ý thức:
/ Ngôn ngữ vừa là phương tiện để giao tiếp, vừa là công cụ để tư duy
/ Với tư cách là công cụ để tư duy, con người sử dụng ngôn ngữ trong việc
khái quát hóa, tổng kết thực tiễn
/ Với tư cách là phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ được sử sụng trong việc trao
đổi thông tin, trao đổi tri thức từ người này qua người khác, từ thế hệ này đến
thế hệ khác. Thông qua đó ý thức được hình thành và phát triển * Ví dụ về
nguồn gốc của ý thức:
- Ý thức được bắt nguồn từ nguồn gốc xã hội, trong đó bao gồm lao động và
ngôn ngữ, ví dụ cụ thể: Con người khi lao động cụ thể là lao động chế tạo ra
các công cụ lao động, công cụ dùng trong sinh hoạt, từ đó con người có ý thức
về việc thay đổi thói quen ăn uống hay mục đích của hoạt động biến đổi phát triển xã hội.
Câu 10: Phân tích nguyên lý về sự phát triển?
1: Khái niệm về sự phát triển -
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. -
Theo quan điểm siêu hình, phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về
lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi
nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín,
chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo
quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục,
không có bước quanh có, phức tạp. -
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố
tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong lOMoAR cPSD| 39651089
hình thái của sự vật, hiện tượng mới. 2: Tính chất của sự phát triển a/ Tính
khách quan của sự phát triển -
Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự
vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện
tượng, là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiên tượng đó. Tính chất
này là thuộc tính tất yếu không phụ thuộc vào ý thức con người -
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đậu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng,…
vẫn pháttriển bình thường dù không có con người.
b/ Tính phổ biến của sự phát triển -
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễn ra trong một lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật và
hiện tượng trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi
quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy luật khách quan.
+ Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới
mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
+ Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn
với tự nhiên và xã hội - Ví dụ:
+ Trong tự nhiên: Tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể đối với những
biến đổi của môi trường
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới
mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người
+ Trong tư duy: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây
c/ Tính kế thừa của sự phát triển
- Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít
nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời
cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ.
Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.
- Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất. Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy ốc. lOMoAR cPSD| 39651089
- Ví dụ: Thời đại công nghệ thông tin ngày càng phát triển, nhiều loại máy mới
ra đời nhưng một số chức năng cũ vẫn được dùng đến ngày nay, dồng thời tiếp
thu hạn chế để khắc phục cho những đời máy sau này d/ Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại
có quá trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở những thời gian, không gian
khác nhau, chịu những ảnh hưởng khác nhau và sự tác động đó có thể làm thay
đổi chiều hướng quá trình phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm sự vật, hiện
tượng thụt lùi tạm thời.
- Ví dụ: Cùng là một loại giống lúa nhưng được trồng ở loại đất khác nhau, chịu
ảnh hưởng của khí hậu khác nhau nên sự phát triển cũng khác nhau
3: Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong thực tiễn và học tập - Trong thực tiễn:
+ Việc vận dụng phương pháp luận, nguyên lý về sự phát triển góp phần quan
trọng trong việc định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
+ Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn góp phần thúc
đẩy các sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi mỗi chúng ta
phải tìm ra mâu thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu
thuẫn, phải thấy được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. - Trong học tập:
+ Việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập mang ý nghĩa rất quan
trọng, đặc biệt với sinh viên để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
+ Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận cuẩ quan điểm
toàn diện, để từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình
học tập cần phải phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ
về bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.
+ Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
+ Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ
khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu
cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện
tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức
cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. lOMoAR cPSD| 39651089
4: Ví dụ minh họa về nguyên lý của sự phát triển
- Quá trình phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có nhiều loại công
nghệ hiện đại ra đời thay thế cho những công nghệ đã dần lạc hậu nhưng đồng
thời tiếp thu những điểm mạnh trước đó và khắc phục những hậu quả trước đó gây ra
- Qúa trình phát triển của một con người, từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng
thành, con người ngày càng hoàn thiện về mặt thể chất và phát triển mạnh mẽ
về mặt tư duy nhận thức của mình.
Câu 11: Hãy phân tích cặp phạm trù quy luật lượng- chất?
1: Khái niệm lượng và chất:
- Lượng là một phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan của sự vật, hiện
tượng nào đó, biểu thị số lượng. quy mô hay trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của hiện tượng, sự vật cũng như thuộc tính của nó. (Ví dụ:
CO2 , lượng số nguyên tử tạo thành nó là 1 nguyên tử Cacbon, 2 nguyên tử Oxi)
- Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của một sự vật,
hiện tượng nào đó; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu
tạo thành sự vật, hiện tượng, làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là
cái nào khác (Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl)
và thuộc tính của muối là: Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn) 2: Một số
tính chất của lượng và chất: - Về lượng:
+ Lượng là phạm trù triết học được dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
về mặt số lượng, quy mô trình độ của sự vận động và phát triển cũng như là các
thuộc tính khác đã cấu thành lên sự vật.
+ Đặc trưng của lượng sẽ được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích
thước dài hoặc ngắn, quy mô, tổng số hay trình độ. Nhưng đối với các trường
hợp phức tạp thì không thể chỉ diễn tả bằng những con số đòi hỏi sự chính xác
cao mà còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
+ Theo Mac – Lênin thì lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
Toàn bộ sự so sánh giữa lượng và chất chỉ là tương đối, không có tuyệt đối. - Về chất:
+ Chất chính là chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, được coi là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vậy là nó chứ không phải những sự vật khác. lOMoAR cPSD| 39651089
+ Từ đó có thể thấy chất và thuộc tính không thể đồng nhất với nhau. Bởi mỗi
sự vật, hiện tượng đều chứa đựng rất nhiều thuộc tính, nhưng những thuộc tính
này không thể cùng tham gia vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những
thuộc tính cơ bản nhất mới có thể quyết định được bản chất của sự vật.
+ Do đó, chỉ khi nào những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới
thay đổi theo, đồng nghĩa với việc khi các thuộc tính không cơ bản dù có thay
đổi hay không thì cũng không làm biến đổi bản chất của sự vật.
+ Tuy nhiên các thuộc tính cũng như chất của sự vật sẽ luôn có mối quan hệ cụ
thể với nhau, vì vậy việc phân biệt này chỉ mang tính tương đối.
3: Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
=> Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa chất và lượng.
Sự thay đổi và lượng tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, quá trình
diễn ra: lượng thay đổi dần dần, vượt quá giới hạn độ tại điểm nút làm cho chất
cũ mất đi, chất mới ra đời, quy định một lượng mới, lượng mới tích lũy vượt quá
giới hạn độ tại điểm nút và lại sinh ra chất mới… quá trình này diễn ra liên tục
tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Nước ở 0 độ C chuyển từ thể rắn sang thể lỏng, nước ở 100 độ C chuyển
từ thể lỏng sang thể khí (hơi). - Thứ nhất :
+ Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự chuyển hóa về chất
+ Trong quá trình tồn tại, sự vật không ngừng tích lũy về lượng. Khi lượng đổi
mà chất chưa đổi thì đó là độ. Độ là khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Độ thể hiện sự thống nhất
giữa chất và lượng của sự vật. - Thứ hai:
+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất của sự vật. Giới hạn đó chính là điểm nút.
+ Điểm nút là khái niệm dùng để chỉ thời điểm (điểm giới hạn) mà tại đó sự tích
lũy về lượng đã đủ dẫn đến sự chuyển biến (thay đổi) về chất của sự vật - Thứ ba:
+ Sự thay đổi về chất do sự thay đổi về lượng của sự vật gây nên đó là bước nhảy
+ Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ sự chuyển biến về chất củ sự vật do sự
thay đổi về lượng trước đó gây nên lOMoAR cPSD| 39651089
+ Bước nhảy kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển của sự vật và là sự
khởi đầu cho một giai đoạn vận động, phát triển mới của sự vật ấy - Thứ tư:
+ Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật , thúc đẩy sự thay đổi về
lượng của sự vật. Sự thay đổi về lượng ấy lại dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật
+ Quá trình đó diễn ra liên tục, vì thế sự vật không ngừng vận động, phát triển
- Ví dụ: Quá trình chuyển hóa từ đá- nước- bay hơi +
4: Ý nghĩa phương pháp luận
- Ý nghĩa trong nhận thức
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật,
hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi
nhận thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn
phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định
giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
- Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút);
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau:
/ Một là, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ
lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
/ Hai là, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút
nhưng không muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy
phải được thực hiện một cách cẩn thận.
+ Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực
hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể để tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi
về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu. lOMoAR cPSD| 39651089
5: Ứng dụng trong học tập
Là học sinh, sinh viên ai cũng phải tích lũy cho mình những lượng kiến thức nhất định -
Quá trình tích lũy về lượng - tri thức của mỗi học sinh là một quá trình
dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ
lực và khả năng của bản thân người học. -
Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình
một khối lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong
việc giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì học,
trước hết là các kì thi học kì và cuối cấp là kì thi tốt nghiệp. -
Với việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua
các kì thi và chuyển sang một giai đoạn học mới.
=> Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập tích lũy
kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính
là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai đoạn
mới, tức là có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học
sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác
nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng
mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt
nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học
lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học
sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì
phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên. Câu 15:
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?
