Tiểu luận Triết học: "Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất "

Tiểu luận Triết học: "Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay". Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
Họ n: Thị Ngọc Anh
Lớp: TRI114.3
MSV: 1911110017 SBD:
Giảng viên giảng dạy: Th.S Nguyễn Thị Tùng Lâm
Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2020
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua 5 phương thức sản
xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản
chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Xã hội luôn vận động phát triển không
ngừng theo các cấp độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Chủ nghĩa Mác đã đưa
ra những luận thuyết phục cho sự tiến hóa không ngừng này hay chính
là tìm ra động lực cốt lõi thúc đẩy sự phát triển của xã hội - đó là sự
tương thích giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất. Từ khi
con người nhận thức ra vấn đề này, họ tích cực áp dụng lý thuyết vào
thực tiễn nhằm mục đích tiến tới xa hơn trong công cuộc phát triển đất
nước.
1. do chọn đề tài
Từ lâu, quá trình vận dụng quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất để đưa các quốc gia phát triển bền vững về
cả mặt hệ thống chính trị, kinh tế , xã hội luôn là mục tiêu mà các
nhà lãnh đạo theo đuổi. Đối với các nước định hướng phát triển
theo chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, hiểu và áp dụng quy luật này
vào thực tiễn lại càng trở nên cấp thiết hơn. Do đó, tôi chọn đề tài
Sự vận dụng quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới đất nước” để giúp bạn
đọc có cái nhìn rõ hơn về công cuộc phát triển đất nước
2. Mục đích nghiên cứu
Nắm được quy luật tương thích giữa quan hệ sản xuất trình
độ của lực lượng sản xuất để có thể tự tìm hiểu, cái nhìn tổng
quan về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình vận dụng, áp dụng lý thuyết chủ nghĩa duy vật biện
chứng vào thực tiễn để điều chỉnh mối tương quan lực ợng sản
xuất và quan hệ sản xuất
4. Kết cấu tiểu luận
I. sở luận của quy luật mối quan hệ phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất
II. Thực trạng quá trình áp dụng quy luật trước sau năm 1986
III. Phương hướng phát triển đất nước dựa trên quy luật phù hợp
mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
PHẦẦN
NỘI
DUNG
sở luận của mốối quan hệ phù hợp giữa quan hệ sản xuấốt lực lượng
sản xuấốt
Ki niệm kết cấốu của lực ợng sản xuấốt, quan hệ sản xut
Ki nim kếết cấếu ca lc lượng sn xuấết
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức
khỏe, thể chất, kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của
họ) với liệu sản xuất trước hết công cụ lao động để
tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản
xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá
trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo
thành lực lượng sản xuất. Con người: “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao
động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình,
sử dụng liệu lao động, trước hết công cụ lao động để sản
xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản
xuất, sức mạnh kỹ năng lao động của con người ngày càng
được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng
phát triển, hàm lượng trí tuệ của người lao động ngày càng
cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao
động.Trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là
nhân tố phản ánh nhất trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục thế
giới tự nhiên.
Khái nim kếết cấếu ca quan h sn xuấết
Quan hệ sản xuất quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).Quan hệ sản
xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của sản xuất, các mặt của quan hệ sản xuất thống nhất
với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối
so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực ợng sản
xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa
người đối với liệu sản xuất, nói ch khác liệu sản
xuất thuộc về ai.
Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là
quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi
của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá hợp tác
hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt
chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp
hiệu quả liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng,
nâng cao phúc lợi người lao động.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật
thiết, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ
vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức quản lý và
quan hệ phân phối lưu thông cũng tác động trở lại quan hệ
sở hữu.
Mốối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuấốt quan hệ sản xuấốt.
Lc lượng sn xuấết vai t quyếết đnh đốếi vi s nh thành, biếến đi pt trin ca quan h sn
xuấết
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ của công
cụ lao động, ở trình độ kĩ năng, kinh nghiệm của người lao
động, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản xuất…ứng
với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình
độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cụ thể:
Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
đòi hỏi phải một quan hệ sản xuất phù hợp cả ba mặt của
nó.Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi
và phát triển, do yêu cầu phát triển của sản xuất vật chất khi
lực lượng sản xuất không ngừng phát triển lên một trình độ
cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo cho
phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất.Tuy nhiên cần nhận thấy, lực lượng sản xuất là yếu tố
động nhất, cách mạng nhất, nó luôn vận động và biến đổi
trong quá trình lịch sử, hay nói cách khác lực lượng sản xuất
thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất thì
chậm thay đổi hơn. Chính vì vậy, khi sự phát triển của lực
lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định thì sẽ mâu
thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu
cầu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
S tác đng tr li ca quan h sn xuấết đốếi vi lc lượng sn xuấết.
Mặc bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất,
vì vậy quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực ợng sản
xuất:
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất
phân phối do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của
người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá
trình sản xuất cải tiến công cụ lao động, từ đó tác động tới
lực lượng sản xuất.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu hướng:
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuát thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.Sự phù hợp “ được quan niệm là sự phù hợp biện
chứng chứa đựng mâu thuẫn”, tức sự phù hợp trong mâu
thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.Sự kìm hãm của quan hệ sản
xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là
do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc do quan hệ sản xuất
vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
của lực ợng sản xuất quan hệ chung nhất chi phối toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, phá
bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, quá trình này lặp đi lặp lại
làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản
xuất từ thấp tới cao dẫn tới sự thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế xã hội.
nh nh áp dụng quy luật mốối quan hệ sản xuấốt lực lượng sản xuấốt trước
sau năm 1986 vào đổi mới đấốt nước
Trước Đại hội Đảng lấần VI năm 1986
I.1.1. Những sai lầm khi vận dụng quy luật phù hợp quan
hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất
Nước ta là đất nước nông nghiệp nghèo lạc hậu, kể từ
chiến thắng 1975 thống nhất toàn bộ hai miền bắc nam,
nhiệm vụ cấp thiết của Đảng và Nhà nước là khôi phục
kinh tế, đi lên từ chiến tranh. Chủ trương phát triển kinh tế
theo định hướng XHCN với mô hình kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới
nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó, kinh tế tư nhân bị xóa
bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Hàng
hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước
nắm toàn quyền điều hành, ngăn cấm việc mua bán trên thị
trường. Nhà nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn
chế trao đổi bằng tiền mặt.
