Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Đề 2: Nội dung bản của tưởng Hồ Chí Minh về con người làm
vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con người (liên hệ bản thân).
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI..........2
1.1.Quan điểm Hồ Chí Minh về con người................................................................2
1.1.1. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể.................................2
1.1.2. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, lịch sử.........................2
1.1.3. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội.............2
1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người........................................3
1.3.Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người..........................................4
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương pháp xây dựng con người mới......6
1.4.1. Xây dựng đời sống mới để xây dựng con người mới....................................6
1.4.2.Phát động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con người
mới.........................................................................................................................6
1.4.3. Phát triển giáo dục - đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con người
mới.........................................................................................................................8
II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI
......................................................................................................................................8
2.1.Sự cần thiết phải xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay..........8
2.2.Chức năng của giáo dục trong xây dựng con người.............................................9
2.3.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện nay....11
2.3.1.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển chung của con người...................11
2.3.2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển cá nhân con người......................13
III. LIÊN HỆ BẢN THÂN..........................................................................................15
3.1. Liên hệ xây dựng nâng cao năng lực của bản thân............................................15
3.2. Liên hệ xây dựng nâng cao ý thức, lối sống đạo đức của bản thân...................16
PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................19
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
trọng vấn để xây dựng con người trong thời chiến cũng như thời bình theo nhiều
cách khác nhau. Những hành động cử chỉ của Bác, lời nói đã để lại nhiều bài
học cho chúng ta học hỏi. Nội dung tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận
dụng tưởng của Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con
người Việt Nam mới luôn vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu noi theo.
Đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng
thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay, trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế đặt ra rất nhiều nhữnghội nhưng cũng không ít những thách thức đối
với con người. vậy giáo dục xây dựng con người, đồng thời không ngừng
nâng cao trình độ văn hóa không nằm ngoài mục đích xây dựng con người mới
xã hội mới đưa đất nước đi lên dân giàu nước mạnh.
Ý nghĩa của bài tiểu luận Nội dung bản của tưởng Hồ Chí Minh
về con người và làm rõ vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con
người (liên hệ bản thân) sẽ soi con đường Đảng nhân dân ta đã
đang đi, đề cao nhiệm vụ xây dựng đất nước, xây dựng con người, nâng cao
duy luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức, cách mạng năng
lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta.
1
PHẦN NỘI DUNG
I. NỘI DUNG BẢN CỦA TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI
1.1.Quan điểm Hồ Chí Minh về con người
1.1.1. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể
Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,
thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn hướng đến cái chân - thiện-mỹ,
mặc “có thế y, thế khác”. Hồ Chí Minh xem xét con người trong tính đa
dạng của nó: đa dạng trong các quan hệ hội (quan hệ dân tộc, giai cấp,tầng
lớp, đồng chí, đồng bào,…); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả
năng (“cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại
nơi bàn tay”, “mấy mươi triệu người Việt Nam, người thế này, thế khác,
nhưng đều nòi giống Lạc Hồng”); đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều
kiện sống và làm việc,…
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối
lập:thiện - ác, hay - dở, hiền - dữ… bao gồm cả tính người (mặt hội) tính
bản năng (mặt sinh học) của con người. Theo Người, con người tốt,
xấu,nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
1.1.2. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng hẹp khác
nhau.Nghĩa hẹp: con người trong phạm vi gia đình: anh em, họ hàng, bạn...
Nghĩa rộng: đồng bào cả nước. Mở rộng tối đa: con người trên phạm vi thế giới,
là cả loài người. Theo nghĩa rộng, Bác thường dùng trong một số trường hợp nói
về “phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai
ai”,…nhưng thường đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung.
Phổ biến nhất, Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ cụ
thể hiện thực, khách quan, chứ không phải kiểu con người chung chung trừu
tượng. Con người được đặt trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo
giới tính, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng
dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân
tộc bị áp bức, bốn phương vô sản, nhân loại yêu chuộng hòa bình,…).
1.1.3. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động
sản xuất, con người xác lập các mối quan hệ hội, quan hệ giữa người với
người.Con người sản phẩm của hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
2
con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loại người.
1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Thứ nhất, con người là mục tiêu của cách mạng. được cụ thể hóa trong
ba giai đoạn cách mạng: giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
- tiến lên xã hội chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Thứ hai, giải phóng dân tộc xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc,
giành lại độc lập cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc cả cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa
Thứ ba, giải phóng hội đưa hội phát triển thành một hội không
chế độ người bóc lột người, một hội có nền sản xuất phát triển cao và bền
vững, văn hóa tiên tiến, mọi người chủ làm chủ hội, cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất
là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, giải phóng giai cấp xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này
đối với giai cấp khác; xóa bỏ sự bất công, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng
kinh tế-xã hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp,
các điều kiện dẫn đến sự phân chia hội thành giai cấp xác lập một hội
không giai cấp. Con người trong giải phóng hội các giai cấp cần lao,
trước hết giai cấp công nhân giai cấp nông dân. Phạm vi thế giới giải
phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.
Thứ năm, giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch
con người; xóa bỏ các điều kiện hội làm tha hóa con người, làm cho mọi
người được hưởng tự do, hạnh phúc, điều kiện phát huy năng sáng tạo, làm
chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện theo đúng
bản chất tốt đẹp của con người. Con người trong giải phóng con người
nhân mỗi con người. Phạm vi thế giới là giải phóng loài người.
Các giải phóng kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã một
phần giải phóng hội giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải
phóng dân tộc mở đường cho giải phóng hội, giải phóng giai cấp giải
phóng con người.
Con người động lực của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, con người
vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”; “trong bầu trời không
3
gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của
nhân dân”. “Ý dân ý trời”. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong”. Cách mạng sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân
những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ
bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - hội, sáng tạo ra các giá
trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt,
niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng.
1.3.Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Xây dựng con người ý nghĩa quan trọng, yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, vấn đề chiến lược. Xây dựng
con người một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất
nước, mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây
dựng con người.
“Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người”16 công việc
lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của
văn hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt
tiến trình đi lên chủ nghĩa hội phải đạt được những kết quả cụ thể trong
từng giai đoạn cách mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song
song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất hội chủ
nghĩa. “Trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc
đời mỗi người, với ý nghĩa vừa quyền lợi vừa trách nhiệm của nhân đối
với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc “trồng người” trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ
động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩahội, trước hết cần phải có những con người
hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa hội sẽ tạo ra những con người hội chủ
nghĩa, con người hội chủ nghĩa động lực xây dựng chủ nghĩa hội.
Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người
hội chủ nghĩa; cũng không phải xây dựng xong những con người hội chủ
nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa hội. Việc xây dựng con người hội chủ
nghĩa được đặt ra ngay từ đầu phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây
dựng chủ nghĩa hội. “Trước hết cần phải những con người hội chủ
nghĩa” cần được hiểu trước hết cần những con người với những nét tiêu biểu
của hội hội chủ nghĩa như tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong hội
4
chủ nghĩa. Đó là những con người đi trước, làm gương lôi cuốn người khác theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách
mạng nào, tiên tiến số ít số đông trung gian, muốn củng cố mở rộng
phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo
chậm tiến”.
Nội dung xây dựng con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó
những con người mục đích lối sống cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững
vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức
xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện bao gồm:
· ý thức làm chủ, tinh thần tập thể hội chủ nghĩa tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình
· Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
· Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
· Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ,
nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ luận chính trị,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.
Xây dựng con người phải bằng những phương pháp khoa học, cách mạng.
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế,
tính khoa học của bộ máy tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất
người đứng đầu, ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu
thân, chính tâm” thì mới thể “trị quốc, bình thiên hạ” (làm những việc lợi
cho nước, cho dân). Văn hóa phương Đông cho thấy “một tấm gương sống
giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” “tiên trách kỷ, hậu trách
nhân”. Hồ Chí Minh thường nhắc lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây
dựng con người. Người nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để
giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục một vai trò quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở
“hiền, giữ phải đâu tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục nên”. Theo Người,
học sinh như tờ giấy trắng, vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Chú trọng vai trò của
tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các phong trào
cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào
quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ
và tổ chức của ta”.
5
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương pháp xây dựng con người
mới
Có nhiều cách thức xây dựng con người mới. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng
con người mới là bộ phận hợp thành
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: trong thực hiện cần chú ý ba phương
pháp sau:
1.4.1. Xây dựng đời sống mới để xây dựng con người mới.
Thi đua yêu nước để xây dựng con người mới.
Giáo dục - đào tạo con người mới.
Về xây dựng đời sống mới. Năm 1947 sau hơn một năm giành được chính
quyền. Hồ Chí Minh hoàn thành hai tác phẩm Đời sống mới bút danh Tân Sinh
Sửa đổi lối Làm việc bút danh X.Y.Z. Nội dung hai tác phẩm bổ sung cho
nhau nhằm xác định các tiêu chuẩn của con người mới của cán bộ, đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới - vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền.
Đồng thời, nêu các phương pháp bồi dưỡng, đào tạo người Việt Nam mới
thông qua hoạt động:
Xây dựng đời sống mới (ăn, mặc, ở, đi lại. làm việc), môi trường sống vệ
sinh bảo vệ sức khỏe.
Chống giặc dốt, nâng cao dân trí, xây dựng nền giáo dục dân chủ.
Giáo dục đạo đức công dân, xây dựng nền đạo đức cách mạng Việt Nam,
chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả của cán bộ, đảng
viên nói riêng và toàn dân nói chung.