1: Định nghĩa và ý nghĩa của lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất được hiểu là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
được hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể
hiện ở thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả
năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiện để tạo ra của casit vật
chất nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con người.
- Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, chủ yếu bao gồm hai yếu tố sau đây: + Tư liệu sản xuất;
+ Lực lượng con người
/ Người lao động là chủ thể của quá trình lao động và sản xuất, Với sức mạnh,
kỹ năng của bản thân, họ sử dụng các tư liệu lao động để tác động vào đối tượng
và sản xuất ra của cải vật chất. Đây chính là yếu tố có vai trò quan trọng; lOMoAR cPSD| 39651089
/ Tư liệu sản xuất chính là điều kiện vật chất cần thiết để có thể tổ chức sản
xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là yếu
tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động để tác động lên,
nhằm biến đổi chúng sao cho phù hợp với mục đích sử dụng nhất. Tư liệu lao
động là yếu tố vật chất mà con người dùng để tác động trực tiếp lên đối tượng
lao động. Tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và phương tiện lao động.
- Ý nghĩa của lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
+ Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong
giai đoạn lịch sử nhất định.
+ Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa
học - kỹ thuật, kỹ năng lao đọng của con người đóng vai trò quyết định. Con
người là nhân tố trung tâm, và là mục đích của nền sản xuất xã hội.
+ Người lao động với tư cách là một bộ phận lực lượng sản cuất xã hội phải là
người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có
kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề
nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc
+ Nước ta là một nước giàu tài nguyên nhiên nhiên, có nhiều nơi mà con người
chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quá trinh
công nghệ tiên tiến, con người có thể tạo ra được những sản phẩm mới có ý
nghĩa quyết định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại.
Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn
hút mọi hoạt động của con người.
=> - Tóm lại, lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn được sử
dụng trong quá trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu
trúc thì lực lượng sản xuất bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao
động được dùng cho việc sản xuất.
- Trong bất cứ một xã hội nào để có thể tạo ra của cải, vật chất không chỉ có
các yếu tố về người lao động mà còn phải kết hợp thêm cả tư liệu sản xuất nữa.
Bở lẽ nếu không có công cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con
người sẽ không thể tác động được lên đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.
2: Định nghĩa và ý nghĩa của quan hệ sản xuất
- Quan hệ sản xuất được hiểu là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: SẢN XUẤT - PHÂN PHỐI - TRAO ĐỔI
- TIÊU DÙNG. Theo đó, quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và
quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã lOMoAR cPSD| 39651089
hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Quan hệ sản xuất là
quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Đây là một kiểu quan
hệ tiêu biểu cho bản chất kinh tế - xã hội nhất định.
- Nội dung cơ bản của quan hệ sản xuất.
+ Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệu sản xuất;
+ Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý;
+ Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phố sản phẩm lao động.
=> Có thể nói ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ
nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của
bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản
xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
- Ý nghĩa của quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây:
+ Trong quá trình tổ chức sản xuất xuât hiện các quan hệ kinh tế, nó vừa biểu
hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ thuật
của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động
xã hội, chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất. Nó do tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất quy định
+ Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan hệ
này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng quan
hệ sở hữu. Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại
trong một phương thức sản xuất nhất định.
=> Tóm lại, quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất ra của cải, vật chất. Quan hệ sản xuất chính là do con người
tạo ra. Nhưng nó lại hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất và
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
3: Mối quan hệ biện chứng giữa lựu lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
+ Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
/ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời,
khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 39651089
/ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan
hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu
dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng
có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
+ Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất như sau:
/ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
/ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do
đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng,
hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm
lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp.
Câu 16: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội?
1: Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - Cơ sở hạ tầng
+ Cở sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
+ Về mặt kết cấu cơ sở hạ tầng gồm có: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản
xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị
giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo quyết định tính chất của một cơ sở hạ tầng
nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất còn lại cũng có vai trò nhất định
+ Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các
quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là cơ sở hiện thực
để con người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng
- Kiến trúc thượng tầng
+ Là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã hội
tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ
sở hạ tầng nhất định. lOMoAR cPSD| 39651089
+ Về mặt cấu trúc của kiến trúc thượng tầng gồm: Những quan điểm tư tưởng
về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học,… cùng những
thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội và những đoàn thể xã hội khác.
+ Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động
phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qualại lẫn nhau và đều
hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau
đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực
tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ
quan hệ gián tiếp với nó.
2: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
=> Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được
thể hiện rất rõ, chúng tác động qua lại lẫn nhau. Cụ thể:
- Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết
định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm
địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn
trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư
tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối
kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như
nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã
hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi
kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến
trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,
- Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở
hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế lOMoAR cPSD| 39651089
khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động
ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
3: Ý nghĩa trong đời sống xã hội -
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị -
Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính
trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đói với kinh tế. -
Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố
nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm
4: Ví dụ về sự vận dụng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay -
Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượng tầng,
chính trị là thống soái; nhà nước và các cơ quan quản lý can thiệp thô bạo vào
kinh tế bằng những mệnh lệnh chủ quan, vi phạm các quy luật kinh tế khách
quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội -
Từ 1986 đến nay: Thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội), lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị, trước
hết là đổi mới tư duy về kinh tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới- ổn
định- phát triển, giữ vững dịnh hướng xã hội chủ nghĩa
=> Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động mạnh mẽ qua lại với kinh tế
Câu 6: Phân tích quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?
1: Phân tích mỗi quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại với nó.
a/ Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là
tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ não
con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai lOMoAR cPSD| 39651089
+ Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội
dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định
tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức
là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên
trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất.
Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển
cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
- Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy
đủ thì mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời
sống vật chất phảiđược đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần.
Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thứ b/ Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức
có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của
conngười, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới
mà nó trang bị cho conngười tri thức về hiện tượng khách quan để con người lOMoAR cPSD| 39651089
xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối
với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
2: Ý nghĩa phương pháp luận về từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi
nhận thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần
phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố
con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sángtạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng
vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải
tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài
hòalợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.
3: Vận dụng trong cuộc sống và trong học tập - Trong học tập:
+ Tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu,
những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết
học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
+ Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó
đểđánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích
cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm
bài tập và tàiliệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải
thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các
phong trào của các tổ chức xã hội.
- Trong cuộc sống: Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi
phải tiếp xúc với người đó và lắng nghe những đánh giá của những người xung lOMoAR cPSD| 39651089
quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình dong”, không
thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
Câu 17: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội 1:
Định nghĩa tồn tại xã hội và ý thức xã hội - Tồn tại xã hội:
+ Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con
người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
+ Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế
giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất
hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội - Ý thức xã hội:
+ Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán,
truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận…nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách khác, ý thức
xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử.
+ Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác
nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (khoa học); tâm lý xã hội và
hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học…).
2: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
+ Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội nào
thì có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm
và xu hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội. Ý thức xã hội phản ánh cái
logic khách quan của tồn tại xã hội.
+ Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi.
+ Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận,
hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ
kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ
kinh tế được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như lOMoAR cPSD| 39651089
vậy, sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng
- Tính độc lập tương đối ý thức xã hội.
+ Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu rồi, song
ý thức xã hội do xã hội đó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều này biểu hiện rõ
nhất ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như truyền thống, thói quen và
nhất là tập quán. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định, “sức mạnh của tập quán
ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm nhất” + Ý thức
xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Triết học Mác thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó
là do nó phản ảnh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản
chất của tồn tại xã hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng
lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận.
+ Ý thức xã hội có tính kế thừa.
Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một
trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình
độ kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển,
chẳng hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng
văn hóa tinh thầnSự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội ảnh hưởng tới tồn tại xã hội.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội ảnh hưởng tới tồn tại xã hội
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có
những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các
hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức xã hội
không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội, mà còn chịu sự tác
động lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động lẫn nhau đó giữa các hình thái ý thức xã
hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những mặt không
thể giải thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa….)
- Ý thức xã hội tác động ngược trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh
hay yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào các quan hệ kinh
tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và lOMoAR cPSD| 39651089
sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng; và đặc
biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Do đó,
cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ
xã hội. Ta có thể kết luận, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập,
tích cực tác động ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung
3: Ý nghĩa phương pháp luận -
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng
của đời sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. -
Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để
thay đổi ý thức xã hội. -
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã
hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã
hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều
kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. -
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã
hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất
tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất
mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Câu 5: Phân tích quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và kết cấu của ý thức?