Bản chất của quan hệ sản xuất đã bị thúc đẩy phát triển
quá nhanh ví dụ như phân phối sản phẩm độc quyền của
nhà nước, tổ chức hình thức kinh tế chỉ do nhà nước đóng
vai trò chủ chốt. Chúng ta đã ra sức vận động gần như
cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển
quy nông trường quốc doanh các nhà máy nghiệp
lớn mà không tính đến trình độ SX đang còn thời kì q
thấp kém, chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ
nhận là đã có“QHSX XHCN ” và coi rằng nó có khả năng
“vượt trước” mở đường cho sự phát triển của LLSX. Thực
tế những năm qua đã chứng minh quan niệm đó sai lầm,
sai lầm ở chỗ một số mặt của QHSX bị thúc đẩy lên quá
cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình
độ thấp kém của LLSX .Đối với Việt Nam chúng ta với
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải
tạo XHCN phát triển công nghiệp quốc doanh, công
nghiệp nặng chỉ coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ
không coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay.
Song chúng ta đã bất chấp thực tế khách quan mà chỉ dựa
vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà
nước chuyên chính vô sản, bằng những đường lối, chính
sách và những hoạt động tích cực có thể tìm cách giải
quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội, có khả
năng cải tạo ra QHSX mới, mở đường cho LLSX phát
triển nhưng trên thực tế chúng ta dã không thể làm được
điều đó .Quan điểm QHSX đi trước là không đúng . Điều
này đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định lại trong
Đại hội V: “Chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số
chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng
bản và phát triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản
lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính
sách chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế,
không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội,
bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở.”
Tiếp đó, nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh
thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng
thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu
nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải
nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý,
quan hệ phân phối nhất hầu như không xem xét quan
hệ sản xuất trong lĩnh vực quan hệ trao đổi quan hệ tiêu
dùng; coi nhẹ động lực lợi ích nhân của người lao động.
Đề cao một cách phiến diện yếu tố người về mặt số lượng,
không chú ý chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố vật của
lực lượng sản xuất.
Việc không quan tâm đến những điều kiện để phát huy ưu
thế của phân công và hợp tác lao động - nên đã nóng vội
mở rộng quy hợp tác khiến cho sức sản xuất của lao
động giảm t, kinh tế trì trệ. Chúng ta đã coi nhẹ quy luật
giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó
tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. QHSX khác nhau ở những ngành sản xuất khác
nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng
bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ
lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cân bằng quan hệ
sản xuất chứ không thể ép buộc đi vào hợp tác xã, ăn
chung làm chung.
Từ đó, thể nói do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan
hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong công cuộc xây
dựng QHSX cũ và xây dựng QHSX mới.
I.1.2. Hệ quả
Nhà nước chú trọng phát triển công nghiệp nặng để xây
dựng nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong khi công
nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức
nên lãng phí rất lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan
hiếm. Hệ quả là công nghiệp nặng không phát triển, một
số sản phẩm công nghiệp nặng không có nơi tiêu thụ, nhà
máy hoạt động không hết công suất. Việc biến các địa
phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ khiến nhà nước
không thể liên kết các địa phương, phối hợp thế mạnh của
các địa phương vào kế hoạch chung của quốc gia cho mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp không đủ
sức đáp ứng nhu cầu trong nước. Bộ máy nhà nước cồng
kềnh và thiếu hiệu quả, tệ quan liêu bàn giấy phổ biến.
Toàn bộ hội rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển,
không lối thoát.
Đảng và chính phủ ta nhanh chóng nhận thức được toàn
bộ hệ quả này và đúc rút ra bài học từ sự sụp đổ hoàn toàn
của Liên Xô khi thực hiện kế hoạch kinh tế tập trung đó
là phải hiểu cặn kẽ về mối tương thích QHSX và LLSX,
do đó đã quyết định một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực.
I.2. Sau Đại hội Đảng lần VI năm 1986
2.2.1. Công cuộc đổi mới - Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN
Thấu hiểu quá rõ những hạn chế với nền kinh tế tập trung
cho con đường phát triển đất nước theo định hướng
XHCN, Đảng rút ra cốt lõi vấn đề nằm ở chỗ làm sao để
hòa hợp LLSX và QHSX, đầu tư vào cải tạo lại nền sản
xuất xã hội để có những hình thức phù hợp hơn. Bối cảnh
lúc nước ta quyết định tiến hành công cuộc đổi mới, trên
thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng vừa ảnh
hưởng tới chúng ta, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm.
Đó là công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc theo hướng
thị trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 tạo ra
thành tựu cải cách nổi bật mà Trung quốc thu được, đã
được Đảng và Chính phủ quan tâm do có sự tương đồng
nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước,
thêm vào đó, sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và nhiều
nước Đông âu là một bài học phản diện - bằng chứng về
sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch
trơn", sử dụng "liệu pháp sốc", giải quyết không đúng mối
quan hệ giữa LLSX và QHSX.
Đại hội Đảng lần VI đã thay đổi toàn diện, triệt để bộ mặt
của đất nước hay có thể nói là bước ngoặt cho sự phát
triển hùng mạnh của nước ta đến nay. Nội dung cốt lõi của
duy đổi mới bước chuyển từ quan niệm kinh tế hội
chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp, phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang
khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chê
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
hội chủ nghĩa, tức nền kinh tế th trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Việc đổi mới tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường đã thúc đẩy phát triển các thành phần
kinh tế, làm cho các tiềm năng của xã hội được khai thác,
nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy
động. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam có QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh theo pháp luật; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được
phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với
cơ chế thị trường. Nhiều hình thức sở hữu, quản lý, phân
phối nghĩa là đã có sự đầu tư cải tạo về bản chất của
QHSX, tiến tới xây dựng QHSX hiện đại, tiến bộ với từng
khu vực kinh tế với trình độ LLSX khác nhau.
2.2.2. Từ 1986 đến nay
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực
hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa
nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp
phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất. Chúng ta cần tiếp tục xác định đúng
tập trung giải quyết các mối quan hệ nền móng trong quá
trình đổi mới. Đó là quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất phù hợp.
Đại hội IX đã khẳng định “ Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là phát triển LLSX , phát triển
kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH ,
nâng cao đời sống của nhân dân , phát triển LLSX hiện đại
gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt :
sở hữu , quản lí , và phân phối ”. Có thể nói đây là quá
trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng
đặc biệt, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể
khai thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra một tổng
hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt những thành tựu quan
trọng trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông
nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ
thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự
nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực
hội cho phát triển. Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30
năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới
(1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng
năm chỉ đạt 4,4%, các năm tiếp theo tăng nhanh, cho đến
2019 tốc độ tăng trưởng GDP là 7,02% .
Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp môi
trường đầu liên tục được cải thiện, nhờ đó thu hút ngày
càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Cơ cấu kinh tế
của Việt Nam bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu
vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
cấu lao động sự chuyển đổi tích cực gắn liền với
quá trình chuyển dịch cấu kinh tế. cấu hàng hóa
xuất khẩu có cải thiện đáng kể.
Ba mươi năm đổi mới một chặng đường hội nhập kinh
tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác
chiến lược về kinh tế. Uy tín của nước ta trên trường quốc
tế đang cải thiện rất nhiều khi chúng ta được chọn là địa
điểm của Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên vào năm
2019. Tiếp đó năm 2020, nước ta vừa đảm nhiệm vai trò
thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc vừa giữ vai trò là chủ tịch ASEAN.
II. Phương hướng tiếp tục phát triển đất nước dựa trên quy luật phù
hợp mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
II.1. LLSX và QHSX trên thế giới trong bối cảnh hiện nay
Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa so với thời Mác. Các
Mác xây dựng học thuyết của mình trong điều kiện của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 (cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật lần thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của điện
năng), còn ngày nay loài người đang bước vào cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, mở ra kỷ nguyên của trí tuệ nhân
tạo.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi cách thức sản xuất,
chế tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi yếu tố cấu thành
của lực lượng sản xuất.
Thứ nhất, với đối tượng lao động, nhờ ứng dụng công nghệ
trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tài nguyên và nhiên
liệu, nguyên liệu đã phong phú hơn, giàu có hơn. Nếu căn cứ
theo những yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa vào
tài nguyên thiên nhiên thì nguồn lực tự nhiên đang ngày càng
khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác quá nhiều.
Thứ hai, đối với tư liệu lao động (công cụ lao động và phương
tiện sản xuất), cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều
công cụ lao động mới và đưa đến sự thay thế từng bước các tư
liệu lao động truyền thống bằng các tư liệu lao động hiện đại
dựa trên thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại tập trung
lĩnh vực công nghệ sinh học, vật liệu mới và công nghệ thông
tin. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra các công cụ lao động và
phương tiện sản xuất mới với những máy móc tiêu hao ít nhiên
liệu, năng lượng, thải ra ít phế thải, không gây ô nhiễm môi
trường, tạo nên nền sản xuất phát triển bền vững. Những máy
móc, công nghệ mới chứa đựng lượng thông tin cực kỳ lớn cho
phép sản xuất với năng suất, chất lượng sản phẩm đặc biệt cao.
Thứ ba, đối với người lao động, cách mạng công nghiệp lần thứ
tư đã tác động mạnh mẽ đối với người lao động, làm biến đổi
chức năng của con người trong sản xuất: con người dần dần
không còn là yếu tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật
mà chuyển sang chủ yếu là sáng tạo và điều chỉnh quá trình đó
Xu hướng việc làm sẽ là sự dịch chuyển từ sản xuất sử dụng
nhiều lao động sang sử dụng nhiều tri thức công nghệ. tác
động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngoài yêu cầu cứng về kỹ
năng kỹ thuật (mức trung bình cao) bao gồm những kiến thức
và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể thì
người lao động cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay
cốt lõi như: khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong
công việc, kỹ năng sử dụng máy tính, internet, khả năng ngoại
ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, …
Người lao động giờ đây không chỉ được giải phóng về lao động
chân tay mà còn được giải phóng cả về lao động trí óc. Máy
móc - công cụ lao động trong thời đại 4.0 không chỉ là cánh tay
nối dài của người lao động mà cánh tay đó còn được “thông
minh hóa”. Sự giao tiếp giữa người lao động robot cao cấp –
máy móc thông minh… tác động vào nguyên, nhiên, vật liệu
mới, tạo ra sản phẩm theo nhu cầu của con người, thậm chí đáp
ứng nhu cầu cá biệt hóa ngày càng tăng của mỗi người tiêu
dùng.
Theo các chuyên gia dự báo, hiện nay, do tác động của cách
mang 4.0 quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
đã thay đổi đáng kể:
Về quan hệ sở hữu: Đối tượng sở hữu hiện nay không dừng
liệu sản xuất, đã xuất hiện những dạng mới thời Mác chưa
hề có, đó là: năng lượng, thông tin, trí tuệ, kinh nghiệm, sở hữu
số ... Quan hệ sở hữu ngày càng mở rộng, tính công hữu (sở hữu
cộng đồng) ngày càng gia tăng, nhất là công nghệ siêu hiện đại
(IOT, Data, điện toán đám mây và các công nghệ dịch vụ miễn
phí khác…).
Về quan hệ quản lý, với xu hướng robot hóa nền sản xuất,
khiến năng lực, chứ không phải nguồn vốn, trở thành nhân tố
cốt lõi của nền sản xuất
Về quan hệ phân phối, nhiều nền công nghiệp đang chứng
kiến sự xuất hiện của những công nghệ giúp tạo ra những
phương thức hoàn toàn mới nhằm phục vụ cho những nhu cầu
hiện nay, đồng thời tạo đột phá quan trọng trong những chuỗi
giá trị công nghiệp hiện nay. Sự đột phá cũng đang xuất hiện từ
những nhà cạnh tranh linh hoạt và sáng tạo, những người được
hưởng lợi từ việc tiếp cận các phương tiện số toàn cầu để tiến
hành nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, bán hàng và phân phối.
II.2. LLSX QHSX nước ta hiện nay
Về LLSX, ở Việt Nam hiện nay, mặc dù đã tăng lên đáng
kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền sản xuất, tỷ lệ
lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao còn khá
thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm
(thang điểm 10), xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được
tham gia xếp hạng; thiếu nhiều chuyên gia trình độ cao,
thiếu công nhân lành nghề; chỉ số Kinh tế Tri thức ( KEI)
của nước ta còn thấp, chỉ đạt 3,02 điểm, xếp thứ 102/133
quốc gia được phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa
được đào tạo nghề, năng suất lao động thấp. Việc xây dựng
kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất ở nước ta vẫn còn bộc lộ
nhiều điểm yếu kém như hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu
tính đồng bộ và mất cân đối đáng kể giữa các vùng miền.
Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các thành phố lớn như thủ đô
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh khá hiện đại nhưng ở
các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo còn lạc hậu, yếu
kém, chất lượng hạn chế; công tác quản lý, khai thác sử
dụng dịch vụ hạ tầng còn nhiều bất cập.