Đặc biệt Sửa đổi lối làm việc góp phần to lớn vào việc giáo dục, cán bộ,
đảng viên về tưởng, đạo đức, phương pháp phong cách lêninnít dể họ trở
thành người cán bộ cách mạng trung thành với sự nghiệp của Đảng và của nhân
dân, góp phần đẩy mạnh kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.
1.4.2.Phát động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con
người mới.
Trong lời kêu gọi Thi đua yêu nước. Hồ Chí Minh không trực tiếp đề cập
đến vấn đề xây dựng con người mới trong phong trào thi đua. Song, trên thực tế
chỉ đạo thực hiện phong trào chủ đích thực sự của Người chính là: Mỗi
người tốt, mỗi việc tốt những bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta một rừng hoa
đẹp”. Nghĩa qua phong trào thi đua trải qua rèn luyện, thử thách trong thi
6
đua đã hình thành mỗi người những việc tốt, phẩm chất tốt để hình thành một
lớp người tốt, lớp người mới để “dân tộc ta là một rừng hoa đẹp". Điều này cũng
đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta muốn trở thành người tốt, trở thành người Việt
Nam mới thì chỉ gắn mình vào phong trào thi đua yêu nước sôi nổi chính
qua phong trào đó bản thân tự đánh giá, tự điều chỉnh để có nhiều việc tốt mà trở
thành người tốt.
Bởi vì, đối với mỗi người cách mạng, mỗi người lao động chân chính, chắc
không ai thể tự cho mình đã được trọn vẹn những tiêu chuẩn của con
người mới và bản thân mình không có gì phải làm cho tốt đẹp hơn nữa. Thực ra,
mỗi người đều mặt mới mặt cũ, cái tốt cái xấu. Vấn đề chỉ chỗ mặt
nào nhiều hơn mỗi người phải phấn đấu sao cho những mặt tốt ngày càng
nhiều hơn, những cái xấu ngày càng ít. Quá trình phấn đấu để trở thành người
tốt, con người mới chính quá trình đấu tranh để xóa bỏ cái cũ, cái xấu, xây
dựng cái tốt, cái mới từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện. Đó cũng chính quá trình tham gia thi đua, tranh đua hợp tác
không ngừng vươn lên của mỗi người. Đó cũng quá trình làm cho cái mới
ngày càng trở thành phổ biến trong đông đảo những người lao động, trong toàn
dân tộc, ngược lại làm cho cái cũ, cái xấu càng bị thu hẹp mất dần đi trong
đời sống xã hội chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:‘Lao động sáng tạo hội. Thi đua thì cải tạo
con người”. “Hiện nay ta mới hàng vạn chiến thi đua, từ nay chúng ta
phải có hàng triệu chiến sĩ thi đua”. Bởi vì: “Chiến sĩ thi đua là những con người
mới, những người luôn luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính, là những
người tôi trung của nhân dân, con hiếu của Tổ quốc’
Qua câu trích trên, Hồ Chí Minh đã đề cập tới tác dụng nhiều mặt của
phong trào thi đua yêu nước trong việc xây dựng, phát triển các phẩm chất
năng lực của những con người mới Việt Nam. Trong thi đua yêu nước ai nấy
phát huy được mọi khả năng của mình, sáng kiến xuất hiện trong công việc,
người tài xuất hiện. Do đó thi đua cải tạo con người phát triển tài năng của
con người trong lao động, trong công việc tiến tới cải tạo hội làm cho hội
tiến hóa, phát triển.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thi đua yêu nước một phương thức trong
xây dựng con người Việt Nam mới, còn xây dựng con người mới là mục tiêu xét
đến cùng của phong trào thi đua. Nói cách khác. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao
vai trò của phong trào thi đua yêu nước trong chiến lược xây dựng con người,
7
thậm chí quan trọng đến mức “Thi đua yêu nước. Yêu nước phải thi đua’’,
nhưng đây chỉ một phương thức chứ không phải phương thức duy nhất
trong chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới, nó là động lực thúc đẩy quá
trình.
1.4.3. Phát triển giáo dục - đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con
người mới
Giáo dục quá trình đào tạo, rèn luyện con người trở thành người lao
động, thành các công dân đủ năng lực làm chủ - những con người Việt Nam phát
triển đức, trí, thể, mỹ nghề thông qua việc dạy học. Việc dạy học
không chỉ giới hạn trong các trường đào tạo, còn quá trình tự học, tự đào
tạo đào tạo lại. học trong cuộc sống, học suốt đời. Trong giáo dục không chỉ
dạy chữ, dạy nghề chủ yếu dạy làm người. Muốn vậy, cần chú ý mấy điểm
sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện: đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, hội hóa giáo
dục. Xây dựng hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục. Xây dựng
danh mục ngành nghề chương trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Tiếp
tục đổi mới chương trình giáo dục. Tập trung đổi mới phương pháp dạy học.
Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cán bộ quản giáo dục.
Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa trường, lớp học. Tiếp tục mở rộng
quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Hoàn thiện hệ thống giáo dục
theo hướng liên thông. Tạo điều kiện để duy trì, củng cố và phát triển các trường
ngoài công lập. Tiếp tục triển khai Đề án xây dựng hội học tập. Lấy Hội
khuyến học các đoàn thể làm nòng cốt để thực hiện đề án này. Tổng kết, rút
kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tiếp tục phát
triển hiệu quả. Củng cố tăng cường phát triển hệ thống giáo dục cho người
lớn. Xây dựng kênh giáo dục truyền hình và các nội dung giáo dục trên mạng để
phát triển giáo dục từ xa.
Thứ hai, thực hiện công bằng hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển giáo
dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn giáo dục đối với trẻ em bị thiệt
thòi.
Thứ ba, đẩy lùi những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục.
Thứ tư, nâng cao khả năng chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục.
8
II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG
CON NGƯỜI
2.1.Sự cần thiết phải xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Con người Việt Nam đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa, với nền
kinh tế tri thức cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhiều thuận lợi
khó khăn đan xen. Qua những năm đổi mới, trong bối cảnh tình hình quốc tế
trong nước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam đã đạt được những
kết quả nhất định trong việc xây dựng con người, văn hóa. Nhờ đó, đất nước đã
đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc xây dựng con người, văn hóa còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “So với những thành quả trên lĩnh vực chính
trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa
chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác động hiệu quả xây dựng con
người môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối sống mặt xuống cấp
đáng lo ngại”. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
Đảng trong hội chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền
núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút
ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại
lai, trái với thuần phong, mỹ tục; tệ nạn hội một số loại tội phạmchiều
hướng gia tăng.
Vấn đề đặt ra hiện nay phải thấy hết thuận lợi khó khăn, nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về những ưu điểm và hạn chế để có biện pháp
xây dựng con người, văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điểm mấu chốt, sống còn hiện nay lấy lại lòng tin
của nhân dân. Phải rất coi trọng công tác dân vận; phải an trong để giải quyết
bên ngoài, kẻ thù bên trong nguy hiểm hơn kẻ thù bên ngoài. Cùng với quan
tâm phát triển kinh tế, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, đặc biệt phải đặt
lên hàng đầu và xuyên suốt phong cách quần chúng, dân chủ. Giảm tăng trưởng
kinh tế, sớm hoặc muộn sẽ khắc phục được, nhưng mất lòng tin của nhân dân
với Đảng và chế độ là mất tất cả.
2.2.Chức năng của giáo dục trong xây dựng con người
Sự hình thành phát triển của con người một quá trình biến đổi tổng
thể liên tục, toàn vẹn theo các giai đoạn lứa tuổi kế tiếp nhau. Mỗi giai đoạn
được nhận dạng bởi sự phát triển đặc trưng về thể chất, tâm những mối
9
quan hệ hội của lứa tuổi đó. Giữa các giai đoạn mối quan hệ mật thiết với
nhau: giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau, giai đoạn sau phát triển
hoàn thiện giai đoạn trước giúp cho nhân không ngừng đáp ứng những nhu
cầu của cuộc sống và hoạt động trong môi trường xã hội.
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp, thống nhất của chủ thể - nhà giáo
dục đối tượng người được giáo dục nhằm hình thành phát triển nhân
cách con người theo những yêu cầu của hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Đó một quá trình toàn vẹn được tổ chức một cách mục đích,
kế hoạch thông qua các loại hình hoạt động phong phú đa dạng nhằm chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của nhân loại.
Giáo dục là một trong những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến sự hình thành
phát triển của mỗi con người. Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch của nhà giáo dục đối với người được giáo dục nhằm hình thành phát
triển toàn diện nhân cách người được giáo dục theo những yêu cầu của hội
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thứ nhất, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành phát triển
con người. Lịch sử phát triển của giáo dục nhà trường đã chứng minh vai trò to
lớn của giáo dục trên mọi lĩnh vực trong đời sống hội. Đối với sự hình thành
và phát triển con người đặc biệt là nhân cách, thái độ thì giáo dục giữ vai trò chủ
đạo. Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ hai, giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh mà còn tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh theo những chiều hướng đó.- Giáo dục thể mang lại
những tiến bộ các nhân tố khác như bẩm sinh di truyền hoặc môi trường,
hoàn cảnh không thể được.Ví dụ: Trẻ con không cần yếu tố giáo dục, đến 2
tuổi sẽ biết đi, 3 tuổi sẽ biết nói ( đó là những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền
đem lại) nhưng tr không thể tự biết đọc, biết viết nếu không được dạy ( cái
mà chi có yếu tố giáo dục có thể đem lại).
Thứ ba, giáo dục tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết
tật, có thểđắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Nhờ sự can
thiệp sớm với những tác động đặc biệt những phương tiện hỗ trợ, giáo dục
thể phục hồi những người tật những chức năng đã mất, hoặc thể phát
triển trí tuệ như những trẻ bình thường nhờ những biện pháp giáo dục hòa nhập.
dụ,đối với những trẻ bị khuyết tật, thể sử dụng phương pháp giáo dục
10
chuyên biệt như sử dụng chữ nổi đối với trẻ khiếm thị, ngôn ngữ hình thể với trẻ
bị câm điếc bẩm sinh.