1: Định nghĩa ý thức -
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác- Lênin là một phạm trù được
quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối
quan hệ biện chứng với vật chất 2: Bản chất của ý thức -
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Như vậy, bản
chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau đây: a/ Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. -
Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập
với cái phản ánh (tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật khách
quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ
quan, không có tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật
chất có tồn tại cảm tính. -
Ví dụ: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh
tươi.b/ Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo. -
Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ
động, giản đơn, máy móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như
thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế. -
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo. Trong quá trình lao
động để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào sự vật một cách có
định hướng, chọn lọc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà, cày ruộng, đào
mương, xây cầu…). Chính vì thế, ý thức của con người là sự phản ánh năng
động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan. -
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.Trên
cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng
tượng ra cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai một
cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm
chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị… -
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo
của nó là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh. -
Ví dụ: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng
động trong việc đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo
trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo c/ Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt,
là sự thống nhất của 3 mặt sau: -
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh
(núi, sông, mưa,…). Sự trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn
lọc các thông tin cần thiết. -
Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng
trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức
sáng tạo lại hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. -
Ba là, chủ thể chuyển mô hình từ trong óc ra hiện thực khách quan. Đây
là qúa trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn để biến quan
niệm của mình thành dạng vật chất trong cuộc sống. Ví dụ như con người sẽ xây
cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở trên. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Ví dụ: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài
-> suy nghĩ cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải
bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả d/ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. -
Chỉ khi con người xuất hiện, tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế
giớikhách quan theo mục đích của mình, ý thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức
không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy, mà bắt nguồn từ thực tiễn lịch
sử – xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. -
Ý thức bị chi phối không chỉ bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi
các quyluật xã hội. Ở những thời đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời
đại, ý thức về cùng một sự vật, hiện tượng có thể khác nhau ở các chủ thể khác nhau. -
Ví dụ: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội,
gìn giữ xã hội phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác
nhau, thể hiện sự phát triển của xã hội (Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán)
3: Kết cấu của ý thức -
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách
tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức. a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình
cảm và ý chí , trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn
có thể bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,… -
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ.
+ Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi
biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức
mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
+ Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri
thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát
triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… lOMoAR cPSD| 39651089
+ Ví dụ: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành
từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh.
+ Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không
thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc
những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
+ Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
+ Ví dụ: tình yêu thương giữa những con người với nhau khi gặp hoạn nạn, yêu
thương với những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình
: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết giúp nhân dân và quân đội
Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng
động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự
giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến
cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với
mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một
cách tự giác; nó cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết
đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính
của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể
hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý
chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người
trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
+ Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác lOMoAR cPSD| 39651089
+ Ví dụ: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn
kháng chiến nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta
vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi b) Theo chiều sâu của nội tâm
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý
thức, tiềm thức, vô thức.
– Tự ý thức:
+ Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý
thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân
mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự
nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy,
có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người
về bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình
thành tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với
những người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan
hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất
và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để
nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
+ Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã
hội, của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ
thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội
mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình.
– Tiềm thức:
+ Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ
thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự
kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể
đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm
trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm
thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể
không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng
cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học.
Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính
xác, với các hoạt động tư duy thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm
thức góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài
liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ
chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học. – Vô thức: lOMoAR cPSD| 39651089
+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có
sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
+ Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham
muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện
tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều
có một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt
ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực
hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng
trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá
mức như ấm ức, “libiđo”…
+ Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động
của con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng
không cần thiết khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người
đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò
cái vô thức trong cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và
đúng đắn về con người.
+ Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên
coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội
xung quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm
trong con người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ
không phải vô thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức
hướng tới chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
Câu 3: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vận động, không gian, thời gian?
1: Vận động a/ Khái niệm vận động -
Ph. Ăngghen định nghĩa: “ Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất- tức
được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, -thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy.” b/ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất -
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà
nó biểu hiện sự tồn tại của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có vận động. -
Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo
ra và nó không thể bị tiêu diệt, mà vận động làthuộc tính cố hữu của vật chất, lOMoAR cPSD| 39651089
nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Nếu một
hình thức vận động nào đó của một sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy
sinh một hình thức vận động khác thay thế, nghĩa là các hình thức vận động của
vật chất chỉ chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật chất thì vĩnh
viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
c/ Những hình thức vận động cơ bản của vật chất -
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã
chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản
+ Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
+ Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động
điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.).
+ Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất).
+ Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
+ Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội) -
Mối liên hệ giữa các hình thức vận động: Hình thức vận động thấp là cơ
sở củacác hình thức vận động cao hơn; giữa các hình thức vận động có mối liên
hệ chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau và chuyển hóa, từ đó làm xuất hiện các hình
thức vận động trung gian- đó là cơ sở khách quan làm xuất hiện những sự
nghiên cứu có tính chất liên ngành khoa học; mỗi hiện tượng, sự vật, quá trình
khách quan có thể bao gồm trong nó nhiều hình thức vận động cùng tồn tại, chi
phối ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng thường có hình thức vận động đặc trưng của nó -
Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận
động hóahọc thì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm
vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất
cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận
động xã hội. c/ Mối quan hệ giữa vận động và đứng im -
Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa
duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; nhưng đứng im, cân bằng
chỉ là hiện tượng tuyệt đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một
trạng thái đặc biệt của vận động -
Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một
số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân
bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động; đứng im không phải là cái tồn tại
vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay lOMoAR cPSD| 39651089
một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định -
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân
bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
2: Không gian và thời gian a/ Định nghĩa -
Không gian: là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự
cùng tồn tại, trật tự, kết quả và sự tác động tác động lẫn nhau -
Thời gian: là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về độ dài diễn
biến, sựkế tiếp của các quá trình -
Không gian, thời gian là một cặp phạm trù của triết học Mac-Lenin dùng
để chỉvề một hình thức tồn tại của vật chất (cùng với phạm trù vận động, trong
đó không gian chỉ hình thức tồn tại của khách thể vật chất ở ví trí nhất định, kích
thước nhất định và ở một khung cảnh nhất định trong tương quan với những
khách thể khác. Trong khi đó thời gian chỉ hình thức tồn tại của các khách thể
vật chất được biểu hiện ở mức độ lâu dài hay mau chóng (độ dài về mặt thời
gian), ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Ph.Ăng-ghen đã
chỉ rõ phạm vi nghiên cứu của Triết học Mác-Lenin về vấn đề này, theo đó,
Không gian và thời gian là không gian và thời gian vật chất. Không có không
gian và thời gian thuần túy bên ngoài vật chất và "Dĩ nhiên, cả hai hình thức tồn
tại này của vật chất nếu không có vật chất sẽ là hư vô, là những quan niệm trừu
tượng trống rỗng tồn tại trong đầu óc của chúng ta" b/ Tính chất -
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất
và là hình thức tồn tại của vật chất. Theo chủ nghĩa Marx - Lenin thì không
không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian.
Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất. -
Tính khách quan: Không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất tồn
tại gắnliền với nhau và gắn liền với vật chất. Vì vật chất tồn tại khách quan, do
đó không gian và thời gian là thuộc tính của nó nên cũng tồn tại khách quan. -
Tính vĩnh cửu vô tận: Không gian và thời gian không có tận cùng về một
phía nào, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cũng như mọi phương vị. -
Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), còn thời
gian chỉ có một chiều (từ quá khứ tới tương lai). Không gian và thời gian là một
thực thể thống nhất không-thời gian và có số chiều là 4. Câu 12: Phân tích quy
luật phủ định của phủ định lOMoAR cPSD| 39651089
1: Khái niệm phủ định của phụ định
- Phủ định: thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự
vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật,
hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của
cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó.
- Phủ định biện chứng: mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó
có những sự phủ định chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ
định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển. Những sự phủ định tạo ra
điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng được gọi là sự
phủ định biện chứng.Với tư cách không chỉ là học thuyết về sự biến đổi nói
chung mà căn bản là học thuyết về sự phát triển phép biện chứng duy vật chú
trọng phân tích không chỉ sự phủ định nói chung mà căn bản là sự phủ định biện chứng.
=> Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là một
mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
- Ví dụ: Hạt thóc -> Cây mạ -> Cây lúa -> Hạt thóc
+ Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
+ Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
+ Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)
=>Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng
thông qua phủ định của phủ định
+ Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
/ Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm
trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật, hiện tượng; tạo khả
năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của
chính bản thân nó. Vì thế, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định.
/ Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và
loại bỏ nhân tố trái quy luật. Phủ định biện chứng không phải là sự phủ định
sạch trơn cái cũ, mà trái lại trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát
triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà
trong đó cái mới hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ mặt lOMoAR cPSD| 39651089
tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. V.I.Lênin cho rằng: "Không
phải sự phủ định sạch trơn, không phải phủ định không suy nghĩ, không phải sự
phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái
đặc trưng và cái bản chất trong phép biến chứng..., mà là sự phủ định coi như là
vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển...".
=> Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên
trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng.
2. Phủ định của phủ định -
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là
một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ
trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức "xoáy ốc". -
Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, hiện tuợng,
mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát
triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lẩn phủ định, tức "phủ định cùa phủ định"
sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện
tượng. Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình
thức "xoáy ốc", đó cũng là tính chất "phủ định của phụ định". Theo tính chất
này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ
định cơ bản với của hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi
chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng
trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích
cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng. -
Theo V.I.Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự
thống nhất" với cái bị khẳng định, không có cái đó, phép biện chứng trở thành
một sự phủ định sạch trơn, một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi". -
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của
sự pháttriển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng,
mà là phát triển theo hình thức con đường "xoáy ốc". V.I.Lênin đã khái quát con
đường đó như sau: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua,
nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ
định"); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng...". -
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện
chứng củasự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng
mới của đường xoáy ốc cũng như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự
tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ổc phản ánh quá trình phát triển vô tận
từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển lOMoAR cPSD| 39651089
của sự vật, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những "vòng
khâu" của quá trình đó.