Về QHSX, theo luận án nghiên cứu về sự biến đổi quan hệ
sản xuất thời kỳ đổi mới của Nguyễn Văn Sơn, các biến
đổi như sau
Một là, về quan hệ sở hữu. Qua quá trình đổi mới sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước, sở hữu của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong kinh tế nhà nước đã được có
sự thay đổi. Các ngành, lĩnh vực của doanh nghiệp nhà
nước mà nhà nước nắm giữ 100% và cổ phần chi phối
được thu hẹp lại. Theo số liệu thống kê: Các ngành, lĩnh
vực nhà nước nắm 100% vốn đã giảm đi rõ rệt, từ 42
ngành năm 2002, xuống 27 ngành năm 2011. Qua đó đã
tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế khác
phát triển. Cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra mạnh
mẽ.
Hai là, về quan hệ tổ chức, quản lý. Trong thời kỳ này,
quan hệ tổ chức quản doanh nghiệp nhà nước đã được
thực hiện theo hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh
nghiệp nhà nước sao cho giảm về số lượng, tăng về chất
lượng.
Ba , về quan hệ phân phối. Trong giai đoạn này chúng ta
đã xóa bỏ cơ chế trả lương theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, thực hiện trả lương, thưởng và các khoản khác theo
chế thị trường. Việc trả lương theo chế thị trường đã
kích thích được lợi ích của người lao động, từ đó giúp cho
sản xuất phát triển.
II.3. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất hoàn thiện
quan hệ sản xuất.
II.3.1. Đối với LLSX
Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh...”, trước tiên
cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất, bao gồm trước
hết là người lao động, tư liệu sản xuất (trong đó có công
cụ lao động, phương tiện truyền tải và đối tượng lao
động). Vì lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo
ra của cải vật chất là động lực của sự phát triển xã hội.
Chừng nào lực ợng sản xuất chưa phát triển thì chừng đó
chưa điều kiện để hoàn thiện quan hệ sản xuất. Bởi vì,
lực lượng sản xuất là nội dung, là cái cấu thành nền tảng
vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, trong khi quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Không thể hoàn thiện hình thức, khi chưa nội dung nền
tảng vật chất.
Phát triển lực lượng sản xuất phải bảo đảm sự phù hợp
giữa các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, sự cân
đối giữa nguồn nhân lực liệu sản xuất cả về số lượng
và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0 và hội
nhập toàn cầu hóa.
Thứ nhất, với TLSX, đẩy mạnh đầu sở hạ tầng, hệ
thống giao thông đường bộ, vật chất thuật trong nước
bằng cách kêu gọi các vốn đầu tư công, viện trợ FDI,..
Xây dựng các gói hỗ trợ vay vốn cho các doanh nghiệp,
đặc biệt doanh nghiệp vừa nhỏ để củng cố phương
tiện sản xuất. Đẩy mạnh
Thứ hai, với nguồn nhân lực, khắc phục điểm yếu của nền
kinh tế nước ta hiện nay lao động thiếu kỹ năng năng
suất thấp, nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế thành
công cũng như củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
Tạo lập sở quan trọng hàng đầu để nhanh chóng tiếp
cận và phát triển nền kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng lần thứ IX coi phát triển nguồn nhân lực vừa
là một chiến lược phát triển lâu dài, vừa là điểm đột phá
phát triển của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn tới. Định
hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu
công nghệ tiên tiến của thế giới sẽ là một trong những yếu
tố quyết định phương hướng và nội cải cách giáo dục.Cải
cách căn bản chương trình giáo dục, đào tạo.Chương trình
giáo dục mới phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri
thức để thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phổ cập ngoại ngữ và tri thức tin học cơ bản phải là tiêu
chuẩn trong phổ cập giáo dục. Có chương trình ưu tiên
thiết lập rộng khắp cơ sở hạ tầng phù hợp cho hệ thống
giáo dục, đào tạo với chi phí tiếp cận rẻ, trên những
nguyên tắc và nội dung mới. Mối liên hệ cần thiết giữa
việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử dụng
nhân lực sẽ được thiết lập thông qua việc phát triển thị
trường lao động và thị trường sản phẩm khoa học, công
nghệ .
II.3.2. Đối với QHSX
Hoàn thiện quan hệ sản xuất không chỉ tập trung vào ba
mặt quan hệ: sở hữu, quản lý và phân phối mà còn phải
chú ý hoàn thiện cả hệ thống quan hệ sản xuất bao gồm cả
quan hệ trao đổi và quan hệ tái sản xuất, hội nhập quốc tế.
Giải pháp về sở hữu : với sở hữu của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước: nhà nước cần
xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước,
giảm sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần tập
trung vào những ngành, lĩnh vực thiết yếu, quan trọng, đẩy
mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xã hội
hóa sở hữu nhà nước. Với kinh tế tập thể,tôn trọng nguyên
tắc bình đẳng, đồng sở hữu trong hợp tác xã. Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ về
quyền lợi, lợi ích khi tham gia hợp tác xã.
Giải pháp về tổ chức, quản lý : các doanh nghiệp nhà nước
chuyển hoàn toàn sang chế thị trường bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác, phân định rõ hai loại hình doanh
nghiệp nhà nước đó là; doanh nghiệp nhà nước hoạt động
vì mục tiêu chính trị - xã hội và doanh nghiệp nhà nước vì
mục tiêu lợi nhuận. Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác
xã đa dạng với nhiều hình thức từ thấp đến cao, nòng cốt
là các Hợp tác xã kiểu mới.
Giải pháp về phân phối sản phẩm :Doanh nghiệp nhà nước
phải triệt để tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động,
xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp, đa dạng hóa các hình
thức phân phối. Với kinh tế tập thể thì phân phối theo vốn
góp để tạo công bằng trong phân phối thu nhập và khuyến
khích các thành viên góp vốn vào hợp tác xã.
PHN
KT
LUN
Xu hướng của SX vật chất là không ngừng biến đổi phát triển , sự biến
đổi phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của LLSX .
Trước hết công cụ lao động , công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu
thuẫn gay gắt với QHSX hiện ,đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ QHSX
cũ thay thế bằng QHSX mới. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung phổ biến đối với sự phát
triển của xã hội. Nó chi phối toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử.
Song sự ổn định đó chỉ tính chất tạm thời sớm muộn cũng thay đổi
cho phù hợp.
Việc vận dụng phương thức sản xuất mới XHCN ở Việt Nam trong
thời quá độ lên CNXH , bỏ qua chế độ TBCN chứng tỏ sự thấu hiểu
cặn kẽ quy luật phù hợp QHSX trình độ LLSX. Để xây dựng phương
thức sản xuất XHCN chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường với sự quản lí của nhà
nước nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển
mạnh LLSX để xây dựng cơ sở kinh tế của đất nước. Nắm rõ được quy
luật này, chúng ta sẽ phát triển được cơ sở vật chất, làm nền tảng cho
hiện đại hóa đất nước.