Thứ , giáo dục có thể uốn nắn, làm thay đổi những phẩm chất, những nét
tính cách, những hành vi, thói quen không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của
xã hội(do ảnh hưởng tiêu cực của môi trường, sự lôi kéo của bạn bè xấu…) giúp
học phát triển theo yêu cầu của nhà giáo dục. Đó chính là hiệu quả của quá trình
giáo dục lại đối với các trẻ em hư hoặc những người phạm pháp.
2.3.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện
nay
Trong xu thế hội nhập toàn cầu cùng sự bùng nổ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, giáo dục đóng vai trò ngày càng quan trọng, trở thành kim chỉ nam
cho sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc.
2.3.1.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển chung của con người
Cùng với sự phát triển của hội, vai trò của giáo dục trở nên đặc biệt
được coi trọng ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia. Vai trò của giáo
dục đối với xã hội được thể hiện ở 4 khía cạnh chính, bao gồm:
Nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc
Tri thức nhân loại thước đo sự thành công, phát triển bền vững của
hội. Vị thế của một đất nước được thể hiện ở sức mạnh tri thức toàn dân. Do đó,
vai trò của giáo dục đối với xã hội trước hết được thể hiện trong việc đào tạo tri
thức, nâng cao dân trí mọi dân tộc, quốc gia. Giáo dục và đào tạo góp phần nâng
cao trình độ dân trí mọi quốc gia nghĩa nâng cao trình độ hiểu biết chung
của người dân trên tất cả các lĩnh vực.
Nâng cao trình độ học vấn: Các quốc gia tiến hành phổ cập giáo dục theo
các cấp học, xóa nạn mù chữ, cung cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản cho toàn bộ
người dân. Giáo dục đảm bảo mặt bằng chung nhân dân đều được tiếp cận với
tri thức, từ đó nâng cao trình độ học vấn của mỗi cá nhân.
Nâng cao trình độ nhận thức: Hoạt động giáo dục đào tạo đảm bảo cho các
tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về giá trị đạo đức, văn hóa, thể chế
chính trị, hiến pháp pháp luật. Qua đó mỗi nhân thái độ hành vi
xử chuẩn mực.
Nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật: Trong thời đại mới, giáo dục giúp
người dân tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật. Con người
có cơ hội tiếp cận với internet, các phương tiện thông tin đại chúng, biết cách sử
dụng các thiết bị máy móc, công nghệ.
11
Thông qua hoạt động giáo dục và đào tạo, mặt bằng dân trí được nâng cao,
sở để khẳng định sức mạnh của quốc gia. Một đất nước sở hữu dân trí cao
có khả năng phát triển lớn và khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Ngược
lại, một đất nước không coi trọng giáo dục, đất nước đó chắc chắn sẽ bị diệt
vong.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, chức năng hội
của giáo dục càng thể hiện rõ nét ở vai trò nâng cao dân trí. Vì vậy, mỗi quốc gia
cần tập trung đẩy mạnh phổ cập giáo dục toàn dân, phát triển toàn diện yếu tố
con người để thích ứng nhanh với nền kinh tế tri thức.
Giáo dục và đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ
Cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, nguồn nhân lực trở thành
yếu tố quyết định nhất tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế tri thức. Mọi
quốc gia muốn phát triển nhanh chóng, vững mạnh cần dựa vào nguồn nhân lực
dồi dào, có chuyên môn cao đã qua đào tạo.
Để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, vai trò của giáo dục không thể
thay thế. Giáo dục đào tạo góp phần cung cấp nguồn nhân lực trình độ,
đáp ứng đủ số lượng và chất lượng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Điển hình là:
Đào tạo nguồn nhân lực trình độ chuyên môn cao:Giáo dục hướng đến
đào tạophát triển nguồn nhân lực trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề
cao,khả năng thực hành, chủ động sáng tạo, trách nhiệm trong công việc.
Qua đó tăng năng suất sử dụng lao động.
Nâng cao số lượng đội ngũ nhân lực trình độ: Giáo dục không chỉ nâng
cao chất lượng còn cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao với số lượng
lớn, xây dựng nguồn nhân lực còn thiếu hụt để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Đảm bảo cấu nguồn nhân lực đa dạng: Hoạt động giáo dục phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao một cách toàn diện, cơ cấu nguồn nhân lực đa dạng.
Đồng thời, giáo dục giúp luân chuyển cơ cấu nguồn nhân lực theo từng lĩnh vực
một cách hợp lý, ưu tiên những ngành nghề mang lại giá trị tri thức cao.
Bước đầu xây dựng nền kinh tế tri thức, Việt Nam tiến hành phổ cập giáo
dục trung học cơ sở, tuy nhiên trình độ lao động phổ thông còn thấp, lao động có
tay nghề cao còn hạn chế. Chính vậy cần ưu tiên phát triển giáo dục đào
tạo, đổi mới toàn diện hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục - đào tạo bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia
12
Giáo dục đào tạo không chỉ góp phần nâng cao dân trí, cung cấp nguồn
nhân lực trình độ trên tất cả, vai trò của giáo dục chính bảo vệ chế độ
chính trị của mỗi quốc gia. Vai trò được thể hiện qua 2 nội chính chính, bao
gồm:
Giáo dục công cụ bảo vệ thể chế chính trị: Giáo dục phương tiện
tuyên truyền pháp luật, đường lối chính sách của một quốc gia. Thông qua hoạt
động giáo dục, công dân đủ kiến thức, lòng yêu nước, lập trường chính trị
vững vàng trước những thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giáo dục góp phần củng cố quốc phòng - an ninh : Giáo dục mang sứ
mệnh bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Giáo dục con đường bền vững nhất để ổn định chính trị hội, tạo ra cuộc
cách mạng về tưởng chống lại những cuộc xung đột văn hóa trong thời đại
mới.
Đảng Nhà nước ta luôn coi giáo dục đào tạo quốc sách hàng đầu,
ưu tiên nhất trong các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - hội. Đầu
cho giáo dục tiền đề để Việt Nam phát triển kinh tế tri thức, củng cố quốc
phòng an ninh, hội nhập sâu rộng trên tinh thần hòa nhập nhưng không hòa tan.
Bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động
Vai trò của giáo dục đào tạo đối với hội còn được thể hiện trong quá
trình xây dựng đội ngũ lao động, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đào tạo nhân
lực trình độ cao quyết định sự thành công của nền kinh tế tri thức.
Xây dựng đội ngũ lao động: Giáo dục và đào tạo góp phần tạo ra lực lượng
lao động đông đảo cho đất nước. Người lao động tay nghề cao, trang bị đầy
đủ kiến thức kỹ năng để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của nền sản
xuất.
Bồi dưỡng nhân tài : Hoạt động giáo dục giúp phát hiện, bồi dưỡng
trọng dụng người tài trên tất cả các lĩnh vực. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân tài
phát huy năng lực phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Hiểu tầm quan trọng của giáo dục trong việc bồi dưỡng nhân tài, Đảng
Nhà nước luôn chú trọng đầu phát triển giáo dục toàn diện. Trong thời kỳ
mới, Việt Nam tiến hành hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, phát huy nội
lực của người Việt, nhiều chính sách thu hút nhân tài, tránh tình trạng chảy
máu chất xám.
13
2.3.2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển cá nhân con người.
thể thấy rằng, con người chủ thể chính trong hoạt động giáo dục
đào tạo. Giáo dục giúp lưu giữ, truyền đạt tri thức, kỹ năng từ thế hệ này sang
thế hệ khác, góp phần rèn luyện đạo đức hoàn thiện nhân cách của mỗi
nhân. Chính thế, vai trò của giáo dục đối với con người cùng to lớn,
không thể thay thế trong xã hội hiện đại.
Thứ nhất, giáo dục giúp con người trau dồi, tiếp thu, lĩnh hội những
kiến thức kỹ năng.
ai trò của giáo dục đào tạo đối với con người được thể hiện thông qua
việc trang bị hệ thống kiến thức kỹ năng cần thiết cho mỗi nhân. Từ đó,
con người nâng cao trình độ, tăng hiệu quả lao động, nâng cao chất lượng cuộc
sống, thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, xã hội.
Dưới đây những vai trò của giáo dục trong việc đào tạo kiến thức kỹ
năng cho con người, bao gồm:
Giáo dục mang lại trình độ học vấn: Đối với mỗi nhân, giáo dục mang
lại trình độ học vấn, kiến thức kỹ năng. Nhờ giáo dục, con người kế thừa,
phát huy những tri thức đã có, tìm tòi những kiến thức mới, ứng dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật để phục vụ sự phát triển chung.
Nâng cao chất lượng cuộc sống: Vai trò của giáo dục và đào tạo nằm ở việc
trang bị những kiến thức kỹ năng cần thiết để con người sản xuất hàng hóa,
tạo ra của cải xã hội. Giáo dục góp phần gia tăng năng suất lao động của mỗi cá
nhân, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tăng kỹ năng lao động: Qua hoạt động giáo dục, kỹ năng lao động của con
người ngày càng được nâng cao. Tăng kỹ năng lao động kết hợp tăng năng suất
sẽ là động lực để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Giúp con người hòa nhập vào cộng đồng: Giáo dục góp phần thay đổi bộ
mặt hội, hàn gắn vết thương, xóa bỏ những rào cản tồn tại giữa người với
người. Thông qua những hoạt động của nhân tập thể, các mối quan hệ
hội, giáo dục giúp con người hòa nhập vào cộng đồng.