=>Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện
chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng
định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là
điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội
dung tích cực từ trong sự vật, hiện tượng cũ, phát huy nó trong sự vật, hiện
tượng mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy
luật này, Ph.Ăngghen đã viết: " .. phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật
vô cùng phổ biến vả chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô
cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy".
3. Ý nghĩa phương pháp luận -
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách
đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó
không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều
giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của
quá trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng
tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ
của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triến, phù hợp với yêu cầu hoạt
động, nhận thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách
mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin
vào xu hướng tất yếu là phát trển tiến lên của cái tiến bộ. Đó là biểu hiện của thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng. -
Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới
tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển
theo quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt
động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, cân nâng
cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự
tất thắng của cái mới. ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó,
cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trị trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái
mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định. -
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định
cái cũ phải theo quy tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy
luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sv ,ht
phát triển theo hướng tiến bộ.
4: Liên hệ thực tiễn quy định phủ định của phủ định
- Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đỏi mới ở nước:
+ Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng lOMoAR cPSD| 39651089
không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao
gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.
Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó.
Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự
quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp
đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
+ Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức
được vấn đề và đã có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn
đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói
nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
+ Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc
trựng tiến bộ của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị
trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.chính vì vậy mới có kết
quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
+ Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng
hợp tất cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp
với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động
học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Câu 17: Vấn đề nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước 1: Định
nghĩa nhà nước
- Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy
trì trật tự xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
2: Nguồn gốc của nhà nước theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước và pháp luật không phải
lànhững hiện tượng vĩnh cữu, bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện
khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn
vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn
tại và phát triển của chúng không còn nữa.
+ Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã
hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi
những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
+ Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên
thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi đã xuất hiện sự phân
chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. lOMoAR cPSD| 39651089
- Quá trình hình thành nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Chế độ Cộng sản nguyên thuỷ (CSNT) và tổ chức thị tộc – bộ lạc: đây là hình
thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
/ Cơ sở kinh tế: chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động
với nguyên tắc phân phối bình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và
hưởng thụ. Xã hội không có kẻ giàu người nghèo, không có giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Tế bào cơ sở của xã hội là thị tộc. Thị tộc là một tổ chức lao động
và sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Trong thị tộc có sự phân công lao động
tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực hiện các công
việc khác nhau, chứ chưa mang tính xã hội.
/ Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ CSNT: trong xã hội cộng
sản nguyên thuỷ chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật, tuy nhiên đã tồn tại
quyền lực và hệ thống quản lý các thị tộc, nhưng đó là thứ quyền lực xã hội
được tổ chức thực hiện dựa trên cơ sở nguyên tắc dân chủ thực sự. Quyền lực
xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.
- Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước:
+ Nguyên nhân: Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền
đề làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy và dẫn tới sự phân công lao động xã hội.
+ Sau 03 lần phân công lao động xã hội, đã phân chia xã hội thành các giai cấp
đối lập nhau, luôn mâu thuẩn và đấu tranh gay gắt với nhau, xã hội này đòi hỏi
phải có một tổ chức đủ sức dập tắt các xung đột công khai giữa các giai cấp và
giữ cho các xung đột ấy trong vòng “trật tự”. Tổ chức ấy gọi là nhà nước.
=> Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội
đã phát triển đến một giai đoạn nhất định.
+ Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng.
+ So với tổ chức thị tộc trước đây, nhà nước có hai đặc trưng cơ bản khác biệt với thị tộc:
/ Nhà nước tổ chức dân cư theo lãnh thổ: Nhà nước xuất hiện đã lấy sự phân
chia lãnh thổ làm điểm xuất phát. Cách tổ chức công dân theo lãnh thổ là đặc
điểm chung của tất cả các nhà nước (thị tộc hình thành và tồn tại trên cơ sở huyết thống)
/ Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt: Quyền lực này không còn
hòa nhập với dân cư (Quyền lực công cộng trong chế độ CSNT là quyền lực xã
hội, do dân cư tự tổ chức ra, không mang tính chính trị, giai cấp). Quyền lực
công cộng đặc biệt sau khi có nhà nước thuộc về giai cấp thống trị, phục vụ lợi
ích của giai cấp thống trị. lOMoAR cPSD| 39651089
3: Bản chất của nhà nước
- Bản chất của nhà nước là những giá trị cốt lõi, giá trị bên trong của nhà nước,
nhà nước thể hiện bản chất như sau:
+ Nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối
với toàn xã hội. Đó là nền chuyên chính của giai cấp nắm quyền thống trị về
kinh tế trong xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ
máy của giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác” . Nhà nước chính là một bộ
máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố
sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ
máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của
giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước
của giai cấp bóc lột. Không có nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên dùng để
trấn áp, thì giai cấp thống trị không thể duy trì ách áp bức bóc lột của nó đối với
giai cấp bị thống trị.
+ Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, nhà
nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích chung cho
các giai cấp trong xã hội.
+ Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm
chung. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có những nét chung đó nhưng với bản
chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ
là “nửa nhà nước”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trên cơ sở nguyên tắc
công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu và lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm
của nhân dân lao động nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội
không còn áp bức bóc lột, không còn giai cấp.
+ Bản chất của nhà nước được thể hiện trong các đặc trưng và chức năng của nó.
- Với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mang những đặc
trưng riêng và bản chất riêng điển hình:
+ Nhà nước Việt Nam là nhà nước do dân, vì dân, tất cả vì nhân dân, thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
+ Nhà nước Việt Nam mọi hoạt động được dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
+ Nhà nước Việt Nam thực hiện duy trì và đảm bảo vị trí tối cao của pháp luật
trong đời sống xã hội, mọi hoạt động vận hành trong khuôn khổ pháp luật.
+ Nhà nước Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Nhà nước ta mang bản chất công dân thể hiện tính nhân dân và tính dân tộc.
4: Đặc trưng của nhà nước: lOMoAR cPSD| 39651089
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước có năm đặc trưng cơ bản sau đây: -
Thứ nhất: Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không
còn hòa nhập với dân cư trong chế độ thị tộc nữa mà hầu như tách rời khỏi xã
hội. Quyền lực công cộng này là quyền lực chung. Chủ thể là giai cấp thống trị chính trị, xã hội.
+ Để thực hiện quyền lực quản lý xã hội, nhà nước phải có một tầng lớp người
chuyên làm nhiệm vụ quản lý, lớp người này được tổ chức thành các cơ quan
nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức
mạnh cưỡng chế duy trì địa vị giai cấp thống trị, bắt giai cấp khác phục tùng
theo ý chí của giai cấp thống trị. -
Thứ hai: Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ
không phụ thuộc vào chính kiến, nghề nghiệp, huyết thống, giới tính… Việc
phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng lớn
nhất và dẫn đến hình thành cơ quan quản lý trong bộ máy nhà nước. Không một
tổ chức xã hội nào trong xã hội có giai cấp lại không có lãnh thổ riêng của mình.
+ Lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng của nhà nước. Nhà nước thực thi quyền lực
trên phạm vi toàn lãnh thổ. Mỗi nhà nước có một lãnh thổ riêng, trên lãnh thổ ấy
lại phân thành các đơn vị hành chính như tỉnh, quận, huyện, xã,… Dấu hiệu lãnh
thổ xuất hiện dấu hiệu quốc tịch. -
Thứ ba : Nhà nước có chủ quyền quốc gia: Nhà nước là một tổ chức
quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý
thể hiện ở quyền tự quyết của nhà nước về chính sách đối nội và đối ngoại
không phụ thuộc yếu tố bên ngoài.
+ Chủ quyền quốc gia có tính tối cao, không tách rời nhà nước. Thể hiện quyền
lực nhà nước có hiệu lực trên toàn đất nước, đối với tất cả dân cư và tổ chức xã hội, không trừ một ai. -
Thứ tư: Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc
đối với mọi công dân. Là lực lượng đại diện xã hội, có phương tiện cưỡng chế.
Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với công dân của đất nước. Các
quy định của nhà nước đối với công dân thể hiện trong pháp luật do nhà nước
ban hành. Mối quan hệ nhà nước và pháp luật: Không thể có nhà nước mà thiếu
pháp luật và ngược lại. Trong xã hội chỉ nhà nước có quyền ban hành pháp luật,
các tổ chức khác không có quyền này và chính nhà nước bảo đảm cho pháp luật
được thực thi trong cuộc sống. -
Thứ năm: Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình
thức bắt buộc: quyết định và thực hiện thu thuế để bổ sung nguồn ngân sách nhà
nước, làm kinh phí xây dựng và duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật, trả lương cho
cán bộ công chức. Dưới góc độ thuế nhà nước gắn chặt với xã hội và dân chứ lOMoAR cPSD| 39651089
không tách rời. Cần phải xây dựng một chính sách thuế đúng đắn, công bằng và
hợp lý, đơn giản, tiện lợi.
Câu 14: Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất 1: Sản xuất vật chất
- Theo cách hiểu giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lenin
đưa ra. Sản xuất vật chất được hiểu như sau: “Sản xuất vật chất là quá trình
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người”.
- Phân tích định nghĩa sản xuất vật chất:
+ Con người là động vật tiến hóa bậc cao nhất trong xã hội. Con người luôn tìm
kiếm các lợi ích và nhu cầu để phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của
họ. Qua từng thời kỳ, sự tiến hóa, khai thác tự nhiên của con người ngày càng
được thể hiện cao. Con người không ngừng lao động, sản xuất và tạo ra các tư
liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của mình.
+ Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời sống xã
hội. Để thực hiện được hoạt động sản xuất, con người tác động và biến đổi các
tư liệu sản xuất thành sản phẩm. Quá trình này có sự tham gia của công cụ lao động.
+ Trong quá trình sản xuất vật chất, con người phải tác động vào tự nhiên.
Không ngừng tác động làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm
biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất qua đó cũng không ngừng phát triển.
Mang đến cơ sở, nền tảng cho nhu cầu tồn tại, đáp ứng chất lượng cuộc sống để
tìm kiếm sự phát triển của con người.
+ Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt
của đời sống xã hội. Khi nhu cầu sản xuất càng cao, ứng dụng để mang đến đa
dạng của sản phẩm càng lớn. Từ đó quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao.
Trong các thời kỳ khác nhau, sản xuất đều thúc đẩy chất lượng xã hội nên cao hơn.
2: Vai trò của sản xuất vật chất
Thông qua lao động sản xuất, con người sáng tạo, biết vận dụng linh hoạt hơn tư
liệu, công cụ để tìm kiếm lợi ích. Con người được cải tạo, hoàn thiện và phát
triển về thể chất và tinh thần. a/ Sản xuất là cơ sở tồn tại và phát triển xã hội loài người:
=> Sản xuất vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng. -
Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển
của con người và xã hội. Thông qua sản xuất con người mới có cái ăn, cái mặc. lOMoAR cPSD| 39651089
Cũng như vận dụng vào kinh doanh, mua bán để tìm kiếm các lợi ích kinh tế lớn hơn. -
Sản xuất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan
hệ xã hội của con người. Mang đến sự hợp tác, yếu tố cạnh tranh thúc đẩy sản
xuất nên một tầm cao mới. Nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát
triển của xã hội loài người. Tác động lên nhận thức, điều chỉnh các hành vi và
làm mới đời sống của con người, chất lượng của xã hội. -
Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ
cấp độ tối thiểu đến cấp độ cao hơn. Từ đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu đến
thưởng thức, chiêm ngưỡng, tận hưởng. Như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim, đi
lại, đi du lịch,… Đó là ý thức được hình thành và phát triển, yêu cầu con người
cũng phải cố gắng phấn đấu cho các nhu cầu sở hữu thực tế.
=> Tất yếu phải tiến hành sản xuất vật chất: -
Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phản sản xuất. Sản xuất
là tất yếu để có được sản phẩm tiêu dùng, có được lợi nhuận mới để tham gia
các dịch vụ, tiếp cận các nhu cầu cao hơn. Bởi vì sản xuất là điều kiện của tiêu dùng. -
Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, càng đa dạng. Đáp ứng
được các nhu cầu khác nhau của thị trường. Tiêu dùng càng phong phú và ngược
lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu không tiến hành sản
xuất vật chất. b/ Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội:
Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, sản xuất đã hình thành và phát triển
với các chuyển biến tích cực. Nền sản xuất của cải xã hội không ngừng phát
triển từ thấp đến cao. -
Trong thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy: con người chỉ dùng công cụ
lao động bằng đá, thực hiện săn bắt và hái lượm. Các hiệu quả lao động không
cao. Con người chỉ tiếp cận tự nhiên trong nhu cầu được ăn no. Họ chưa có suy
nghĩ tiếp cận hiệu quả khai thác tự nhiên tốt hơn. Như tìm kiếm một phương
pháp, cách thức để tìm kiếm và có được nguồn thức ăn ổn định, lâu dài. -
Thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại: con người dần dần chế tạo được công cụ
bằngđồng để ứng dụng trong nông nghiệp, công nghiệp nhẹ. -
Thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại: con người bắt đầu sử dụng,
chế tạo đồ sắt. Phát triển với các nhu cầu cũng như khả năng cao hơn trong lao
động. Có được các phương tiện và công cụ lao động hiệu quả, mang đến chất
lượng sản xuất tốt hơn. -
Thời cận đại và hiện đại: sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp mà các
lĩnh vực hoạt động công nghiệp bùng nổ. Để phục vụ sản xuất, con người đã
biết dùng máy móc động cơ hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa. Từ
đó mà hiệu quả hoạt động, sản xuất công nghiệp có nhiều chuyển biến, lợi ích lOMoAR cPSD| 39651089
tìm kiếm hơn. Công nghiệp và dịch vụ được thúc đẩy phát triển cũng khẳng định
giá trị của sản xuất vật chất.
3: Ví dụ về vai trò của sản xuất vật chất -
Cuộc sống con người tiến hóa từ thời cổ đại đến hiện nay thông qua quá
trình sản xuất vật chất. Các ứng dụng và thành tựu ngày càng lớn, giúp con
người duy trì cuộc sống và tồn tại. Dần dần, ý nghĩa tồn tại chuyển qua sự thích
ứng, làm chủ tự nhiên và xã hội. Các sản xuất vật chất đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của con người, công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển. -
Con người phải sản xuất vật chất ở các lĩnh vực và ngành nghề khác nhau.
Từ duy trì cuộc sống khi tham gia vào các ngành như nông – lâm – ngư – công
nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi,… Từ đó giúp cung cấp lương thực, thực phẩm cho
con người tồn tại và phát triển đi lên. -
Đồng thời thực hiện phát triển sản xuất để tìm kiếm nhiều lợi ích hơn
trong thị trường. Thông qua các ngành công nghiệp sản xuất, kinh doanh được
thúc đẩy. Nếu không có sản xuất vật chất thì con người không có gì ăn, có có
nước uống thì không thể sống được. Cũng như không thể hướng đến các phát
triển và tìm kiếm nhiều nhu cầu trên thị trường như hiện tại. -
Bên cạnh đó, con người có sự phấn đấu, có ý chí đi lên. Cũng sản xuất vật
chấtkhông ngừng để thay đổi bản thân và cả thế giới. Các nỗ lực được thực hiện
phù hợp trong điều kiện sử dụng tư liệu sản xuất, công cụ sản xuất. Mang đến
cho con người thành tựu sản xuất vật chất như ngày nay.
=> Từ việc săn bắt, hái lượm bằng tay con người dần dần biết tạo vũ khí để sản
xuất. Sau đó tiến bộ đến ngày nay là sản xuất vật chất quy mô công nghiệp lớn
Câu 13: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn
1. Khái niệm thực tiễn -
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác
– Lênin nói chung và của lý luận nhận thức Mác nói riêng, đây là một phạm trù
đã được nghiên cứu từ rất lâu với nhiều quan điểm khác nhau. Nếu như các nhà
triết học tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thượng đế là hoạt động
thực tiễn thì các nhà triết học duy vật trước triết học DVBC có nhiều đóng góp
cho quan điểm duy vật về nhận thức, nhưng chưa một đại biểu nào hiểu đúng
bản chất của thực tiễn. -
Khắc phục sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những quan niệm về
thực tiễn của các nhà triết học trước đó, Triết học Mác Lênin có quan điểm về nhận thức như sau: -
Thực tiễn là toàn bộ hđộng vật chất- cảm tính có mục đích,mang tính lịch
sử xãhội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ. lOMoAR cPSD| 39651089
+ Con người có rất nhiều hđộng khác nhau: cả hoạt động vật chất và hđộng tinh
thần. HĐTT ở đây là hđộng vật chất cảm tính (mang tính tất yếu khách quan của
con người). Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào
đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Là
hoạt động đặc trưng của bản chất con người, thực tiễn không ngừng phát triển
bởi các thế hệ của loài người qua các quá trình lịch sử.
+ Triết học Mác – Lênin lý giải tinh thần là thuộc tính của một dạng vật chất
sống, có tổ chức cao, là bộ óc con người. Tinh thần, ý thức nằm trong con người,
không thể tách rời con người, quá trình hoạt động phản ánh của tinh thần là kết
quả hoạt động chủ động của con người. Những hoạt động tinh thần là hoạt động
trong hệ thần kinh trung ương của bộ não người chứ không phải diễn ra ngoài thực tế.
2. Tính chất của thực tiễn -
Tính khách quan ở đây được thể hiện ở: thực tiễn không phải là toàn bộ
hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất - cảm tính , như lời
của C. Mác , đó là những hoạt động vật chất của con người cảm giác được ;
nghĩa là con người có thể quan sát trực quan được các hoạt động vật chất này.
Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử dụng
lực lượng vật chất , công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm
biến đổi chúng. Trên cơ sở đó , con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan phục vụ cho mình.
VD: con người chế tạo thành công máy bay không người lái, từ điện thoại đơn
giản đến smartphone và ngày càng nhiều tính năng được nâng cấp, tạo ra điện từ nguồn nước -
Tính mục đích: thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội phục vụ con người. Khác với hoạt động có tính bản năng , tự
phát của động vật nhằm thích nghi thụ động với thế giới , con người bằng và
thông qua hoạt động thực tiễn , chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn
nhu cầu của mình , thích nghi một cách chủ động , tích cực với thế giới. Như
vậy , nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người ,
khác với hoạt động bản năng thụ động thích nghi của động vật.