Những nghiên cứu trên đây chỉ mang tính chất tham khảo, khó tránh
được sai sót trong quá trình diễn giải. Em rất mong quý thầy đọc
đón nhận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VI của Đảng
2. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VIII của Đảng
3. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng
4. Giáo trình triết học Mác Lênin của trường ĐH Ngoại Thương
5. Nguyễn Văn Sơn (2013), “Học thuyết hình thái kinh tế - hội
của chủ
nghĩa Mác - Lênin sự vận dụng Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học
ng nghệ, (15), tr.97-99.
| 1/20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
Họ và tên: Lê Thị Ngọc Anh Lớp: TRI114.3 MSV: 1911110017 SBD:
Giảng viên giảng dạy: Th.S Nguyễn Thị Tùng Lâm
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2020 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua 5 phương thức sản
xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản
chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Xã hội luôn vận động phát triển không
ngừng theo các cấp độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Chủ nghĩa Mác đã đưa
ra những lý luận thuyết phục cho sự tiến hóa không ngừng này hay chính
là tìm ra động lực cốt lõi thúc đẩy sự phát triển của xã hội - đó là sự
tương thích giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất. Từ khi
con người nhận thức ra vấn đề này, họ tích cực áp dụng lý thuyết vào
thực tiễn nhằm mục đích tiến tới xa hơn trong công cuộc phát triển đất nước. 1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu, quá trình vận dụng quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất để đưa các quốc gia phát triển bền vững về
cả mặt hệ thống chính trị, kinh tế , xã hội luôn là mục tiêu mà các
nhà lãnh đạo theo đuổi. Đối với các nước định hướng phát triển
theo chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, hiểu và áp dụng quy luật này
vào thực tiễn lại càng trở nên cấp thiết hơn. Do đó, tôi chọn đề tài
“ Sự vận dụng quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới đất nước” để giúp bạn
đọc có cái nhìn rõ hơn về công cuộc phát triển đất nước 2. Mục đích nghiên cứu
Nắm rõ được quy luật tương thích giữa quan hệ sản xuất và trình
độ của lực lượng sản xuất để có thể tự tìm hiểu, có cái nhìn tổng
quan về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình vận dụng, áp dụng lý thuyết chủ nghĩa duy vật biện
chứng vào thực tiễn để điều chỉnh mối tương quan lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất 4. Kết cấu tiểu luận I.
Cơ sở lý luận của quy luật mối quan hệ phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất II.
Thực trạng quá trình áp dụng quy luật trước và sau năm 1986
III. Phương hướng phát triển đất nước dựa trên quy luật phù hợp
mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
PHẦẦN NỘI DUNG
sở luận của mốối quan hệ phù hợp giữa quan hệ sản xuấốt lực lượng sản xuấốt
Khái niệm kếốt cấốu của lực lượng sản xuấốt, quan hệ sản xuấốt
Khái niệm kếết cấếu của lực lượng sản xuấết
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức
khỏe, thể chất, kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của
họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để
tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản
xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá
trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo
thành lực lượng sản xuất. Con người: “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao
động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình,
sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động để sản
xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản
xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng
được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng
phát triển, hàm lượng trí tuệ của người lao động ngày càng
cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao
động.Trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là
nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục thế giới tự nhiên.
Khái niệm kếết cấếu của quan hệ sản xuấết
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).Quan hệ sản
xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của sản xuất, các mặt của quan hệ sản xuất thống nhất
với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối
so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
• Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa
người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
• Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là
quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi
của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác
hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
• Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt
chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp
lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng,
nâng cao phúc lợi người lao động.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật
thiết, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ
vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức quản lý và
quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Mốối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuấốt quan hệ sản xuấốt.
Lực lượng sản xuấết vai trò quyếết định đốếi với sự hình thành, biếến đổi phát triển của quan hệ sản xuấết
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công
cụ lao động, ở trình độ kĩ năng, kinh nghiệm của người lao
động, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản xuất…ứng
với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình
độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cụ thể:
Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
đòi hỏi phải có một quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của
nó.Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi
và phát triển, do yêu cầu phát triển của sản xuất vật chất khi
lực lượng sản xuất không ngừng phát triển lên một trình độ
cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo cho
phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất.Tuy nhiên cần nhận thấy, lực lượng sản xuất là yếu tố
động nhất, cách mạng nhất, nó luôn vận động và biến đổi
trong quá trình lịch sử, hay nói cách khác lực lượng sản xuất
thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất thì
chậm thay đổi hơn. Chính vì vậy, khi sự phát triển của lực
lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định thì sẽ mâu
thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu
cầu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuấết đốếi với lực lượng sản xuấết.
Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất,
vì vậy quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất
phân phối do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của
người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá
trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động, từ đó tác động tới
lực lượng sản xuất.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu hướng:
• Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuát thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
• Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.Sự phù hợp “ được quan niệm là sự phù hợp biện
chứng chứa đựng mâu thuẫn”, tức là sự phù hợp trong mâu
thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.Sự kìm hãm của quan hệ sản
xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là
do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc do quan hệ sản xuất
vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
của lực lượng sản xuất là quan hệ chung nhất chi phối toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, phá
bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, quá trình này lặp đi lặp lại
làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản
xuất từ thấp tới cao dẫn tới sự thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế xã hội.
Tình hình áp dụng quy luật mốối quan hệ sản xuấốt lực lượng sản xuấốt trước
sau năm 1986 vào đổi mới đấốt nước
Trước Đại hội Đảng lấần VI năm 1986
I.1.1. Những sai lầm khi vận dụng quy luật phù hợp quan
hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất
Nước ta là đất nước nông nghiệp nghèo lạc hậu, kể từ
chiến thắng 1975 thống nhất toàn bộ hai miền bắc nam,
nhiệm vụ cấp thiết của Đảng và Nhà nước là khôi phục
kinh tế, đi lên từ chiến tranh. Chủ trương phát triển kinh tế
theo định hướng XHCN với mô hình kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp – hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới
nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó, kinh tế tư nhân bị xóa
bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Hàng
hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước
nắm toàn quyền điều hành, ngăn cấm việc mua bán trên thị
trường. Nhà nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn
chế trao đổi bằng tiền mặt.