Giúp con người thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, hội: Ý nghĩa của
giáo dục đối với con người được thể hiện sự chủ động trước những thay đổi
của môi trường xung quanh. Giáo dục giúp mỗi nhân khả năng giải quyết
các vấn đề, đủ kiến thức để thích nghi tốt nhất với điều kiện tự nhiên
hội.
Thứ hai, giáo dục có vai trò rèn luyện đạo đức và nhân cách con người
14
Giáo dục một quá trình lâu dài, một hiện tượng hội đặc biệt, lấy con
người làm trung tâm. Vai trò của giáo dục đối với con người không chỉ dừng lại
cung cấp kiến thức kỹ năng, quan trọng hơn, giáo dục hướng tới rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức và hoàn thiện nhân cách.
Vai trò của giáo dục trong rèn luyện đạo đức hoàn thiện nhân cách con
người được thể hiện rõ nét như sau:
Giáo dục giúp con người rèn luyện đạo đức: Giáo dục mang trong mình sứ
mệnh rõ ràng mục tiêu cao cả dạy làm người, rèn luyện đạo đức. Giáo dục
lên án cái xấu, hướng mỗi nhân tới chân - thiện - mỹ, thái độ hành vi
ứng xử chuẩn mực.
Giáo dục giúp con người hoàn thiện nhân cách: Vai trò của giáo dục đào
tạo định hướng, dẫn dắt sự hình thành phát triển nhân cách của con người.
Một nền giáo dục tiên tiến, đi trước dẫn đường cho nhân cách, điều chỉnh các
yếu tố nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát triển nhân cách theo hướng tích cực.
Giáo dục giúp con người sống trách nhiệm với bản thân, gia đình,
hội: Giáo dục cung cấp cho con người nguồn tri thức và kỹ năng để tham gia các
hoạt động tổ chức hội, xây dựng đời sống văn minh, hạnh phúc. Con người
nền tảng giáo dục tốt sẽ luôn sống trách nhiệm với chính bản thân, gia
đình và xã hội.
III. LIÊN HỆ BẢN THÂN
3.1. Liên hệ xây dựng nâng cao năng lực của bản thân
Một là, xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập:
Ngay từ đầu môn học giảng viên phải giúp cho sinh viên nhận thức đúng,
ràng về mục đích nội dung trọng tâm cũng như phương pháp học tập của
môn học. Sinh viên ngay từ đầu sẽ phải xác định cho mình mục đích ràng
học để có tri thức, kĩ năng phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của mình sau này.
Từ nhận thức như vậy người học mới tinh thần tích cực đối với hoạt động tự
học do đó, mới ý thức thường xuyên nâng cao năng lực tự học của bản
thân.
Hai là, xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kỳ ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ
và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải
được xác định với tính hướng đích cao. Tức kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm
chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật ràng, nhất quán cho từng thời
điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
15
Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái là cốt lõi quan trọng để ưu
tiên tác động trực tiếp dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải
thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được
trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp logic về cả nội dung lẫn
thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục
theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến
hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
Ba là, phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ,
hoạt động học tập trong sinh viên
Trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ thông tin trên toàn cầu diễn ra
nhanh chóng, hoạt động học tập của sinh viên không chỉ hẹp trong phạm vi
nhà trường mà còn mở rộng ra nhiều môi trường xã hội khác nhau. Vì vậy, thông
tin một trong những yếu tố bản, cần thiết để sinh viên bổ sung hoàn
thiện vốn tri thức nghề nghiệp cho bản thân. Sau khi thu nhận thông tin, sinh
viên phải biết cách xử lý, chọn lọc, phân loại thông tin nhằm phục vụ cho
chuyên môn, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ nghề nghiệp, làm giàu vốn tri thức
cho bản thân. Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ
hoạt động học tập trong sinh viên góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động học
tập và nghiên cứu khoa học cho bản thân sinh viên.
Bốn là, ây dựng thói quen học tập tích cực, nắm vững kiến thức chuyên x
môn và phương pháp học tập khoa học trong sinh viên
Việc hình thành thói quen học tập tích cực rất quan trọng, giúp cho
quá trình học tập, đặc biệt tự học diễn ra liên tục lâu dài. Để được một
thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học chọn lọc, học đam học
quá trình. Để nắm vững tri thức chuyên môn,sinh viên phải vận dụng sáng tạo
các nguyên tắc, quan điểm, phương pháp luận biện chứng duy vật vào nắm bắt
hệ thống khái niệm, đồng thời phải những hiểu biết về các môn khoa học
bản, liên ngành, kiến thức về đời sống hội. Sinh viên cần nhạy bén, linh hoạt
khi lựa chọn phương pháp học tập, tích lũy chuyên môn phù hợp với khả năng
của bản thân.
Năm là, âng cao năng lực trí tuệ và tư duy, rèn luyện khả năng tự học n
Hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu: Bước ra khỏi bậc học Phổ
thông và lên bậc học Cao đẳng, Đại học sinh viên phải tiếp xúc với phương pháp
học mới tự hình thành cho mình thói quen tự học, tự nghiên cứu. Việc hình
thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho quá trình học tập,
16
đặc biệt tự học diễn ra liên tục lâu dài. Để được một thói quen tự học
tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam mê và học có quá trình. Kho tàng
kiến thức tận, nguồn tài liệu tham khảo cho môn học cũng rất phong phú,
sinh viên khi đọc tài liệu phải biết chọn lọc, cần tìm hiểu kĩ, lựa chọn đúng
những tri thức và kỹ năng cần được trang bị, tránh cách học dàn trải, hời hợt, cái
gì cũng biết nhưng chỉ loáng thoáng, không hiểu rõ bản chất của vấn đề.
3.2. Liên hệ xây dựng nâng cao ý thức, lối sống đạo đức của bản thân
Một là, cần nâng cao nhận thức của bản thân về vai trò, vị trí của đạo đức
sinh viên; coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục nhằm xây dựng đời sống đạo
đức, lối sống đạo đức lành mạnh, trong sáng cho sinh viên. Xác định đây là công
việc của cả xã hội; có định hướng đúng cho bản thân về mặt phẩm chất, tư cách,
nguyên tắc đạo đức. Huy động các phương tiện thông tin đại chúng biểu dương
kịp thời tập thể, nhân điển hình tiên tiến, phê phán những biểu hiện lệch lạc
trong đạo đức, lối sống sinh hoạt văn hoá của sinh viên. Tuyên truyền rộng
rãi cuộc vận động sinh viên “Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”.
Hai là, đẩy mạnh các phong trào “nói lời hay, làm việc tốt” trở thành phổ
biến trong xã hội; đẩy mạnh xã hội hoá việc xây dựng những quy tắc, quy phạm,
chuẩn mực đạo đức, làm tiền đề xây dựng lối sống văn hoá trong các nhà
trường.
Ba là,nâng cao năng lực của bản thân trong lĩnh vực xây dựng đời sống văn
hoá, đời sống đạo đức của sinh viên trong các trường học; tổ chức thường xuyên
các hoạt động văn hóa thể thao lành mạnh, hấp dẫn, tạo sân chơi bổ ích cho sinh
viên để họ tránh xa các tệ nạn xã hội.
Bốn là,chú trọng việc dự báo các xu hướng phát triển của đạo đức trong đời
sống sinh viên của các bạn trong lớp xung quanh; kịp thời phát hiện những
nhân tố mới để tuyên truyền nhân rộng, cung cấp những luận cứ khoa học cho
việc hình thành những phương pháp về xây dựng đời sống đạo đức, văn hoá
trong nhà trường.
Năm , mở rộng giao lưu, hợp tác với mọi người bạn trong nước
quốc tế; khuyến khích mọi người tham gia các hoạt động giao lưu, hợp tác văn
hoá với các trường học tiên tiến ở khu vực và thế giới nhằm tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hoá nhân loại kinh nghiệm tổ chức xây dựng đời sống văn hóa
trong trường học. Từ đó, kế thừa phát huy những giá trị đạo đức toàn cầu,
17
loại bỏ những quan niệm đạo đức cũ, cổ hủ, lỗi thời không còn phù hợp với tình
hình hiện nay.
18
PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh một hình mẫu của con người nhân
văn của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí minh là sự thống nhất giữa
lòng yêu thương con người với lòng tin, sự tôn trọng y chí cùng hành động
triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng hội, giải phóng con người. Tính nhân
văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết.ở
Hồ Chí Minh nhân dân không phải một khái niệm chung chung.mơ hồ
cộng đồng việt nam là từng con người,từng cuộc đời ,từng hoàn cảnh cụ thể.cho
đến lúc đi xa,người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển tiến bộ
của đảng, của dân tộc;người vẫn dành muôn ngàn tình thương yêu cho mọi
người. Lời dạy của bác muôn vàng kính yêu cũng chính tâm niệm của mỗi
thanh niên.đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặt biệt đối với
thế hệ trẻ,đó chính niềm cổ lớn lao, lao động mạnh mẽ đê tuổi trẻ tự
tin,vững bước.
Đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH đã đem lại rất nhiều lợi ích phát triển
nhưng đồng thời đã mang lại những thách thức trong vấn đề nhận thức, thay
đổi nhân cách của sinh viên hiện nay. Quá trình giáo dục đạo đức, tưởng cho
sinh viên một quá trình lâu dài phức tạp. đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực
không ngừng của tất cả mọi người, ở mọi phạm vi, mức độ và cả chính bản thân
sinh viên. Vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để cho việc định hướng tư tưởng
gần gũi ăn nhập với hành động hiện thực. Do đó, muốn hoàn thành mục tiêu
giáo dục con người toàn diện thì những giải pháp về nâng cao năng lực, giáo dục
chuyên môn, kỹ năng, giáo dục đạo đức phải được coi trọng quan tâm hơn
nữa để sinh viên thể trở thành những người tiếp nối xuất sắc những truyền
thống vẻ vang của dân tộc, lực lượng hùng mạnh, tiên phong trong sự nghiệp
đổi mới của đất nước, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
hội như sự kỳ vọng của toàn xã hội. Hành trang vào đời mỗi sinh viên không
chỉ mang theo vốn kiến thức được học để thành công mỗi sinh viên phải
người có đạo đức và lối sống tốt và là người có năng lực.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
2.Bộ Giáo dục Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác Lênin, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
3.Lê Sỹ Thắng, tưởng Hồ Chí Minh về con người về chính sách hội,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. GS, TS. Đỗ Huy, Trưởng phòng Mỹ học, Viện Triết học, tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng con người, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí Báo Điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-
minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-con-
nguoi-phat-trien-giao-duc-nang-cao-dan-tri-1993
5.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng con người sự vận dụng
tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
https://nlv.gov.vn/phan-1-hcm-anh-hung-giai-phong-dan-toc/tu-tuong-ho-chi-
minh-ve-con-nguoi-ve-xay-dung-con-nguoi-va-su-van-dung-tu-tuong-do-trong-
cong-cuoc-doi-moi-o-viet-nam-hien-nay.html
6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
https://baothanhhoa.vn/thoi-su/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-con-
nguoi/118914.htm
7.Nhiệm vụ của ngành giáo dục trong xây dựng và phát triển văn hoá, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển vững đất nước
http://tanphutrung.dongthap.edu.vn/tin-tuc/thong-tin-can-biet/nhiem-vu-cua-
nganh-giao-duc-trong-xay-dung-va-phat-trien-van.html
20
| 1/21

Preview text:

Đề 2: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và làm rõ
vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con người (liên hệ bản thân).
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI..........2
1.1.Quan điểm Hồ Chí Minh về con người................................................................2
1.1.1. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể.................................2
1.1.2. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, lịch sử.........................2
1.1.3. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội.............2
1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người........................................3
1.3.Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người..........................................4
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương pháp xây dựng con người mới......6
1.4.1. Xây dựng đời sống mới để xây dựng con người mới....................................6
1.4.2.Phát động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con người
mới.........................................................................................................................6
1.4.3. Phát triển giáo dục - đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con người
mới......................................................................................................................... 8
II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI
...................................................................................................................................... 8
2.1.Sự cần thiết phải xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay..........8
2.2.Chức năng của giáo dục trong xây dựng con người.............................................9
2.3.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện nay....11
2.3.1.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển chung của con người...................11
2.3.2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển cá nhân con người......................13
III. LIÊN HỆ BẢN THÂN..........................................................................................15
3.1. Liên hệ xây dựng nâng cao năng lực của bản thân............................................15
3.2. Liên hệ xây dựng nâng cao ý thức, lối sống đạo đức của bản thân...................16
PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................19 PHẦN MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
trọng vấn để xây dựng con người trong thời chiến cũng như thời bình theo nhiều
cách khác nhau. Những hành động cử chỉ của Bác, lời nói đã để lại nhiều bài
học cho chúng ta học hỏi. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận
dụng tư tưởng của Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con
người Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo.
Đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng
thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay, trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế đặt ra rất nhiều những cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức đối
với con người. Vì vậy giáo dục xây dựng con người, đồng thời không ngừng
nâng cao trình độ văn hóa không nằm ngoài mục đích xây dựng con người mới
xã hội mới đưa đất nước đi lên dân giàu nước mạnh.
Ý nghĩa của bài tiểu luận Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và làm rõ vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con
người (liên hệ bản thân)
sẽ soi rõ con đường mà Đảng và nhân dân ta đã và
đang đi, đề cao nhiệm vụ xây dựng đất nước, xây dựng con người, nâng cao tư
duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức, cách mạng năng
lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta. 1 PHẦN NỘI DUNG
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1.Quan điểm Hồ Chí Minh về con người
1.1.1. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể

Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,
thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn hướng đến cái chân - thiện-mỹ,
mặc dù “có thế này, thế khác”. Hồ Chí Minh xem xét con người trong tính đa
dạng của nó: đa dạng trong các quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp,tầng
lớp, đồng chí, đồng bào,…); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả
năng (“cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại ở
nơi bàn tay”, “mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác,
nhưng đều là nòi giống Lạc Hồng”); đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều
kiện sống và làm việc,…
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối
lập:thiện - ác, hay - dở, hiền - dữ… bao gồm cả tính người (mặt xã hội) và tính
bản năng (mặt sinh học) của con người. Theo Người, con người có tốt, có
xấu,nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
1.1.2. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng hẹp khác
nhau.Nghĩa hẹp: con người trong phạm vi gia đình: anh em, họ hàng, bè bạn...
Nghĩa rộng: đồng bào cả nước. Mở rộng tối đa: con người trên phạm vi thế giới,
là cả loài người. Theo nghĩa rộng, Bác thường dùng trong một số trường hợp nói
về “phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai
ai”,…nhưng thường đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung.
Phổ biến nhất, Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ cụ
thể hiện thực, khách quan, chứ không phải kiểu con người chung chung trừu
tượng. Con người được đặt trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo
giới tính, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng
dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân
tộc bị áp bức, bốn phương vô sản, nhân loại yêu chuộng hòa bình,…).
1.1.3. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động
sản xuất, con người xác lập các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với
người.Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, 2
con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loại người.
1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Thứ nhất, con người là mục tiêu của cách mạng. Nó được cụ thể hóa trong
ba giai đoạn cách mạng: giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
- tiến lên xã hội chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Thứ hai, giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc,
giành lại độc lập cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa
Thứ ba, giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội không
có chế độ người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền
vững, văn hóa tiên tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất
là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này
đối với giai cấp khác; xóa bỏ sự bất công, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng
kinh tế-xã hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp,
các điều kiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai cấp và xác lập một xã hội
không có giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các giai cấp cần lao,
trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Phạm vi thế giới là giải
phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.
Thứ năm, giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch
con người; xóa bỏ các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho mọi
người được hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát huy năng sáng tạo, làm
chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện theo đúng
bản chất tốt đẹp của con người. Con người trong giải phóng con người là cá
nhân mỗi con người. Phạm vi thế giới là giải phóng loài người.
Các giải phóng kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một
phần giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải
phóng dân tộc mở đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Con người là động lực của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, con người là
vốn quý nhất, là động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”; “trong bầu trời không 3
gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của
nhân dân”. “Ý dân là ý trời”. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là
những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ
bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá
trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt,
niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng.
1.3.Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Xây dựng con người có ý nghĩa quan trọng, là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, là vấn đề chiến lược. Xây dựng
con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất
nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con người.
“Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người”16 là công việc
lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của
văn hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt
tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong
từng giai đoạn cách mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song
song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa. “Trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc
đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối
với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người
xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ
nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người
xã hội chủ nghĩa; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ
nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. “Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ
nghĩa” cần được hiểu trước hết cần có những con người với những nét tiêu biểu
của xã hội xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã hội 4
chủ nghĩa. Đó là những con người đi trước, làm gương lôi cuốn người khác theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách
mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông là trung gian, muốn củng cố và mở rộng
phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến”.
Nội dung xây dựng con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là
những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức
xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện bao gồm:
· Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình
· Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
· Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
· Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.
Xây dựng con người phải bằng những phương pháp khoa học, cách mạng.
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế,
tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là
người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu
thân, chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ” (làm những việc có lợi
cho nước, cho dân). Văn hóa phương Đông cho thấy “một tấm gương sống có
giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và “tiên trách kỷ, hậu trách
nhân”. Hồ Chí Minh thường nhắc lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây
dựng con người. Người nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để
giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vai trò quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở
“hiền, giữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Theo Người,
học sinh như tờ giấy trắng, vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Chú trọng vai trò của
tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các phong trào
cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào
quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. 5
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương pháp xây dựng con người mới
Có nhiều cách thức xây dựng con người mới. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng
con người mới là bộ phận hợp thành
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: trong thực hiện cần chú ý ba phương pháp sau:
1.4.1. Xây dựng đời sống mới để xây dựng con người mới.
Thi đua yêu nước để xây dựng con người mới. 
Giáo dục - đào tạo con người mới.
Về xây dựng đời sống mới. Năm 1947 sau hơn một năm giành được chính
quyền. Hồ Chí Minh hoàn thành hai tác phẩm Đời sống mới bút danh Tân Sinh
và Sửa đổi lối Làm việc bút danh X.Y.Z. Nội dung hai tác phẩm bổ sung cho
nhau nhằm xác định các tiêu chuẩn của con người mới của cán bộ, đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới - vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền.
Đồng thời, nêu các phương pháp bồi dưỡng, đào tạo người Việt Nam mới thông qua hoạt động: 
Xây dựng đời sống mới (ăn, mặc, ở, đi lại. làm việc), môi trường sống vệ sinh bảo vệ sức khỏe. 
Chống giặc dốt, nâng cao dân trí, xây dựng nền giáo dục dân chủ. 
Giáo dục đạo đức công dân, xây dựng nền đạo đức cách mạng Việt Nam,
chống chủ nghĩa cá nhân. 
Xây dựng phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả của cán bộ, đảng
viên nói riêng và toàn dân nói chung.
Đặc biệt Sửa đổi lối làm việc góp phần to lớn vào việc giáo dục, cán bộ,
đảng viên về tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách lêninnít dể họ trở
thành người cán bộ cách mạng trung thành với sự nghiệp của Đảng và của nhân
dân, góp phần đẩy mạnh kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.
