Tiểu luận Triết học: "Lý luận Mác - xít về con người"
Tiểu luận Triết học: "Lý luận Mác - xít về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay" giúp sinh viên tham khảo và đạt điểm cao bài tiểu luận cuối kì.
Môn: Triết học Mác - Lênin (TRI114)
Trường: Đại học Ngoại Thương
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 35883770 lOMoAR cPSD| 35883770
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ***
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MARX – LENIN
Đề tài: Lý luận Mác–xít về con người và vấn đề con người
trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Việt Nam hiện nay STT: 82
Họ và tên: Lương Thị Diễm Quỳnh MSSV: 1911110330
Lớp tín chỉ: TRI114(GD1+2-HK1-2122)K60.7
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm
Hà Nội, tháng 12 năm 2021 lOMoAR cPSD| 35883770 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN MÁC-XÍT VỀ CON NGƯỜI .............................................. 4
1.1. Những quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người .................... 4
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông .................................. 4
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây ..................................... 4
1.2. Quan niệm của triết học Mác về bản chất của con người.................................. 6
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và xã hội ................ 6
1.2.2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội .................................. 7
1.2.3. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội ............. 8
1.3. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống – xã hội ................... 10
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................................... 12
2.1. Tính tất yếu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ............................. 12
2.2. Vấn đề con người trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta
.................................................................................................................................. 12
2.3. Vấn đề phát triển con người Việt Nam hiện đại: Phát triển nguồn lực con
người .......................................................................................................................... 14
2.3.1. Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay ............................................................ 14
2.3.2. Giải pháp nâng cao, phát triển nguồn nhực con người ................................ 14
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 17 1 lOMoAR cPSD| 35883770 ỜI MỞ ĐẦU
Triết học về con người luôn là đề tài lớn, mang tính trung tâm không chỉ ở cổ đại
mà đến hiện đại, ngày nay cũng vậy. Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con
người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa
riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Nó luôn được các nhà triết gia
không ngừng quan tâm và nghiên cứu phát triển. Và trong các hệ tư tưởng triết học đã
được đưa ra, vấn đề con người trong triết học Mác–Lênin được nghiên cứu và trình bày
một cách bao quát, đặc sắc và có tính khoa học nhất. Chủ nghĩa triết học Mác–Lênin
đã cho chúng ta thấy rằng: “Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản suất vật
chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người
còn là chủ thể quan trọng của lịch sử, của sự tiến bộ của xã hội.”. Thực tế càng chứng
minh rõ ràng hơn tầm quan trọng của con người trong xã hội cũng như trong triết học.
Bởi lẽ, vấn đề con người ngày nay còn quan trọng hơn nữa, khi xã hội ngày càng phát
triển trong quá trình hội nhập, nền văn minh ngày càng tiến bộ và cao cấp như hiện nay.
Phát triển con người hiện nay đã và đang trở thành mục tiêu chung của toàn nhân
loại. Làn sóng văn minh thứ ba đang đưa loài người đến một kỷ nguyên mới với những
khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó, việc
tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng
dễ làm chúng ta đi đến việc phủ nhận vai trò, khả năng của chủ nghĩa Mác–Lênin, đưa
chúng ta đến với sự sáng tạo những tư tưởng tôn giáo mới phù hợp với con người Việt
Nam hơn. Mặc dù vậy, khi nhìn nhận lại một cách khách quan và khoa học thì sự tồn
tại của chủ nghĩa Mác–Lênin trong xã hội ta chắc chắn rằng không ai có thể phủ nhận được.
Thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác–Lênin, Đảng và Nhà nước ta trong cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa Đảng ta cũng đã nhận
ra và khẳng định: “Con người là trung tâm chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể
phát triển.”. Không những thế, trong Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung
ương khóa VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người 2 lOMoAR cPSD| 35883770
Việt Nam toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng
thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Và trong đó, “con người phát triển cao và trí tuệ
cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần trong sáng về đạo đức”. Đặc biệt là
trong giai đoạn đất nước ta đang bước vào thời kỳ thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại
hóa, vấn đề con người càng là yếu tố quan trọng để quyết định sự thành công. Vậy nên,
trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã khẳng
định: “Nâng cao dân trí bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa.”.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, con người luôn là trung tâm, là yếu tố quan trọng
đưa đất nước phát triển, không có nhân tố con người thì đất nước không thể đi lên. Và
để đóng góp một phần vào sự phát triển của đất nước, tôi, với tư cách là một sinh viên,
một thế hệ của đất nước xin phép được chọn đề tài: “Lý luận Mác – xít về con người
và vấn đề con người trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước Việt Nam hiện nay.” làm
đề tài nghiên cứu của bản thân.