Bản chất của quan hệ sản xuất đã bị thúc đẩy phát triển
quá nhanh ví dụ như phân phối sản phẩm độc quyền của
nhà nước, tổ chức hình thức kinh tế chỉ do nhà nước đóng
vai trò chủ chốt. Chúng ta đã ra sức vận động gần như
cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển
quy mô nông trường quốc doanh và các nhà máy xí nghiệp
lớn mà không tính đến trình độ SX đang còn thời kì quá
thấp kém, chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ
nhận là đã có“QHSX XHCN ” và coi rằng nó có khả năng
“vượt trước” mở đường cho sự phát triển của LLSX. Thực
tế những năm qua đã chứng minh quan niệm đó là sai lầm,
sai lầm ở chỗ một số mặt của QHSX bị thúc đẩy lên quá
cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình
độ thấp kém của LLSX .Đối với Việt Nam chúng ta với
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải
tạo XHCN phát triển công nghiệp quốc doanh, công
nghiệp nặng chỉ coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ
không coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay.
Song chúng ta đã bất chấp thực tế khách quan mà chỉ dựa
vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà
nước chuyên chính vô sản, bằng những đường lối, chính
sách và những hoạt động tích cực có thể tìm cách giải
quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội, có khả
năng cải tạo ra QHSX mới, mở đường cho LLSX phát
triển nhưng trên thực tế chúng ta dã không thể làm được
điều đó .Quan điểm QHSX đi trước là không đúng . Điều
này đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định lại trong
Đại hội V: “Chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số
chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ
bản và phát triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản
lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính
sách chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế,
không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội,
bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở.”
Tiếp đó, nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh
thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng
thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư
nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải
nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý,
quan hệ phân phối và nhất là hầu như không xem xét quan
hệ sản xuất trong lĩnh vực quan hệ trao đổi và quan hệ tiêu
dùng; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động.
Đề cao một cách phiến diện yếu tố người về mặt số lượng,
không chú ý chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố vật của lực lượng sản xuất.
Việc không quan tâm đến những điều kiện để phát huy ưu
thế của phân công và hợp tác lao động - nên đã nóng vội
mở rộng quy mô hợp tác xã khiến cho sức sản xuất của lao
động giảm sút, kinh tế trì trệ. Chúng ta đã coi nhẹ quy luật
giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó
tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. QHSX khác nhau ở những ngành sản xuất khác
nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng
bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ
lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cân bằng quan hệ
sản xuất chứ không thể ép buộc đi vào hợp tác xã, ăn chung làm chung.
Từ đó, có thể nói do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan
hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong công cuộc xây
dựng QHSX cũ và xây dựng QHSX mới. I.1.2. Hệ quả
Nhà nước chú trọng phát triển công nghiệp nặng để xây
dựng nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong khi công
nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức
nên lãng phí rất lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan
hiếm. Hệ quả là công nghiệp nặng không phát triển, một
số sản phẩm công nghiệp nặng không có nơi tiêu thụ, nhà
máy hoạt động không hết công suất. Việc biến các địa
phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ khiến nhà nước
không thể liên kết các địa phương, phối hợp thế mạnh của
các địa phương vào kế hoạch chung của quốc gia cho mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp không đủ
sức đáp ứng nhu cầu trong nước. Bộ máy nhà nước cồng
kềnh và thiếu hiệu quả, tệ quan liêu bàn giấy phổ biến.
Toàn bộ xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển, không lối thoát.
Đảng và chính phủ ta nhanh chóng nhận thức được toàn
bộ hệ quả này và đúc rút ra bài học từ sự sụp đổ hoàn toàn
của Liên Xô khi thực hiện kế hoạch kinh tế tập trung – đó
là phải hiểu cặn kẽ về mối tương thích QHSX và LLSX,
do đó đã quyết định một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
I.2. Sau Đại hội Đảng lần VI năm 1986
2.2.1. Công cuộc đổi mới - Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thấu hiểu quá rõ những hạn chế với nền kinh tế tập trung
cho con đường phát triển đất nước theo định hướng
XHCN, Đảng rút ra cốt lõi vấn đề nằm ở chỗ làm sao để
hòa hợp LLSX và QHSX, đầu tư vào cải tạo lại nền sản
xuất xã hội để có những hình thức phù hợp hơn. Bối cảnh
lúc nước ta quyết định tiến hành công cuộc đổi mới, trên
thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng vừa ảnh
hưởng tới chúng ta, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm.
Đó là công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc theo hướng
thị trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 tạo ra
thành tựu cải cách nổi bật mà Trung quốc thu được, đã
được Đảng và Chính phủ quan tâm do có sự tương đồng
nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước,
thêm vào đó, sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và nhiều
nước Đông âu là một bài học phản diện - bằng chứng về
sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch
trơn", sử dụng "liệu pháp sốc", giải quyết không đúng mối
quan hệ giữa LLSX và QHSX.
Đại hội Đảng lần VI đã thay đổi toàn diện, triệt để bộ mặt
của đất nước hay có thể nói là bước ngoặt cho sự phát
triển hùng mạnh của nước ta đến nay. Nội dung cốt lõi của
tư duy đổi mới là bước chuyển từ quan niệm kinh tế xã hội
chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp, phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang
khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chê
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, tức là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc đổi mới tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường đã thúc đẩy phát triển các thành phần
kinh tế, làm cho các tiềm năng của xã hội được khai thác,
nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy
động. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam có QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được
phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với
cơ chế thị trường. Nhiều hình thức sở hữu, quản lý, phân
phối nghĩa là đã có sự đầu tư cải tạo về bản chất của
QHSX, tiến tới xây dựng QHSX hiện đại, tiến bộ với từng
khu vực kinh tế với trình độ LLSX khác nhau. 2.2.2. Từ 1986 đến nay
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực
hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa
nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp
phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất. Chúng ta cần tiếp tục xác định đúng và
tập trung giải quyết các mối quan hệ nền móng trong quá
trình đổi mới. Đó là quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp.
Đại hội IX đã khẳng định “ Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là phát triển LLSX , phát triển
kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH ,
nâng cao đời sống của nhân dân , phát triển LLSX hiện đại
gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt :
sở hữu , quản lí , và phân phối ”. Có thể nói đây là quá
trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng
đặc biệt, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể
khai thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra một tổng
hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt những thành tựu quan
trọng trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông
nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ
thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự
nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực
xã hội cho phát triển. Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30
năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới
(1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng
năm chỉ đạt 4,4%, các năm tiếp theo tăng nhanh, cho đến
2019 tốc độ tăng trưởng GDP là 7,02% .
Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp môi
trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó thu hút ngày
càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Cơ cấu kinh tế
của Việt Nam bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu
vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu có cải thiện đáng kể.