1.4.2.Phát động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con người mới.
Trong lời kêu gọi Thi đua yêu nước. Hồ Chí Minh không trực tiếp đề cập
đến vấn đề xây dựng con người mới trong phong trào thi đua. Song, trên thực tế
chỉ đạo thực hiện phong trào và chủ đích thực sự của Người chính là: “ Mỗi
người tốt, mỗi việc tốt là những bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa
đẹp”. Nghĩa là qua phong trào thi đua và trải qua rèn luyện, thử thách trong thi 6
đua đã hình thành mỗi người những việc tốt, phẩm chất tốt để hình thành một
lớp người tốt, lớp người mới để “dân tộc ta là một rừng hoa đẹp". Điều này cũng
đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta muốn trở thành người tốt, trở thành người Việt
Nam mới thì chỉ có gắn mình vào phong trào thi đua yêu nước sôi nổi và chính
qua phong trào đó bản thân tự đánh giá, tự điều chỉnh để có nhiều việc tốt mà trở thành người tốt.
Bởi vì, đối với mỗi người cách mạng, mỗi người lao động chân chính, chắc
không ai có thể tự cho mình đã có được trọn vẹn những tiêu chuẩn của con
người mới và bản thân mình không có gì phải làm cho tốt đẹp hơn nữa. Thực ra,
ở mỗi người đều có mặt mới mặt cũ, có cái tốt cái xấu. Vấn đề chỉ là ở chỗ mặt
nào nhiều hơn và mỗi người phải phấn đấu sao cho những mặt tốt ngày càng
nhiều hơn, những cái xấu ngày càng ít. Quá trình phấn đấu để trở thành người
tốt, con người mới chính là quá trình đấu tranh để xóa bỏ cái cũ, cái xấu, xây
dựng cái tốt, cái mới từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện. Đó cũng chính là quá trình tham gia thi đua, tranh đua và hợp tác
không ngừng vươn lên của mỗi người. Đó cũng là quá trình làm cho cái mới
ngày càng trở thành phổ biến trong đông đảo những người lao động, trong toàn
dân tộc, ngược lại làm cho cái cũ, cái xấu càng bị thu hẹp và mất dần đi trong
đời sống xã hội chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: ‘‘Lao động sáng tạo xã hội. Thi đua thì cải tạo
con người”. Và “Hiện nay ta mới có hàng vạn chiến sĩ thi đua, từ nay chúng ta
phải có hàng triệu chiến sĩ thi đua”. Bởi vì: “Chiến sĩ thi đua là những con người
mới, những người luôn luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính, là những
người tôi trung của nhân dân, con hiếu của Tổ quốc’
Qua câu trích trên, Hồ Chí Minh đã đề cập tới tác dụng nhiều mặt của
phong trào thi đua yêu nước trong việc xây dựng, phát triển các phẩm chất và
năng lực của những con người mới Việt Nam. Trong thi đua yêu nước ai nấy
phát huy được mọi khả năng của mình, sáng kiến xuất hiện trong công việc,
người tài xuất hiện. Do đó thi đua cải tạo con người và phát triển tài năng của
con người trong lao động, trong công việc tiến tới cải tạo xã hội làm cho xã hội tiến hóa, phát triển.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thi đua yêu nước là một phương thức trong
xây dựng con người Việt Nam mới, còn xây dựng con người mới là mục tiêu xét
đến cùng của phong trào thi đua. Nói cách khác. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao
vai trò của phong trào thi đua yêu nước trong chiến lược xây dựng con người, 7
thậm chí quan trọng đến mức “Thi đua là yêu nước. Yêu nước phải thi đua’’,
nhưng đây chỉ là một phương thức chứ không phải là phương thức duy nhất
trong chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới, nó là động lực thúc đẩy quá trình.
1.4.3. Phát triển giáo dục - đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới
Giáo dục là quá trình đào tạo, rèn luyện con người trở thành người lao
động, thành các công dân đủ năng lực làm chủ - những con người Việt Nam phát
triển đức, trí, thể, mỹ và có nghề thông qua việc dạy và học. Việc dạy và học
không chỉ giới hạn trong các trường đào tạo, mà còn là quá trình tự học, tự đào
tạo và đào tạo lại. học trong cuộc sống, học suốt đời. Trong giáo dục không chỉ
dạy chữ, dạy nghề mà chủ yếu dạy làm người. Muốn vậy, cần chú ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện: đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa giáo
dục. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục. Xây dựng
danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Tiếp
tục đổi mới chương trình giáo dục. Tập trung đổi mới phương pháp dạy và học.
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa trường, lớp học. Tiếp tục mở rộng
quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Hoàn thiện hệ thống giáo dục
theo hướng liên thông. Tạo điều kiện để duy trì, củng cố và phát triển các trường
ngoài công lập. Tiếp tục triển khai Đề án xây dựng xã hội học tập. Lấy Hội
khuyến học và các đoàn thể làm nòng cốt để thực hiện đề án này. Tổng kết, rút
kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tiếp tục phát
triển có hiệu quả. Củng cố tăng cường phát triển hệ thống giáo dục cho người
lớn. Xây dựng kênh giáo dục truyền hình và các nội dung giáo dục trên mạng để
phát triển giáo dục từ xa.
Thứ hai, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển giáo
dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn và giáo dục đối với trẻ em bị thiệt thòi.
Thứ ba, đẩy lùi những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục.
Thứ tư, nâng cao khả năng chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục. 8
II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI
2.1.Sự cần thiết phải xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Con người Việt Nam đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa, với nền
kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có nhiều thuận lợi và
khó khăn đan xen. Qua những năm đổi mới, trong bối cảnh tình hình quốc tế và
trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam đã đạt được những
kết quả nhất định trong việc xây dựng con người, văn hóa. Nhờ đó, đất nước đã
đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc xây dựng con người, văn hóa còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “So với những thành quả trên lĩnh vực chính
trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa
chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con
người và môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp
đáng lo ngại”.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền
núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút
ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại
lai, trái với thuần phong, mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải thấy hết thuận lợi và khó khăn, nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về những ưu điểm và hạn chế để có biện pháp
xây dựng con người, văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điểm mấu chốt, sống còn hiện nay là lấy lại lòng tin
của nhân dân. Phải rất coi trọng công tác dân vận; phải an trong để giải quyết
bên ngoài, vì kẻ thù bên trong nguy hiểm hơn kẻ thù bên ngoài. Cùng với quan
tâm phát triển kinh tế, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, đặc biệt phải đặt
lên hàng đầu và xuyên suốt phong cách quần chúng, dân chủ. Giảm tăng trưởng
kinh tế, sớm hoặc muộn sẽ khắc phục được, nhưng mất lòng tin của nhân dân
với Đảng và chế độ là mất tất cả.
2.2.Chức năng của giáo dục trong xây dựng con người
Sự hình thành và phát triển của con người là một quá trình biến đổi tổng
thể liên tục, toàn vẹn theo các giai đoạn lứa tuổi kế tiếp nhau. Mỗi giai đoạn
được nhận dạng bởi sự phát triển đặc trưng về thể chất, tâm lý và những mối 9
quan hệ xã hội của lứa tuổi đó. Giữa các giai đoạn có mối quan hệ mật thiết với
nhau: giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau, giai đoạn sau phát triển và
hoàn thiện giai đoạn trước giúp cho cá nhân không ngừng đáp ứng những nhu
cầu của cuộc sống và hoạt động trong môi trường xã hội.
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp, thống nhất của chủ thể - nhà giáo
dục và đối tượng – người được giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân
cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Đó là một quá trình toàn vẹn được tổ chức một cách có mục đích, có
kế hoạch thông qua các loại hình hoạt động phong phú và đa dạng nhằm chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của nhân loại.
Giáo dục là một trong những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến sự hình thành
phát triển của mỗi con người. Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch của nhà giáo dục đối với người được giáo dục nhằm hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách người được giáo dục theo những yêu cầu của xã hội
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thứ nhất, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển
con người. Lịch sử phát triển của giáo dục nhà trường đã chứng minh vai trò to
lớn của giáo dục trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Đối với sự hình thành
và phát triển con người đặc biệt là nhân cách, thái độ thì giáo dục giữ vai trò chủ
đạo. Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ hai, giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh mà còn tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh theo những chiều hướng đó.- Giáo dục có thể mang lại
những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường,
hoàn cảnh không thể có được.Ví dụ: Trẻ con không cần yếu tố giáo dục, đến 2
tuổi sẽ biết đi, 3 tuổi sẽ biết nói ( đó là những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền
đem lại) nhưng trẻ không thể tự biết đọc, biết viết nếu không được dạy ( là cái
mà chi có yếu tố giáo dục có thể đem lại).
Thứ ba, giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết
tật, có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Nhờ sự can
thiệp sớm với những tác động đặc biệt là những phương tiện hỗ trợ, giáo dục có
thể phục hồi ở những người có tật những chức năng đã mất, hoặc có thể phát
triển trí tuệ như những trẻ bình thường nhờ những biện pháp giáo dục hòa nhập.
Ví dụ,đối với những trẻ bị khuyết tật, có thể sử dụng phương pháp giáo dục 10
chuyên biệt như sử dụng chữ nổi đối với trẻ khiếm thị, ngôn ngữ hình thể với trẻ bị câm điếc bẩm sinh.
Thứ tư, giáo dục có thể uốn nắn, làm thay đổi những phẩm chất, những nét
tính cách, những hành vi, thói quen không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của
xã hội(do ảnh hưởng tiêu cực của môi trường, sự lôi kéo của bạn bè xấu…) giúp
học phát triển theo yêu cầu của nhà giáo dục. Đó chính là hiệu quả của quá trình
giáo dục lại đối với các trẻ em hư hoặc những người phạm pháp.