Tuy đã dành thời gian nghiên cứu nghiêm túc và tỉ mỉ, song với kiến thức và thời
gian có hạn, bài tiểu luận sẽ có những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự
đóng góp và nhận xét của cô.
Em xin chân thành cảm ơn! 3 lOMoAR cPSD| 35883770
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN MÁC-XÍT VỀ CON NGƯỜI
hững quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
Quan niệm về con người trong triết học phương Đông:
Vấn đề triết học về con người vẫn luôn là một nội dung lớn trong lịch sử triết học
nhân loại. Trong suốt quá trình lịch sử, con người luôn đặt ra những vấn đề như: Con
người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới?
Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do? Và đây cũng chính là nội
dung cơ bản của nhân sinh quan – một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
Trong nền triết học Trung Hoa từ cổ đến trung đại, vấn đề bản tính con người là
cũng vấn đề được quan tâm hàng đầu. Để giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của
Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của
xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất
Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính
người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính tự nhiên của con người. Sự khác nhau
về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề
xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc
giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Còn đối với các nhà tư tư tưởng của các trường phái triết học ấn độ mà tiêu biểu
là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời
người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết lụân
về bản tính vô ngã, vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy
tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Quan niệm về con người trong triết học phương Tây:
Cũng như phương Đông, trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ
đại Hy Lạp trải qua giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề
triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt.
Thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con
người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương
Đông. Các nhà triết học phương Tây đi theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn 4 lOMoAR cPSD| 35883770
giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên
quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã coi con người cũng như vạn vật
trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là
quan niệm của Đêmôcrit về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn
của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo
đường lối Êpiquya... Những quan niệm duy vật này đã được tiếp tục phát triển trong
nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và
Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phoiơbắc. Và trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những
tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
Khác với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết
học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu là
quan điểm của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời Cận
đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Các nhà triết học này đã lý giải bản
chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất bất tử
của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối; với Đêcáctơ, đó là bản tính phi kinh
nghiệm (apriori) của lý tính; còn đối với Hêghen, thì đó chính là bản chất lý tính tuyệt đối...
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mác còn có một hạn chế
cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con
người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản
chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng
như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Các quan điểm ấy, dù
là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền
không phản ánh đúng bản chất con người, nó đều xem xét con người một cách trừu
tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con
người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống
con người. Nhưng những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm
duy vật biện chứng của triết học Mác–Lênin về con người. 5 lOMoAR cPSD| 35883770
uan niệm của triết học Mác về bản chất của con người:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và xã hội:
Triết học Mác đã kế thừa và khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất về
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Xét về mặt sinh vật học của con người, con người bao gồm cơ thể cùng những
nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống cơ thể con người. Yếu tố
sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người, và
tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Vậy nên, có
thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của
tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, để khẳng định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật chính
là yếu tố xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người
với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có
tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Nhưng những quan điểm này có một
điểm chung chính là chúng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội
của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Nhưng bằng vào phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn
đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác đã khẳng định: "Có thể phân
biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì
cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ
chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như
thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Từ các hoạt
động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ
đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã 6 lOMoAR cPSD| 35883770
hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người,
đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy được quan hệ giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã
hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất
với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người trong các mặt tự nhiên – xã hội.
Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội:
Con người chính là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập
với tự nhiên sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành bản chất của
con người. Ở đó, mối quan hệ xã hội giữa con người với con người là quan hệ bản
chất, bao trùm lên các mối quan hệ khác, cũng như mọi hoạt động có liên quan của con
người. Để nhấn mạnh điều đó, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận
cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".
Vậy nên, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ
thể nhất định, một thời đại nhất định. Ở đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư
duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội (như quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Tuy nhiên, luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, nhưng nó không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Ở con người, mặt tự nhiên tồn tại
trong sự thống nhất với mặt xã hội và vẫn luôn như vậy. Có quan niệm bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn,
tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người. 7 lOMoAR cPSD| 35883770
Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội:
. Con người là chủ thể của lịch sử:
Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không có sự tồn tại của con
người, bởi vậy, con người chính là sản phẩm của lịch sử, của sự biến hóa lâu dài của
giới tự nhiên. Song, cái quan trọng hơn cả là: Con người là chủ thể của lịch sử – xã hội.