Ba mươi năm đổi mới là một chặng đường hội nhập kinh
tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác
chiến lược về kinh tế. Uy tín của nước ta trên trường quốc
tế đang cải thiện rất nhiều khi chúng ta được chọn là địa
điểm của Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên vào năm
2019. Tiếp đó năm 2020, nước ta vừa đảm nhiệm vai trò
thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc vừa giữ vai trò là chủ tịch ASEAN. II.
Phương hướng tiếp tục phát triển đất nước dựa trên quy luật phù
hợp mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
II.1. LLSX và QHSX trên thế giới trong bối cảnh hiện nay
Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa so với thời Mác. Các
Mác xây dựng học thuyết của mình trong điều kiện của cuộc
cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ 2 (cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật lần thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của điện
năng), còn ngày nay loài người đang bước vào cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, mở ra kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi cách thức sản xuất,
chế tạo và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi yếu tố cấu thành
của lực lượng sản xuất.
Thứ nhất, với đối tượng lao động, nhờ ứng dụng công nghệ
trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tài nguyên và nhiên
liệu, nguyên liệu đã phong phú hơn, giàu có hơn. Nếu căn cứ
theo những yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa vào
tài nguyên thiên nhiên thì nguồn lực tự nhiên đang ngày càng
khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác quá nhiều.
Thứ hai, đối với tư liệu lao động (công cụ lao động và phương
tiện sản xuất), cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều
công cụ lao động mới và đưa đến sự thay thế từng bước các tư
liệu lao động truyền thống bằng các tư liệu lao động hiện đại
dựa trên thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại tập trung ở
lĩnh vực công nghệ sinh học, vật liệu mới và công nghệ thông
tin. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra các công cụ lao động và
phương tiện sản xuất mới với những máy móc tiêu hao ít nhiên
liệu, năng lượng, thải ra ít phế thải, không gây ô nhiễm môi
trường, tạo nên nền sản xuất phát triển bền vững. Những máy
móc, công nghệ mới chứa đựng lượng thông tin cực kỳ lớn cho
phép sản xuất với năng suất, chất lượng sản phẩm đặc biệt cao.
Thứ ba, đối với người lao động, cách mạng công nghiệp lần thứ
tư đã tác động mạnh mẽ đối với người lao động, làm biến đổi
chức năng của con người trong sản xuất: con người dần dần
không còn là yếu tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật
mà chuyển sang chủ yếu là sáng tạo và điều chỉnh quá trình đó
Xu hướng việc làm sẽ là sự dịch chuyển từ sản xuất sử dụng
nhiều lao động sang sử dụng nhiều tri thức và công nghệ. Nó tác
động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngoài yêu cầu cứng về kỹ
năng kỹ thuật (mức trung bình và cao) bao gồm những kiến thức
và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể thì
người lao động cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay
cốt lõi như: khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong
công việc, kỹ năng sử dụng máy tính, internet, khả năng ngoại
ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, …
Người lao động giờ đây không chỉ được giải phóng về lao động
chân tay mà còn được giải phóng cả về lao động trí óc. Máy
móc - công cụ lao động trong thời đại 4.0 không chỉ là cánh tay
nối dài của người lao động mà cánh tay đó còn được “thông
minh hóa”. Sự giao tiếp giữa người lao động – robot cao cấp –
máy móc thông minh… tác động vào nguyên, nhiên, vật liệu
mới, tạo ra sản phẩm theo nhu cầu của con người, thậm chí đáp
ứng nhu cầu cá biệt hóa ngày càng tăng của mỗi người tiêu dùng.
Theo các chuyên gia dự báo, hiện nay, do tác động của cách
mang 4.0 quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất đã thay đổi đáng kể:
Về quan hệ sở hữu: Đối tượng sở hữu hiện nay không dừng ở
tư liệu sản xuất, mà đã xuất hiện những dạng mới thời Mác chưa
hề có, đó là: năng lượng, thông tin, trí tuệ, kinh nghiệm, sở hữu
số ... Quan hệ sở hữu ngày càng mở rộng, tính công hữu (sở hữu
cộng đồng) ngày càng gia tăng, nhất là công nghệ siêu hiện đại
(IOT, Data, điện toán đám mây và các công nghệ dịch vụ miễn phí khác…).
Về quan hệ quản lý, với xu hướng robot hóa nền sản xuất,
khiến năng lực, chứ không phải nguồn vốn, trở thành nhân tố
cốt lõi của nền sản xuất
Về quan hệ phân phối, nhiều nền công nghiệp đang chứng
kiến sự xuất hiện của những công nghệ giúp tạo ra những
phương thức hoàn toàn mới nhằm phục vụ cho những nhu cầu
hiện nay, đồng thời tạo đột phá quan trọng trong những chuỗi
giá trị công nghiệp hiện nay. Sự đột phá cũng đang xuất hiện từ
những nhà cạnh tranh linh hoạt và sáng tạo, những người được
hưởng lợi từ việc tiếp cận các phương tiện số toàn cầu để tiến
hành nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, bán hàng và phân phối.
II.2. LLSX và QHSX ở nước ta hiện nay
Về LLSX, ở Việt Nam hiện nay, mặc dù đã tăng lên đáng
kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền sản xuất, tỷ lệ
lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao còn khá
thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm
(thang điểm 10), xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được
tham gia xếp hạng; thiếu nhiều chuyên gia trình độ cao,
thiếu công nhân lành nghề; chỉ số Kinh tế Tri thức ( KEI)
của nước ta còn thấp, chỉ đạt 3,02 điểm, xếp thứ 102/133
quốc gia được phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa
được đào tạo nghề, năng suất lao động thấp. Việc xây dựng
kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất ở nước ta vẫn còn bộc lộ
nhiều điểm yếu kém như hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu
tính đồng bộ và mất cân đối đáng kể giữa các vùng miền.
Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các thành phố lớn như thủ đô
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh khá hiện đại nhưng ở
các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo còn lạc hậu, yếu
kém, chất lượng hạn chế; công tác quản lý, khai thác và sử
dụng dịch vụ hạ tầng còn nhiều bất cập.
Về QHSX, theo luận án nghiên cứu về sự biến đổi quan hệ
sản xuất thời kỳ đổi mới của Nguyễn Văn Sơn, các biến đổi như sau
Một là, về quan hệ sở hữu. Qua quá trình đổi mới sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước, sở hữu của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong kinh tế nhà nước đã được có
sự thay đổi. Các ngành, lĩnh vực của doanh nghiệp nhà
nước mà nhà nước nắm giữ 100% và cổ phần chi phối
được thu hẹp lại. Theo số liệu thống kê: Các ngành, lĩnh
vực nhà nước nắm 100% vốn đã giảm đi rõ rệt, từ 42
ngành năm 2002, xuống 27 ngành năm 2011. Qua đó đã
tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế khác
phát triển. Cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ.