=> Như ta có thể thấy: ở đây, loài vật hoạt động theo bản năng. Con vật không
có hoạt động thực tiễn. Chúng chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một
cách thụ động với thế giới bên ngoài. -
Hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của
con người ; nghĩa là , thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội , với sự
tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn , con
người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Cũng vì vậy , hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - lOMoAR cPSD| 39651089
xã hội cụ thể. Đồng thời , thực tiễn có trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.
VD: cùng sản xuất ra lương thực, thực phẩm để nuôi sống con người nhưng
mỗi 1 thời kì thì công cụ sản xuất, phương pháp canh tác... khác nhau. Từ dùng
que nhọn chọc lỗ rồi tra hạt, đkls và nhu cầu biến đổi, con ng phải cải tiến cclđ-
> công cụ bằng đá -> công cụ bằng đồng -> công cụ bằng sắt -> đến ngày hôm
nay, công cụ lđ đều được con người giải phóng bằng máy móc, công nghệ. Cuộc
cách mạng 4 diễn ra trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
=> Nhìn chung, thực tiễn là hoạt động thể hiện tính mục đích , tính tự giác cao
của con người , chủ động tác động làm biến đổi tự nhiên , xã hội , phục vụ con
người , khác với những hoạt động mang tính bản năng thụ động của động vật ,
nhằm thích nghi với hoàn cảnh. Hoạt động thực tiễn là hoạt động cơ bản , phổ
biến của con người và xã hội loài người , là phương thức cơ bản của mối quan
hệ giữa con người với thế giới ; nghĩa là con người quan hệ với thế giới bằng và
thông qua hoạt động thực tiễn. Không có hoạt động thực tiễn thì bản thân con
người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển.
3. Hình thức cơ bản của thực tiễn
- Thực tiễn gồm ba hình thức cơ bản sau: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị- xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
+ Trong đó , hoạt động sản xuất vật chất là hình thức có sớm nhất , cơ bản nhất ,
quan trọng nhất , vì ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất đã phải
tiến hành sản xuất vật chất dù là giản đơn để tồn tại. Sản xuất vật chất biểu thị
mối quan hệ của con người với tự nhiên và là phương thức tổn tại cơ bản của
con người và xã hội loài người. Không có sản xuất vật chất , con người và xã hội
loài người không thể tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự
tồn tại của các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
VD: hoạt động gặt lúa của người nông dân, hoạt động nuôi trồng thuỷ hải sản,
hoạt động của người công nhân trong nhà máy sản xuất
+ Ta có thể thấy, những hoạt động kể trên đều nhằm tạo ra của cải, vật chất đáp
ứng nhu cầu của con người, giúp con người tồn tại và phát triển. Chúng ta cùng
đến với hình thức thứ 2, đó là hoạt động chính trị
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao
của con người nhằm biến đổi , cải tạo xã hội , phát triển các thiết chế xã hội , các
quan hệ xã hội , v .. Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm các hoạt động như đấu
tranh giai cấp ; đấu tranh giải phóng dân tộc ; đấu tranh cho hòa bình , dân chủ ,
tiến bộ xã hội ; đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội , nhằm tạo ra môi
trường xã hội dân chủ , lành mạnh cho con người phát triển. Thiểu hình thức lOMoAR cPSD| 39651089
hoạt động thực tiễn này , con người và xã hội loài người cũng không thể phát triển
+ Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt
động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật
biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này
ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong
thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
4: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
4.1: Thứ nhất: Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp
của nhận thức a/ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức: - Thực tiễn tạo ra nhu
cầu cho nhận thức
+ Xuất phát từ nhu cầu tồn tại và phát triển của mình mà con người phải trả lời
những câu hỏi về thế giới xung quanh,từ đó hình thành khả năng nhận thức.
+ Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX
cũng BẮT NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
- Thực tiễn cung cấp “chất liệu” cho nhận thức
+ Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới khách quan,
làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, tính quy luật, từ đó nhận
thức chúng. Khoa học và lý luận ra đời trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
+ Ví dụ: - Khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi đó
chúng ta sẽ biết rằng kính có thuộc tính dễ vỡ.
- Thực tiễn là nơi rèn luyện và “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra những công cụ ngày
càng tinh vi giúp nối dài khí quan vật chất của con người, từ đó con người phát
hiện ra những thuộc tính, đặc điểm mới của thế giới khách quan mà bằng các
giác quan thông thường không thể nhận biết được.
+ Ví dụ: Sự tiến hóa từ vượn thành người, nhờ sự tiến hóa mà các giác quan của
con người ngày càng hoàn thiện b/ Thực tiễn là động lực của nhận thức:
- Ăngghen đã từng khẳng định: “Khi xã hội có những yêu cầu về kỹ thuật thì xã
hội sẽ thúc đẩy kỹ thuật hơn 10 trường đại học”
- Thực tiễn không ngừng biến đổi, luôn đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới cần
giải quyết. Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức không ngừng vận động,
phát triển để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra. lOMoAR cPSD| 39651089
- Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản
ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng
năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp
dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn
thiện, từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
- Ăngghen đã khẳng định: chính việc ng ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ yếu
nhất,trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song
song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên)
- Ví dụ: từ những yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi xã hội phải phát triển mà nhà
nước Việt Nam đã đi lên từ thời bao cấp lên đến thời kì xã hội chủ nghĩa và
không ngừng đổi mới hơn nữa.
c/ Thực tiễn là mục đích của nhận thức -
Nhận thức không chỉ dừng lại ở nhận thức mà nhận thức có mục đích cuối
cùng là quay trở về phục vụ thực tiễn, định hướng và chỉ đạo thực tiễn. -
Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải tạo thực tiễn
+ Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường dẫn dắt chỉ
đạo thực tiễn chứ không phải để trang trí hay phục vụ cho những ý tưởng viển vông.
+ Nếu không vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất đi phương hướng, bế tắc. Mọi tri
thức khoa học- kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi được áp dụng vào đời
sống tực tiễn một cách trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con người
+ Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu
nâng cao năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn
thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà
lý luận cần giải quyết.
+ Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện
được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực
tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ
thực tiễn phát triển và ngược lại -
Ví dụ: - Để chống lại Covid 19, nhiều nước đã cố gắng sản xuất ra
vaccine chống thứ bệnh này. => Xuất phát từ thực tiễn bệnh dịch đang có chiều
hướng nghiêm trọng, nguy hiểm cho sự sống của con người nên các nhà nghiên
cứu đã chế tạo ra các loại vaccine để cứu con người khỏi tay loại dịch này. lOMoAR cPSD| 39651089
=> Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Leenin. Lý luận mà ko có thực tiễn là cơ
sở và tiêu chuẩn để xã định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại thực tiễn mà không có lý luận khoa học soi sáng sẽ biến thành thực tiễn mù quáng. -
Ứng dụng thực tiễn: Trong sự nghiệp Đổi Mới hiện nay, ta phải không
ngừng đổi mới tư duy gắn liền với nắm sâu, bám sát thực tiễn. Chỉ có đổi mới tư
duy lý luận, gắn liền với việc đi sâu, đi sát vào thực tiễn thì mới đề ra đường
đường lối, chủ trương đúng đắn trong việc xây dựng một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh.
4.2: Thứ hai: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý -
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề
tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không
hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý. -
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic
nhưng tiêu chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến
cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. -
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện
chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để
kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một
chỗ mà luôn biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện
bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. -
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người
thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực
tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường
xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Câu 1: Những vấn đề cơ
bản của triết học: a) Những vấn đề cơ bản của triết học là gì: -
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học phản ánh thế giới
một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất những quy luật chung
nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dướng dạng lý
luận. Cũng như những khoa học khác thì triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có
liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kì quan trọng là nền tảng và là điểm lOMoAR cPSD| 39651089
xuất phát giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. -
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, giữa vật chất và ý thức, nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết
định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng
minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học
b) Nội dung về vấn đề cơ bản của triết học :
- Ph.Ăngghen : “ Vấn đề cơ bản của mọi triết học , đặc biệt là của triết học hiện
đại là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại “ ( vật chất và ý thức) . Sở dĩ khẳng
định được như vậy là vì :
+ Thứ nhất, đây chính là vấn đề liên quan trực tiếp tới vấn đề quan hệ giữa linh
hồn của con người với thể xác mà ngay từ thời cổ xưa con người đã đặt ra.
Chính từ việc giải thích những giấc mơ, người xưa đi tới quan niệm về sự tách
rời giữa linh hồn và thể xác, về sự bất tử của linh hồn. Từ đó nảy sinh vấn đề
quan hệ giữa linh hồn con người với thế giới bên ngoài. Khi triết học ra đời với
tư cách lý luận về thế giới và về quan hệ giữa con người với thế giới thì nó
không thể không giải quyết vấn đề này.
+ Thứ hai, suy cho cùng, tất cả các hiện tượng xảy ra trong thế giới đều có thể
quy về một trong hai mảng hiện tượng lớn nhất trong thế giới - hoặc nó thuộc
mảng hiện tượng vật chất, hoặc nó thuộc mảng hiện tượng tinh thần. Triết học
với tư cách lý luận chung nhất về thế giới không thể không đề cập, giải quyết
quan hệ giữa chúng. Điều đó được biểu hiện ở chỗ, tất cả các học thuyết triết
học, dù chúng có sự khác nhau như thế nào thì cũng phải trả lời các câu hỏi như:
Tư duy con người có quan hệ thế nào với sự vật bên ngoài? Thế giới được tạo ra
trong đầu óc con người có quan hệ thế nào với thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc
con người? Tư duy con người có khả năng hiểu biết được tồn tại bên ngoài hay không?