C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được
giáo dục". Vì vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên,
nhưng con người lại thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm
thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Và trong khi không ngừng cải biến tự nhiên, con người đã làm ra lịch sử của
mình. Con người lúc này không chỉ là sản phẩm của lịch sử, mà còn là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử của chính bản thân con người. Dựa vào lao động sản xuất, con người vừa tạo
điều kiện cho sự tồn tại, vừa biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Họ thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do chính họ đặt ra. Có thể
nói, không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do
đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Thông qua đó, bản chất con người cũng
vận động biến đổi cho phù hợp với lịch sử. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến
lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con
người (mặc dù không trùng khớp). 8 lOMoAR cPSD| 35883770
Vậy nên, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Từ đó, con người có thể tiếp nhận
hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm
chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động
vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ
giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội:
Sự văn minh, tiến bộ là xu hướng chung hiện nay của toàn xã hội. Tuy nhiên, cho
đến nay, sự phát triển của nền văn minh lại ẩn chứa những yếu tố đi ngược lại lợi ích
chung của loài người (như công nghiệp hóa học tạo ra năng suất nhưng lại gây ô nhiễm
môi trường; công nghệ máy móc hiện đại nhưng lại tạo nên vấn đề thất nghiệp gia
tăng; hội nhập tạo ra cơ hội phát triển con người, phát triển quốc gia nhưng lại làm mờ
nhạt dần bản sắc dân tộc;...). Do đó, vấn đề con người là mục tiêu của sự phát triển xã
hội ngày càng trở nên quan trọng.
Thế kỷ XXI hiện nay là lúc có nhiều sự biến đổi to lớn, cả khoa học và công nghệ
cũng đều sẽ có những thay đổi ngày càng lớn. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cho mỗi con
người, mỗi quốc gia phải làm chủ được các thành tựu của văn minh của mình, phải loại
trừ đi các yếu tố ngăn cản sự tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời thúc đẩy làm
biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Thế giới hiện nay vẫn còn
đang phải đối mặt với những yếu tố đe dọa sự tự do và hạnh phúc của con người (như
dịch bệnh, thất học, thất nghiệp, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, khủng bố, chiến
tranh,...). Mỗi con người, cá nhân, quốc gia, các cộng đồng quốc tế hiện nay càng cần
phải hướng đến sự bảo vệ con người, đặt con người là mục tiêu cho sự phát triển của xã hội.
Vậy nên, để phát triển, theo quy luật tiến hóa của lịch sử tương lai sẽ thuộc về
một xã hội tốt đẹp hơn, một xã hội không có tình trạng áp bức bóc lột một xã hội thống 9 lOMoAR cPSD| 35883770
nhất và văn minh với nhân đạo một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do
hạnh phúc và xã hội đó chỉ có thể là XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, cũng như chủ nghĩa Mác– Lênin.
i trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống – xã hội:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác là chính sách phát triển con con người và xã hội. Trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và nhân dân ta đã và đang xây
dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt và lĩnh vực khác nhau. Trong đó,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược phát triển con người.
Có phát triển con người chất lượng thì xã hội mới có thể tiến xa hơn. Và để phát triển
thì chúng ta cần một chính sách đúng đắn, Đảng và nhân dân ta lấy tư tưởng và chủ
nghĩa Mác–Lênin nền tảng cho chiến lược phát triển con người đúng hướng: “Cần đào
tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tưởng và chủ nghĩa nghĩa Mác–Lênin làm nền tảng.”.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác là một chủ nghĩa về con người, một chủ nghĩa nhân đạo.
Triết học Mác nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu được bản chất của các
mối quan hệ tự nhiên – xã hội, kinh tế – chính trị, đồng thời còn chỉ ra con đường và
phương pháp nghiên cứu về con người. Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất
của con người và bản tính của con người mà còn vạch hướng nhân đạo, đưa con người
đi đúng bản chất và bản tính của mình giải phóng, xóa bỏ sự tha hóa, tạo điều kiện phát
huy mọi sức mạnh bản chất của một con người, phát triển toàn diện hài hòa cho từng cá nhân.
Không những thế, chủ nghĩa Mác còn là kim chỉ nan cho quá trình quá độ lên
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ở Việt Nam. Thực tế cho thấy chỉ có chủ nghĩa Mác mới có thể
vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở Việt Nam. Cùng
với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi Cách 10 lOMoAR cPSD| 35883770
mạng Giải phóng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) mà các học thuyết khác
trong thời kỳ đó không thể làm được.