Hai là, về quan hệ tổ chức, quản lý. Trong thời kỳ này,
quan hệ tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước đã được
thực hiện theo hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh
nghiệp nhà nước sao cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng.
Ba là, về quan hệ phân phối. Trong giai đoạn này chúng ta
đã xóa bỏ cơ chế trả lương theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, thực hiện trả lương, thưởng và các khoản khác theo
cơ chế thị trường. Việc trả lương theo cơ chế thị trường đã
kích thích được lợi ích của người lao động, từ đó giúp cho sản xuất phát triển.
II.3. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. II.3.1. Đối với LLSX
Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh...”, trước tiên
cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất, bao gồm trước
hết là người lao động, tư liệu sản xuất (trong đó có công
cụ lao động, phương tiện truyền tải và đối tượng lao
động). Vì lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo
ra của cải vật chất và là động lực của sự phát triển xã hội.
Chừng nào lực lượng sản xuất chưa phát triển thì chừng đó
chưa có điều kiện để hoàn thiện quan hệ sản xuất. Bởi vì,
lực lượng sản xuất là nội dung, là cái cấu thành nền tảng
vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, trong khi quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Không thể hoàn thiện hình thức, khi chưa có nội dung nền tảng vật chất.
Phát triển lực lượng sản xuất phải bảo đảm sự phù hợp
giữa các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, sự cân
đối giữa nguồn nhân lực và tư liệu sản xuất cả về số lượng
và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0 và hội nhập toàn cầu hóa.
Thứ nhất, với TLSX, đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ
thống giao thông đường bộ, vật chất kĩ thuật trong nước
bằng cách kêu gọi các vốn đầu tư công, viện trợ FDI,..
Xây dựng các gói hỗ trợ vay vốn cho các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ để củng cố phương
tiện sản xuất. Đẩy mạnh
Thứ hai, với nguồn nhân lực, khắc phục điểm yếu của nền
kinh tế nước ta hiện nay là lao động thiếu kỹ năng và năng
suất thấp, nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế thành
công cũng như củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
Tạo lập cơ sở quan trọng hàng đầu để nhanh chóng tiếp
cận và phát triển nền kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng lần thứ IX coi phát triển nguồn nhân lực vừa
là một chiến lược phát triển lâu dài, vừa là điểm đột phá
phát triển của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn tới. Định
hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu
công nghệ tiên tiến của thế giới sẽ là một trong những yếu
tố quyết định phương hướng và nội cải cách giáo dục.Cải
cách căn bản chương trình giáo dục, đào tạo.Chương trình
giáo dục mới phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri
thức để thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phổ cập ngoại ngữ và tri thức tin học cơ bản phải là tiêu
chuẩn trong phổ cập giáo dục. Có chương trình ưu tiên
thiết lập rộng khắp cơ sở hạ tầng phù hợp cho hệ thống
giáo dục, đào tạo với chi phí tiếp cận rẻ, trên những
nguyên tắc và nội dung mới. Mối liên hệ cần thiết giữa
việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử dụng
nhân lực sẽ được thiết lập thông qua việc phát triển thị
trường lao động và thị trường sản phẩm khoa học, công nghệ . II.3.2. Đối với QHSX
Hoàn thiện quan hệ sản xuất không chỉ tập trung vào ba
mặt quan hệ: sở hữu, quản lý và phân phối mà còn phải
chú ý hoàn thiện cả hệ thống quan hệ sản xuất bao gồm cả
quan hệ trao đổi và quan hệ tái sản xuất, hội nhập quốc tế.
Giải pháp về sở hữu : với sở hữu của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước: nhà nước cần
xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước,
giảm sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần tập
trung vào những ngành, lĩnh vực thiết yếu, quan trọng, đẩy
mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xã hội
hóa sở hữu nhà nước. Với kinh tế tập thể,tôn trọng nguyên
tắc bình đẳng, đồng sở hữu trong hợp tác xã. Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ về
quyền lợi, lợi ích khi tham gia hợp tác xã.
Giải pháp về tổ chức, quản lý : các doanh nghiệp nhà nước
chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác, phân định rõ hai loại hình doanh
nghiệp nhà nước đó là; doanh nghiệp nhà nước hoạt động
vì mục tiêu chính trị - xã hội và doanh nghiệp nhà nước vì
mục tiêu lợi nhuận. Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác
xã đa dạng với nhiều hình thức từ thấp đến cao, nòng cốt
là các Hợp tác xã kiểu mới.
Giải pháp về phân phối sản phẩm :Doanh nghiệp nhà nước
phải triệt để tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động,
xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp, đa dạng hóa các hình
thức phân phối. Với kinh tế tập thể thì phân phối theo vốn
góp để tạo công bằng trong phân phối thu nhập và khuyến
khích các thành viên góp vốn vào hợp tác xã.
PHẦẦN KẾẾT LUẬN
Xu hướng của SX vật chất là không ngừng biến đổi phát triển , sự biến
đổi phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của LLSX .
Trước hết là công cụ lao động , công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu
thuẫn gay gắt với QHSX hiện có ,đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ QHSX
cũ thay thế bằng QHSX mới. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung phổ biến đối với sự phát
triển của xã hội. Nó chi phối toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử.
Song sự ổn định đó chỉ có tính chất tạm thời sớm muộn nó cũng thay đổi cho phù hợp.
Việc vận dụng phương thức sản xuất mới XHCN ở Việt Nam trong
thời kì quá độ lên CNXH , bỏ qua chế độ TBCN chứng tỏ sự thấu hiểu
cặn kẽ quy luật phù hợp QHSX và trình độ LLSX. Để xây dựng phương
thức sản xuất XHCN chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường với sự quản lí của nhà
nước nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển
mạnh LLSX để xây dựng cơ sở kinh tế của đất nước. Nắm rõ được quy
luật này, chúng ta sẽ phát triển được cơ sở vật chất, làm nền tảng cho
hiện đại hóa đất nước.
Những nghiên cứu trên đây chỉ mang tính chất tham khảo, khó tránh
được sai sót trong quá trình diễn giải. Em rất mong quý thầy cô đọc và đón nhận
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VI của Đảng 2.
Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VIII của Đảng 3.
Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng 4.
Giáo trình triết học Mác – Lênin của trường ĐH Ngoại Thương 5.
Nguyễn Văn Sơn (2013), “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, (15), tr.97-99.