+ Thứ 3 nó là vấn đề cơ bản vì giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết
những vấn đề khác của triết học , điều đó được chứng minh trong lịch sử phát
triển lâu dài và phức tạp của triết họ. Mặt khác nó cũng là tiêu chuẩn để xác lập
thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ . - Vấn đề cơ bản của triết
học có 2 mặt , trả lời 2 câu hỏi lớn
+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? ( gồm chủ nghĩa duy vật , chủ nghĩa duy tâm và thuyết nhị nguyên )
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
( gồm thuyết khả tri và thuyết bất khả tri ) lOMoAR cPSD| 39651089
b.1/ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
- Chủ nghĩa duy vật : vật chất ( giới tự nhiên ) là cái có trước, ý thức là cái có
sau và vật chất quyết định ý thức
+ Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức:
/ Chủ nghĩa duy vật chất phác: lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một
hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản
nguyên của thế giới. Với chủ nghĩa duy vật chất phác, không thể không nhắc tới
Heraclitus, ông tổ của phép biện chứng. Trong khi Ta lét cho rằng bản nguyên
của thế giới là nước thì Heraclitus lại cho rằng lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy
mọi vật với câu nói ấn tượng: “Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa biến thành mọi
cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”
/ Chủ nghĩa duy vật siêu hình: thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ
mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Trong chủ nghĩa
này, chúng ta có Heraclitus nổi tiếng. Heraclitus cho rằng, vũ trụ không do ai
sáng tạo ra, luôn luôn là lửa, sống động, vĩnh cửu, bùng cháy theo những quy
luật của mình: “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái. Không do một thần
thánh hay một người nào đó sáng tạo ra nó, nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là
ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy, và mức độ của
những cái đang lụi tàn”.
/ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: đặc trưng là coi một sự vật hay một hiện tượng
trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.
Ví dụ : Niu tơn- nhà vật lý học có thế giới quan duy vật nhưng có những điểm
duy tâm và siêu hình, có ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây, nhất là đối
với chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ 18 (khuynh hướng máy móc) đã từng nêu lên
suy nghĩ của mình rằng: “Thật khó gạt bỏ hoàn toàn Thượng đế. Ông ta sẽ
khiêm nhường lộn lại, trá hình dưới một cái tên nào đó, một cái tên mà chúng ta
chọn ra. Ông ta khiến ta yêu quý mà ta không ngờ đến”
/ Thuyết Nhị nguyên luận: trong một trường hợp và thời điểm nào đó giải quyết
sự việc theo duy vật nhưng trong trường hợp và thời điểm khác lại giải quyết theo duy tâm.
Với hình thức vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan
hệ sản sinh , khi không dựa trên tiền đề phát triển cái này để tạo ra cái kia, cũng
không nằm trong quan hệ quyết định nhau . Tức là không có mối liên hệ với tinh
thần vận động phát triển qua thời gian dù vật chất có vận động như thế nào thì
cũng thể khẳng định với kéo theo của ý thức và ngược lại.
Thế kỷ 18-đầu thế kỷ 19, Immanuel Kant, nhà triết học cổ điển người Đức, đã
trình bày những quan điểm biện chứng của mình về tự nhiên. Một mặt ông thừa
nhận sự tồn tại của thế giới các "vật tự nó" ở bên ngoài con người. Thế giới có lOMoAR cPSD| 39651089
thể tác động tới các giác quan của chúng ta, ở quan điểm này Kant là nhà duy
vật. Nhưng mặt khác ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy
được lại không liên quan gì đến các gọi là "thế giới vật tự nó". Có nghĩa là ông
thừa nhận nhận thức của con người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài mà không
thâm nhập vào bản chất đích thực của sự vật, không phán xét được gì về sự vật
như chúng tự tồn tại. Nhận thức của Kant có tính chất duy tâm, ông cũng nói,
trong nhận thức cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin. Cuối cùng
triết học của Kant đã đi đến thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết.
- Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức tinh thần là cái có trước vật chất là cái có sau và ý
thức quyết định vật chất.
+ Chủ nghĩa duy tâm bao gồm 2 hình thức :
/ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận hoàn
toàn cái khách quan bên ngoài và chỉ ra rằng mọi quyết định là từ chủ thể mà ra
Với chủ nghĩa duy tâm chủ quan, chúng ta có quan niệm của Béccơly: Quan
niệm của ông về tồn tại cũng như thay đổi với việc thừa nhận Thượng đế là tồn
tại tối cao, đứng trên toàn bộ hiện thực, ông coi toàn bộ các tác phẩm của mình
là vô ích, nếu như chúng “không khêu gợi cho các độc giả, thực tâm tin vào sự
hiện diện và kính nể chúa và sự hoàn thiện tối cao của bản chất con người là ở
việc nhận thức và thực hiện các giáo lý trong Phúc âm”. Ngoài ra, ông còn đưa
ra một mệnh đề triết học nổi tiếng “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức
hợp của các cảm giác”. Thí dụ, cái bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình
mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc, hương vị của hoa quả
cũng chỉ do cảm giác của con người nhận biết. Chúng không tồn tại thật. Nói
tóm lại, theo Béccơly, mọi vật thể chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm
biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa là được cảm biết.
/ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: trái ngược với chủ nghĩa duy tâm chủ quan
trường phái triết học này cho rằng: ý thức, tinh thần nói chung như ‘ý niệm, ‘ý
niệm tuyệt đối ‘ , ‘tinh thần thế giới ‘là cái tồn tại khách quan bên ngoài con
người. Với những con người chạy theo cái đẹp hoàn mĩ thì quan niệm của Platon
có lẽ sẽ phù hợp: Quan niệm về mỹ học của Platon cũng dựa trên học thuyết về
ý niệm. Platon cho rằng cái đẹp chân thực là cái đẹp của ý niệm, nó đối lập tuyệt
đối với cái đẹp của sự vật cảm tính. Cái đẹp của ý niệm là cái đẹp tuyệt vời, vĩnh
viễn, tồn tại ngoài không gian và phi thời gian, nó là bất biến. Cái đẹp của sự vật
không tuyệt vời, khả biến và tương đối.
b.2/ Khả tri luận , bất khả tri luận và hoài nghi luận
• Thuyết khả tri ( Thuyết có thể biết) -
Tuyệt đại đa số các nhà triết học cả duy vật và duy tâm trả lời một cách
khẳng định: Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Tuy
nhiên, có cách trả lời khác nhau: lOMoAR cPSD| 39651089
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng con người có khả năng nhậnthức được thế giới
và phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng. (note người tt : xuất phát từ
chỗ cho rằng vật chất là cáicó trước ý thức là cái có sau , vật chất sinh ra và
quyết định ý thức , hay nói cách khác ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới
kháchquan trong bộ óc con người )
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng con người có khả năng nhậnthức được thế giới
nhưng nhận thức chỉ là sự hồi tưởng hay quátrình chủ thể tự sản sinh ra tri thức. -
Thuyết khả tri khẳng định về nguyên tắc con người hiểu được bản chất
của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểutượng, quan niệm và nói chung ý thức
mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật .
• Thuyết bất khả tri ( Thuyết không thể biết): -
Theo thuyết này, về nguyên tắc, con người không thể hiểu được bản chất
của đối tượng. Kết quả nhận thứcmà loài người có được chỉ là hình thức bề
ngoài, hạnhẹp và cắt xén về đối tượng. Các hình ảnh, tính chất, đặcđiểm… của
đối tượng mà các giác quan của con người thunhận được trong quá trình nhận
thức, cho dù có tính xácthực, cũng không cho phép đồng nhất chúng với đối
tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy. -
Bất khả tri không tuyệt đối phủ nhận những thực tạisiêu hình hay thực tại
được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định là ý thức con người không
thểđạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó vốn có, vìmọi thực tại tuyệt đối
đều nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới. Thuyết bất khả thi cũng
không đặt vấn đềvề niềm tin, mà chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức.
• Trào lưu thuyết “Hoài nghi luận”:
- Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đờicủa trào lưu “hoài nghi
luận” từ triết học Hy Lạpcođại. Những người theo trào lưu này nâng sự
hoàinghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thứcđã đạt được và cho
rằng con người không thể đạt đếnchân lý khách quan. Tuy cực đoan về mặt
nhận thứcnhưng hoài nghi luận thời kỳ phục hưng đã giữ vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tưtưởng và quyền uy của giáo hội thời trung
cổ vì Hoàinghị luận thừa nhận sự hoài nghi đối với cả kinh thánhvà các tín điều tôn giáo.
- Có những đóng góp nhất định trong việc phát triển của triết học, đặc biệt trong
thời kì phục hưng, đóng góp vào cuộc đấu chanh chống tôn giáo
Câu 9: Trình bày nguyên lý về mối quan hệ phổ biến 1:
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:
-Mối liên hệ phổ biến: dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ, chỉ những
mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới hay nói cách khác mối
liên hệ phổ biến được dùng với hai nghĩa cở bản đó là: dùng để chỉ tính phổ biến lOMoAR cPSD| 39651089
của các mối liên hệ; dùng để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất. - Ví dụ:
+ Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ biến: Khi làm kiểm tra Toán, Lý, Hóa,
chúng ta phải vận dụng kiến thức Văn học để phân tích đề bài, đánh giá đề thi.