2.3.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện nay
Trong xu thế hội nhập toàn cầu cùng sự bùng nổ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, giáo dục đóng vai trò ngày càng quan trọng, trở thành kim chỉ nam
cho sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc.
2.3.1.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển chung của con người
Cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của giáo dục trở nên đặc biệt
được coi trọng và là ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia. Vai trò của giáo
dục đối với xã hội được thể hiện ở 4 khía cạnh chính, bao gồm:
Nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc
Tri thức nhân loại là thước đo sự thành công, phát triển bền vững của xã
hội. Vị thế của một đất nước được thể hiện ở sức mạnh tri thức toàn dân. Do đó,
vai trò của giáo dục đối với xã hội trước hết được thể hiện trong việc đào tạo tri
thức, nâng cao dân trí mọi dân tộc, quốc gia. Giáo dục và đào tạo góp phần nâng
cao trình độ dân trí ở mọi quốc gia nghĩa là nâng cao trình độ hiểu biết chung
của người dân trên tất cả các lĩnh vực.
Nâng cao trình độ học vấn: Các quốc gia tiến hành phổ cập giáo dục theo
các cấp học, xóa nạn mù chữ, cung cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản cho toàn bộ
người dân. Giáo dục đảm bảo mặt bằng chung nhân dân đều được tiếp cận với
tri thức, từ đó nâng cao trình độ học vấn của mỗi cá nhân.
Nâng cao trình độ nhận thức: Hoạt động giáo dục đào tạo đảm bảo cho các
tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về giá trị đạo đức, văn hóa, thể chế
chính trị, hiến pháp và pháp luật. Qua đó mỗi cá nhân có thái độ và hành vi cư xử chuẩn mực.
Nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật: Trong thời đại mới, giáo dục giúp
người dân tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật. Con người
có cơ hội tiếp cận với internet, các phương tiện thông tin đại chúng, biết cách sử
dụng các thiết bị máy móc, công nghệ. 11
Thông qua hoạt động giáo dục và đào tạo, mặt bằng dân trí được nâng cao,
là cơ sở để khẳng định sức mạnh của quốc gia. Một đất nước sở hữu dân trí cao
có khả năng phát triển lớn và khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Ngược
lại, một đất nước không coi trọng giáo dục, đất nước đó chắc chắn sẽ bị diệt vong.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, chức năng xã hội
của giáo dục càng thể hiện rõ nét ở vai trò nâng cao dân trí. Vì vậy, mỗi quốc gia
cần tập trung đẩy mạnh phổ cập giáo dục toàn dân, phát triển toàn diện yếu tố
con người để thích ứng nhanh với nền kinh tế tri thức.
Giáo dục và đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ
Cùng với sự bùng nổ của khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực trở thành
yếu tố quyết định nhất tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế tri thức. Mọi
quốc gia muốn phát triển nhanh chóng, vững mạnh cần dựa vào nguồn nhân lực
dồi dào, có chuyên môn cao đã qua đào tạo.
Để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, vai trò của giáo dục là không thể
thay thế. Giáo dục và đào tạo góp phần cung cấp nguồn nhân lực có trình độ,
đáp ứng đủ số lượng và chất lượng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Điển hình là:
Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao:Giáo dục hướng đến
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề
cao, có khả năng thực hành, chủ động sáng tạo, có trách nhiệm trong công việc.
Qua đó tăng năng suất sử dụng lao động.
Nâng cao số lượng đội ngũ nhân lực có trình độ: Giáo dục không chỉ nâng
cao chất lượng mà còn cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao với số lượng
lớn, xây dựng nguồn nhân lực còn thiếu hụt để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Đảm bảo cơ cấu nguồn nhân lực đa dạng: Hoạt động giáo dục phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao một cách toàn diện, cơ cấu nguồn nhân lực đa dạng.
Đồng thời, giáo dục giúp luân chuyển cơ cấu nguồn nhân lực theo từng lĩnh vực
một cách hợp lý, ưu tiên những ngành nghề mang lại giá trị tri thức cao.
Bước đầu xây dựng nền kinh tế tri thức, Việt Nam tiến hành phổ cập giáo
dục trung học cơ sở, tuy nhiên trình độ lao động phổ thông còn thấp, lao động có
tay nghề cao còn hạn chế. Chính vì vậy cần ưu tiên phát triển giáo dục và đào
tạo, đổi mới toàn diện hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục - đào tạo bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia 12
Giáo dục – đào tạo không chỉ góp phần nâng cao dân trí, cung cấp nguồn
nhân lực có trình độ mà trên tất cả, vai trò của giáo dục chính là bảo vệ chế độ
chính trị của mỗi quốc gia. Vai trò được thể hiện qua 2 nội chính chính, bao gồm:
Giáo dục là công cụ bảo vệ thể chế chính trị: Giáo dục là phương tiện
tuyên truyền pháp luật, đường lối chính sách của một quốc gia. Thông qua hoạt
động giáo dục, công dân có đủ kiến thức, lòng yêu nước, lập trường chính trị
vững vàng trước những thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giáo dục góp phần củng cố quốc phòng - an ninh : Giáo dục mang sứ
mệnh bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Giáo dục là con đường bền vững nhất để ổn định chính trị xã hội, tạo ra cuộc
cách mạng về tư tưởng chống lại những cuộc xung đột văn hóa trong thời đại mới.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
ưu tiên nhất trong các chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đầu
tư cho giáo dục là tiền đề để Việt Nam phát triển kinh tế tri thức, củng cố quốc
phòng an ninh, hội nhập sâu rộng trên tinh thần hòa nhập nhưng không hòa tan.
Bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động
Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với xã hội còn được thể hiện trong quá
trình xây dựng đội ngũ lao động, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đào tạo nhân
lực trình độ cao quyết định sự thành công của nền kinh tế tri thức.
Xây dựng đội ngũ lao động: Giáo dục và đào tạo góp phần tạo ra lực lượng
lao động đông đảo cho đất nước. Người lao động có tay nghề cao, trang bị đầy
đủ kiến thức và kỹ năng để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của nền sản xuất.
Bồi dưỡng nhân tài : Hoạt động giáo dục giúp phát hiện, bồi dưỡng và
trọng dụng người tài trên tất cả các lĩnh vực. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân tài
phát huy năng lực phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục trong việc bồi dưỡng nhân tài, Đảng
và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư phát triển giáo dục toàn diện. Trong thời kỳ
mới, Việt Nam tiến hành hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, phát huy nội
lực của người Việt, có nhiều chính sách thu hút nhân tài, tránh tình trạng chảy máu chất xám. 13
2.3.2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển cá nhân con người.
Có thể thấy rằng, con người là chủ thể chính trong hoạt động giáo dục và
đào tạo. Giáo dục giúp lưu giữ, truyền đạt tri thức, kỹ năng từ thế hệ này sang
thế hệ khác, góp phần rèn luyện đạo đức và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá
nhân. Chính vì thế, vai trò của giáo dục đối với con người là vô cùng to lớn,
không thể thay thế trong xã hội hiện đại.
Thứ nhất, giáo dục giúp con người trau dồi, tiếp thu, lĩnh hội những
kiến thức kỹ năng.
ai trò của giáo dục và đào tạo đối với con người được thể hiện thông qua
việc trang bị hệ thống kiến thức và kỹ năng cần thiết cho mỗi cá nhân. Từ đó,
con người nâng cao trình độ, tăng hiệu quả lao động, nâng cao chất lượng cuộc
sống, thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, xã hội.
Dưới đây là những vai trò của giáo dục trong việc đào tạo kiến thức và kỹ
năng cho con người, bao gồm:
Giáo dục mang lại trình độ học vấn: Đối với mỗi cá nhân, giáo dục mang
lại trình độ học vấn, kiến thức và kỹ năng. Nhờ có giáo dục, con người kế thừa,
phát huy những tri thức đã có, tìm tòi những kiến thức mới, ứng dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật để phục vụ sự phát triển chung.
Nâng cao chất lượng cuộc sống: Vai trò của giáo dục và đào tạo nằm ở việc
trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để con người sản xuất hàng hóa,
tạo ra của cải xã hội. Giáo dục góp phần gia tăng năng suất lao động của mỗi cá
nhân, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tăng kỹ năng lao động: Qua hoạt động giáo dục, kỹ năng lao động của con
người ngày càng được nâng cao. Tăng kỹ năng lao động kết hợp tăng năng suất
sẽ là động lực để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Giúp con người hòa nhập vào cộng đồng: Giáo dục góp phần thay đổi bộ
mặt xã hội, hàn gắn vết thương, xóa bỏ những rào cản tồn tại giữa người với
người. Thông qua những hoạt động của cá nhân và tập thể, các mối quan hệ xã
hội, giáo dục giúp con người hòa nhập vào cộng đồng.
Giúp con người thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, xã hội: Ý nghĩa của
giáo dục đối với con người được thể hiện ở sự chủ động trước những thay đổi
của môi trường xung quanh. Giáo dục giúp mỗi cá nhân có khả năng giải quyết
các vấn đề, có đủ kiến thức để thích nghi tốt nhất với điều kiện tự nhiên và xã hội.
Thứ hai, giáo dục có vai trò rèn luyện đạo đức và nhân cách con người 14
Giáo dục là một quá trình lâu dài, một hiện tượng xã hội đặc biệt, lấy con
người làm trung tâm. Vai trò của giáo dục đối với con người không chỉ dừng lại
ở cung cấp kiến thức và kỹ năng, quan trọng hơn, giáo dục hướng tới rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức và hoàn thiện nhân cách.