Có thể nói chỉ cho một thời gian ngắn hệ tư tưởng Mác–xít đã thể hiện xu hướng
của mình đối với nền văn hóa dân dã, xóa bỏ dần sự thống trị của các loại tư tưởng tự
phát, lạc hậu, thấp kém trong con người cũ, mê tín dị đoan, và các niềm tin mù
quáng,... Với sức mạnh của tính khoa học học thuyết Mác Lênin đã vạch rõ những yếu
tố khi khoa học khi nhân đạo các loại thế giới quan nhân sinh sai lệch mà trước đó đã
làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con người của các hệ tư tưởng truyền thống.
Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu được sự phát triển của con người ngày nay không
chỉ là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác–xít. Bởi lẽ, ngay khi chủ nghĩa Mác–xít trở thành
hệ tư tưởng chính thống ở Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng văn hóa bản địa
đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa mác–lênin thâm nhập như một hệ tư tưởng
khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hóa bản địa, nhưng nó cũng chịu sự chi phối của các
các tác động đan xen của các yếu tố sai – đúng, yếu – mạnh, mới – cũ,..., các yếu tố
tích cực đã thúc đẩy còn các yếu tố tiêu cực lại kìm hãm sự phát triển của con người. 11 lOMoAR cPSD| 35883770
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP
HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
nh tất yếu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới.
Và đây cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “Xã hội
công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh”.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản
xuất, tăng năng suất lao động. Đây chính là thực hiện xã hội hóa nhiều mặt, góp phần
ổn định ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Không những thế, công nghiệp hóa – hiện đại hóa còn phát triển mối quan hệ
kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng
cao trình độ quản lý kinh tế của nhà nước, nâng cao khả năng tích lũy và mở rộng sản xuất.
Hơn nữa, công nghiệp hóa – hiện đại hóa không ngừng nâng cao vai trò của nhân
tố con người trong nền sản xuất, và đặc biệt là trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật
cao. Trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hóa hiện đại hóa, chúng ta mới có khả năng
thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
Vậy nên, công nghiệp hóa – hiện đại hóa chính là chìa khóa quan trọng trong việc
phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội. Mỗi bước tiến của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa.
n đề con người trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta
Mục tiêu của nước ta là: “Xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật
chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo 12 lOMoAR cPSD| 35883770
hướng hiện đại.”. Và để thực hiện mục tiêu đó, trong quan niệm về công nghiệp hóa –
hiện đại hóa ở nước ta có nhắc đến vấn đề: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định “con người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh
phúc của con người, là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Và cũng ứng theo
lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì mười năm trồng cây vì lợi ích trăm năm trồng
người” và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa” đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng
ta, với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương chính sách đường lối
của đảng đều quán triệt việc chăm sóc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người – chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải
vật chất và văn hóa tinh thần trong việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn cách nghĩ cách hành động của con
người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một
cuộc cách mạnh. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và cách
mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Vậy nên đến đây, có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn nhân lực con người Việt Nam hiện đại là yếu tố
cơ bản cho việc phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải
thiện đời sống nhân dân phát triển văn hóa giáo dục thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Và nếu công nghiệp hóa hiện đại hóa là vì sự nghiệp phát triển con người thì con
người phải được coi là giá trị tối cao. 13 lOMoAR cPSD| 35883770
n đề phát triển con người Việt Nam hiện đại: Phát triển nguồn lực con người
Vấn đề công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay đòi hỏi chúng ta cần
biết sử dụng nguồn lục con người một cách đúng đắn. Và muốn sử dụng tốt nguồn lực
này thì chúng ta cần phải hiểu rõ về thực trạng và đưa ra giải pháp nâng cao nó.
Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay:
Thực trạng của nhân lực Việt Nam dồi dào về số lượng nhưng lại thiếu hụt nhân
lực có trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện nay đặt ra nhiều thách thức cho
nền kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chính là một thách thức đối
với sự phát triển của nước ta. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia được cấu thành từ
những yếu tố như hạ tầng, thể chế, môi trường kinh doanh, nhân lực,... Và trong đó,
nhân lực được coi là yếu tố cạnh tranh có tính riêng biệt và quyết định đối với mỗi
quốc gia. Theo báo cáo của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), trong 5 năm qua Việt
Nam không có những cải thiện đáng kể nào về vị trí xếp hạng và năng lực cạnh tranh.
Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là do
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện đang còn thấp. Vì vậy, nguồn lực con người
càng là yếu tố quyết định sự phát triển của con người Việt Nam.