Đồng thời, khi học các môn xã hội, chúng ta phải vận dụng tư duy, lôgic của các môn tự nhiên
+ Mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung; nguyên nhân và kết quả; nội dung và
hình thức, lượng và chất, các mặt đối lập...
=> Sự vật nào chẳng có mối liên hệ đó, những mối liên hệ đặc thù dù đa dạng,
phong phú đến đâu thì cũng chỉ nằm trong những mối liên hệ phổ biến đó.
2: Tính chất của mối liên hệ phổ biến -
Tính khách quan: Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan
của các mối liên hệ, tác động trong thế giới. Giữa các sự vật, hiện tượng vật
chất với nhau, giữa các sự vật hiện tượng với các hiện tượng tinh thần và giữa
các hiện tượng tinh thần với nhau. Chúng tác động qua lại, chuyển hoá và phụ
thuộc lẫn nhau. Đây là cái vốn có của bản thân sự vật, tồn tại độc lập và không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan hay nhận thức của con người. Sở dĩ mối liên hệ
có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng vật chất
(bao gồm sự vật, hiện tượng) dù có vô vàn, vô kể, nhưng thống nhất với nhau ở
tính vật chất. Có điểm chung ở tính vật chất tức là chúng có mối liên hệ với
nhau về mặt bản chất một cách khách quan. Con người chỉ có thể nhận thức và
vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình
+ Ví dụ: Mối liên hệ giữa con vật cụ thể (một cái riêng) với quá trình đồng
hóadị hóa; biến dị - di truyền; quy luật sinh học: sinh – trưởng thành – già – chết
-> (cái chung) -> cái vốn có của con vật đó, tách rời khỏi mối liên hệ đó không
còn là con vật, con vật đó sẽ chết... Mối liên hệ đó mang tính khách quan, con
người không thể sáng tạo ra được mối liên hệ đó, mà có thể nhận thức, tác động. -
Tính phổ biến: của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ: Dù ở bất kỳ đâu, trong
tự nhiên, xã hội và tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ
những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự vật,
hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau không những
diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa
các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng
+ Ví dụ: Không gian và thời gian; sự vật, hiện tượng; tự nhiên, xã hội, tư duy
đều có mối liên hệ, chẳng hạn quá khứ, hiện tại, tương lai liên hệ chặt chẽ với nhau -
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau thì
mối liên hệ khác nhau; một sự vật hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác nhau lOMoAR cPSD| 39651089
(bên trong – bên ngoài, chủ yếu – thứ yếu, cơ bản – không cơ bản...), chúng giữ
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó;
một mối liên hệ trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò
cũng khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vai trò của các mối
liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác
định. Tùy thuộc vào tính chất và vai trò của từng mối liên hệ, ta có thể phân loại
các mối liên hệ như sau:
+ Mối liên hệ về mặt không gian và mối liên hệ về mặt thời gian giữa sự vật, hiện tượng.
+ Mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới.
+ Mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật, hiện tượng cụ thể.
+ Mối liên hệ phổ biến trực tiếp và mối liên hệ phổ biến gián tiếp
+ Mối liên hệ phổ biến chủ yếu và mối liên hệ phổ biến thứ yếu.
+ Mối liên hệ phổ biến tất nhiên và mối liên hệ phổ biến ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ phổ biến bên trong và mối liên hệ phổ biến bên ngoài.
+ Mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận
Việc phân loại này cũng chỉ mang tính tương đối bởi vì các mối liên hệ của các
đối tượng rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi các mối liên hệ khác. Các mối
liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển cụ thể của chúng
+ Ví dụ: Mối liên hệ con người, con cá... với nước khác nhau, cùng con người
nhưng mỗi giai đoạn phát triển khác nhau nhu cầu về nước cũng khác, con
người sống ở nơi lạnh, nơi nóng nhu cầu về nước khác nhau; cây xanh có cây
cần nhiều nước, ánh sáng, cây cần ít nước, ánh sáng...-> Mối liên hệ rất đa dạng, phong phú.
3: Ý nghĩa phương pháp luận -
Quan điểm toàn diện: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải xem xét
các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở
đó mới có thể nhận thức đúng, chính xác về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu
quả các vấn đề của cuộc sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập
với quan điểm phiến diện, siêu hình, chiết trung, ngụy biện trong nhận thứcvà
thực tiễn. V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn
bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Quan điểm lịch sử - cụ thể: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời gian đó. Do vậy,
ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết
mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ đó đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật
và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàncảnh lịch sử - cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Trong lịch sử triết
học, khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn
cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó. Phải xét đến những tính chất đặc
thù, xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của đối tượng đó trong mối liên hệ cụ
thể, trong những tình huống cụ thể. Từ đó, chúng ta mới có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Đồng thời,
chống lại cách đánh giá sự vật, hiện tượng một cách dàn trải, lệch lạc, coi mọi
mối liên hệ là như nhau. Phải thấy được một luận điểm khoa học nào đó có thể
đúng trong điều kiện này nhưng sẽ không còn đúng trong điều kiện khác; một
nguyên tắc nào đó chỉ vận dụng phù hợp ở nơi này, lúc này nhưng sẽ không phù
hợp khi vận dụng vào nơi khác, lúc khác.
Câu 19: Bản chất của con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
1: Bản chất con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học. Với
triết học Mác – Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một cách
đúng đắn trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo Các, con người là một sinh
vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ
thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa. 1.1.
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội -
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học
với các giá trị mang đến nhận thức, đánh giá và phản ánh ở các giai đoạn, các thời kỳ trước. -
Đồng thời chỉ ra các điểm tiến bộ trong nghiên cứu, khẳng định con người
hiệnthực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội được sinh ra với
sự độc lập mang tính cá thể, với các quan hệ huyết thống và các đặc điểm kèm
theo. Bên cạnh yếu tố xã hội ràng buộc, tạo thành các mối quan hệ khác nhau,
xác định trong xây dựng quan hệ trong lao động sản xuất, trong hợp tác làm ăn,
trong sinh hoạt hàng ngày, điều đó mang đến đặc trưng thể hiện. -
Sự thống nhất của yếu tố sinh học và xã hội mới làm nên con người.
Trong quátrình phát triển, nhận thức, tác động ngược trở lại thế giới. Để tìm
kiếm, khai thác các lợi ích trong nhu cầu ngày càng cao. Gắn với ứng dụng các
sự vật trong tự nhiên để tạo ra các giá trị mới cao hơn, chất lượng và phục vụ
đảm bảo các nhu cầu hơn.
+ Yếu tố sinh học: Là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Nghiên cứu với các cách thức tạo ra con người. Với sự tác động mang đến và lOMoAR cPSD| 39651089
củng cố các nhận thức qua thời gian. Các kinh nghiệm, kiến thức phải được tổng
hợp để con người tạo ra giá trị của bản thân. Bản chất sinh học của con người
được thể hiện thông qua:
/ Các đặc điểm sinh học.
/ Quá trình tâm – sinh lý.
/ Và các giai đoạn phát triển khác nhau. + Yếu tố xã hội:
/Gắn với các xuất phát từ vấn đề lao động sản xuất. Mang đến đời sống vật
chất, nguồn thức ăn hay đồ vật sử dụng. Cũng như tham gia trong trao đổi để
hình thành tiền là phương tiện mang giá trị trung gian. Lao động cũng mang đến
hiệu quả của sản xuất, buôn bán. Từ đó mới giúp con người giàu có, đảm bảo
đời sống vật chất và tinh thần.
/ C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt
với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”.
=> Qua đó mà thấy được các ý nghĩa tìm thấy được. Đó là các giá trị, mang đến
các tác động làm thay đổi thể giới theo chiều hướng tích cực. Trong nhu cầu tiếp
cận hiệu quả hơn của con người: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn
con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
=> Như vậy, việc tác động vào thế giới thông qua nhận thức, hành động có chủ
đích được thực hiện bởi con người. Trong nhu cầu làm thay đổi, mang đến các
giá trị từ tự nhiên để phục vụ cho con người.
1.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội -
Bản chất con người được quy định bởi tất cả các mối quan hệ xã hội, tức
là bị quy định giữa mối quan hệ giữa người với người. -
Bản chất con người phải đặt tổng quan hệ cộng đồng với cá nhân. Con
người hòa nhập vào cộng đồng củng cố thêm sự phong phú và thể hiện bản sắc cá nhân. -
Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại. Luận
đề khẳng định bản chất con người của Mác không phủ nhận mặt tự nhiên của
con người mà muốn nhấn mạnh sự khác biệt của con người và loài vật. lOMoAR cPSD| 39651089
1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử -
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. -
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. -
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của
chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một
hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
2: Ý nghĩa phương pháp luận -
Giải thích một cách khoa học các vấn đề của con người từ cả hai phương
diện tự nhiên và xã hội, trong đó phương diện xã hội có vai trò quyết định tới
bản chất của con người. -
Động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng
lực sáng tạo lịch sử của con người, vì con người chính là phát huy nguồn động
lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội. -
Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội.
Phương pháp luận trong triết học Mác – Lênin giữ vai trò định hướng cho con
người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đồng thời phát triển thế giới quan
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. lOMoAR cPSD| 39651089