Hơn nữa, nhắc đến chất lượng nguồn nhân lực con người là nhắc đến trí tuệ và độ
lành nghề của các lao động. Vậy nên, Việt Nam đang và sẽ khó vượt qua ngưỡng thu
nhập trung bình nếu tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào vốn nguồn tài nguyên và lao động
giản đơn chưa qua đào tạo. Do đó, việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực được xem là các yếu tố then chốt đưa nước ta thoát khỏi thu nhập trung bình trong những năm tới.
Giải pháp nâng cao, phát triển nguồn nhực con người:
Đứng trước những thực trạng ấy, chúng ta cần đưa ra và thực hiện những giải
pháp hiệu quả để nâng cao cũng như phát triển nguồn lực con người, giải quyết các
khó khăn của thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta.
Trước hết, phát triển nguồn lực con người cần được đi liền với phát triển nền kinh
tế đất nước. Bởi vậy, chúng ta cần phải lấy sự phát triển của nhân lực làm động lực cho 14 lOMoAR cPSD| 35883770
tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược
phát triển nguồn nhân lực. Mấu chốt của vấn đề này là chúng ta phải thiết lập được mối
quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển
kinh tế. Giải quyết được vấn đề này chúng ta mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt
nhân lực có trình độ tay nghề và kỹ năng cần thiết cho sự phát triển kinh tế, biển gánh
nặng dân số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh của nước ta trong trong quá trình hội nhập.
Tiếp theo, việc cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề cũng là một giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Làm được điều này, chúng
ta đã có chìa khóa đi đến sự thành công trong việc phát triển nguồn nhân lực. Thế
nhưng, việc giáo dục đại học và đào tạo nghề hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của
nền kinh tế đã và đang là vấn đề bức thiết của toàn xã hội. Do đó, chúng ta cần phải
gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động, kết hợp với các cơ
chế khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và trở thành một chủ thể quan trọng trong
quá trình đào tạo của Nhà nước.
Hơn nữa, huy động các nguồn lực đầu tư cũng là một giải pháp cho sự phát triển
nhân lực. Ngoài việc chi từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho
sự phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu.
Và cuối cùng là nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn nhân lực. Để
làm được việc này, chúng ta cần xác định đây không chỉ là trách nhiệm của nhà nước
mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội. Cần nhận thức nguồn nhân lực quý giá, là động
lực cho sự phát triển. Phát triển nguồn nhân lực không chỉ giúp chúng ta đạt được
những mục tiêu trước mắt mà còn là tiền đề cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Do
đó, Nhà nước cần có những chính sách tác động đến nhận thức của toàn xã hội về trách
nhiệm trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. 15 lOMoAR cPSD| 35883770 ẾT LUẬN
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ngày nay đã trở thành xu hướng phát triển chung
của tất cả các quốc gia, và đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam ta. Muốn
đất nước phát triển thì con đường tất yếu đó là công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nhưng
đi cùng với đó là các vấn đề đặt ra cần nước ta cần phải vận dụng tốt các nguồn lực sẵn
có cả trong và ngoài nước, trong đó có con người.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác về sự phát triển con người và sự nghiệp giải phóng
con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể nhận ra, sự nghiệp công nghiệp hóa –
hện đại hóa đất nước chính là một cuộc cách mạng – cuộc cách mạng con người. Con
người vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc, đồng thời là trung tâm của mọi biến
đổi lịch sử. Hơn thế, con người không những đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội, mà trong hiện nay, con người còn là chủ thể, là nguồn
lực quan trọng trong suốt cho quá trình đổi mới đất nước (quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước). Bởi vậy, phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải có nguồn
nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở
thành động lực của sự phát triển đất nước, công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải vì mục
tiêu phát triển con người.
Tóm lại, lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và quan điểm chủ nghĩa Mác
Lênin về con người nói riêng chính là kim chỉ nan cho quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa của nước ta, giúp Đảng và Nhà nước ta xác định được hướng đi đúng đắn
để thành công trong công cuộc phát triển đất nước. Vấn đề con người được đặt ra và lý
giải trong triết học Mác là nền tảng, phương hướng cho chủ trương lớn của Đảng, là
đích đến cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 16 lOMoAR cPSD| 35883770 ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác–Lênin, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăng–ghen toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị học, NXB Giáo dục.
4. Tạp chí Cộng sản.
5. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam – lý luận và thực tiễn, Nguyễn Trọng
Chuẩn, NXB Chính trị Quốc gia.
6. Chiến lược huy động vốn và nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH–HĐH đất nước, Trần Kiên.
7. Vấn đề Con người trong sự nghiệp CNH–HĐH, Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị Quốc gia.
8. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 17