Vai trò của giáo dục trong rèn luyện đạo đức và hoàn thiện nhân cách con
người được thể hiện rõ nét như sau:
Giáo dục giúp con người rèn luyện đạo đức: Giáo dục mang trong mình sứ
mệnh rõ ràng và mục tiêu cao cả là dạy làm người, rèn luyện đạo đức. Giáo dục
lên án cái xấu, hướng mỗi cá nhân tới chân - thiện - mỹ, có thái độ và hành vi ứng xử chuẩn mực.
Giáo dục giúp con người hoàn thiện nhân cách: Vai trò của giáo dục đào
tạo là định hướng, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của con người.
Một nền giáo dục tiên tiến, đi trước dẫn đường cho nhân cách, điều chỉnh các
yếu tố nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát triển nhân cách theo hướng tích cực.
Giáo dục giúp con người sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã
hội: Giáo dục cung cấp cho con người nguồn tri thức và kỹ năng để tham gia các
hoạt động tổ chức xã hội, xây dựng đời sống văn minh, hạnh phúc. Con người
có nền tảng giáo dục tốt sẽ luôn sống có trách nhiệm với chính bản thân, gia đình và xã hội. III. LIÊN HỆ BẢN THÂN
3.1. Liên hệ xây dựng nâng cao năng lực của bản thân

Một là, xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập:
Ngay từ đầu môn học giảng viên phải giúp cho sinh viên nhận thức đúng,
rõ ràng về mục đích và nội dung trọng tâm cũng như phương pháp học tập của
môn học. Sinh viên ngay từ đầu sẽ phải xác định cho mình mục đích rõ ràng là
học để có tri thức, kĩ năng phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của mình sau này.
Từ nhận thức như vậy người học mới có tinh thần tích cực đối với hoạt động tự
học và do đó, mới có ý thức thường xuyên nâng cao năng lực tự học của bản thân.
Hai là, xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kỳ ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ
và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải
được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm
chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời
điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. 15
Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu
tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải
thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được
trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lý logic về cả nội dung lẫn
thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục
theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến
hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
Ba là,, phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ
hoạt động học tập trong sinh viên
Trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ thông tin trên toàn cầu diễn ra
nhanh chóng, hoạt động học tập của sinh viên không chỉ bó hẹp trong phạm vi
nhà trường mà còn mở rộng ra nhiều môi trường xã hội khác nhau. Vì vậy, thông
tin là một trong những yếu tố cơ bản, cần thiết để sinh viên bổ sung và hoàn
thiện vốn tri thức nghề nghiệp cho bản thân. Sau khi thu nhận thông tin, sinh
viên phải biết cách xử lý, chọn lọc, phân loại thông tin nhằm phục vụ cho
chuyên môn, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ nghề nghiệp, làm giàu vốn tri thức
cho bản thân. Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ
hoạt động học tập trong sinh viên góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động học
tập và nghiên cứu khoa học cho bản thân sinh viên. Bốn là, ây
x dựng thói quen học tập tích cực, nắm vững kiến thức chuyên
môn và phương pháp học tập khoa học trong sinh viên
Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho
quá trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một
thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam mê và học có
quá trình. Để nắm vững tri thức chuyên môn,sinh viên phải vận dụng sáng tạo
các nguyên tắc, quan điểm, phương pháp luận biện chứng duy vật vào nắm bắt
hệ thống khái niệm, đồng thời phải có những hiểu biết về các môn khoa học cơ
bản, liên ngành, kiến thức về đời sống xã hội. Sinh viên cần nhạy bén, linh hoạt
khi lựa chọn phương pháp học tập, tích lũy chuyên môn phù hợp với khả năng của bản thân.
Năm là, nâng cao năng lực trí tuệ và tư duy, rèn luyện khả năng tự học
Hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu: Bước ra khỏi bậc học Phổ
thông và lên bậc học Cao đẳng, Đại học sinh viên phải tiếp xúc với phương pháp
học mới và tự hình thành cho mình thói quen tự học, tự nghiên cứu. Việc hình
thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho quá trình học tập, 16
đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen tự học
tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam mê và học có quá trình. Kho tàng
kiến thức là vô tận, nguồn tài liệu tham khảo cho môn học cũng rất phong phú,
sinh viên khi đọc tài liệu phải biết chọn lọc, cần tìm hiểu kĩ, lựa chọn đúng
những tri thức và kỹ năng cần được trang bị, tránh cách học dàn trải, hời hợt, cái
gì cũng biết nhưng chỉ loáng thoáng, không hiểu rõ bản chất của vấn đề.
3.2. Liên hệ xây dựng nâng cao ý thức, lối sống đạo đức của bản thân
Một là, cần nâng cao nhận thức của bản thân về vai trò, vị trí của đạo đức
sinh viên; coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục nhằm xây dựng đời sống đạo
đức, lối sống đạo đức lành mạnh, trong sáng cho sinh viên. Xác định đây là công
việc của cả xã hội; có định hướng đúng cho bản thân về mặt phẩm chất, tư cách,
nguyên tắc đạo đức. Huy động các phương tiện thông tin đại chúng biểu dương
kịp thời tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, phê phán những biểu hiện lệch lạc
trong đạo đức, lối sống và sinh hoạt văn hoá của sinh viên. Tuyên truyền rộng
rãi cuộc vận động sinh viên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Hai là, đẩy mạnh các phong trào “nói lời hay, làm việc tốt” trở thành phổ
biến trong xã hội; đẩy mạnh xã hội hoá việc xây dựng những quy tắc, quy phạm,
chuẩn mực đạo đức, làm tiền đề xây dựng lối sống có văn hoá trong các nhà trường.
Ba là,nâng cao năng lực của bản thân trong lĩnh vực xây dựng đời sống văn
hoá, đời sống đạo đức của sinh viên trong các trường học; tổ chức thường xuyên
các hoạt động văn hóa thể thao lành mạnh, hấp dẫn, tạo sân chơi bổ ích cho sinh
viên để họ tránh xa các tệ nạn xã hội.
Bốn là,chú trọng việc dự báo các xu hướng phát triển của đạo đức trong đời
sống sinh viên của các bạn trong lớp và xung quanh; kịp thời phát hiện những
nhân tố mới để tuyên truyền nhân rộng, cung cấp những luận cứ khoa học cho
việc hình thành những phương pháp về xây dựng đời sống đạo đức, văn hoá trong nhà trường.
Năm là, mở rộng giao lưu, hợp tác với mọi người bạn bè trong nước và
quốc tế; khuyến khích mọi người tham gia các hoạt động giao lưu, hợp tác văn
hoá với các trường học tiên tiến ở khu vực và thế giới nhằm tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hoá nhân loại và kinh nghiệm tổ chức xây dựng đời sống văn hóa
trong trường học. Từ đó, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức toàn cầu, 17
loại bỏ những quan niệm đạo đức cũ, cổ hủ, lỗi thời không còn phù hợp với tình hình hiện nay. 18 PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu của con người nhân
văn của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí minh là sự thống nhất giữa
lòng yêu thương con người với lòng tin, sự tôn trọng và y chí cùng hành động
triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tính nhân
văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết.ở
Hồ Chí Minh nhân dân không phải là một khái niệm chung chung.mơ hồ mà là
cộng đồng việt nam là từng con người,từng cuộc đời ,từng hoàn cảnh cụ thể.cho
đến lúc đi xa,người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ
của đảng, của dân tộc;người vẫn dành muôn ngàn tình thương yêu cho mọi
người. Lời dạy của bác muôn vàng kính yêu cũng chính là tâm niệm của mỗi
thanh niên.đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặt biệt đối với
thế hệ trẻ,đó chính là niềm cổ vũ lớn lao, là lao động mạnh mẽ đê tuổi trẻ tự tin,vững bước.
Đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH đã đem lại rất nhiều lợi ích phát triển
nhưng đồng thời nó đã mang lại những thách thức trong vấn đề nhận thức, thay
đổi nhân cách của sinh viên hiện nay. Quá trình giáo dục đạo đức, tư tưởng cho
sinh viên là một quá trình lâu dài và phức tạp. Nó đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực
không ngừng của tất cả mọi người, ở mọi phạm vi, mức độ và cả chính bản thân
sinh viên. Vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để cho việc định hướng tư tưởng
gần gũi và ăn nhập với hành động hiện thực. Do đó, muốn hoàn thành mục tiêu
giáo dục con người toàn diện thì những giải pháp về nâng cao năng lực, giáo dục
chuyên môn, kỹ năng, giáo dục đạo đức phải được coi trọng và quan tâm hơn
nữa để sinh viên có thể trở thành những người tiếp nối xuất sắc những truyền
thống vẻ vang của dân tộc, là lực lượng hùng mạnh, tiên phong trong sự nghiệp
đổi mới của đất nước, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội như sự kỳ vọng của toàn xã hội. Hành trang vào đời mỗi sinh viên không
chỉ mang theo vốn kiến thức được học mà để thành công mỗi sinh viên phải là
người có đạo đức và lối sống tốt và là người có năng lực. 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3.Lê Sỹ Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về chính sách xã hội,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. GS, TS. Đỗ Huy, Trưởng phòng Mỹ học, Viện Triết học, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng con người, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí – Báo Điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-
minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-con-
nguoi-phat-trien-giao-duc-nang-cao-dan-tri-1993
5.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng con người và sự vận dụng
tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
https://nlv.gov.vn/phan-1-hcm-anh-hung-giai-phong-dan-toc/tu-tuong-ho-chi-
minh-ve-con-nguoi-ve-xay-dung-con-nguoi-va-su-van-dung-tu-tuong-do-trong-
cong-cuoc-doi-moi-o-viet-nam-hien-nay.html
6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
https://baothanhhoa.vn/thoi-su/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-con- nguoi/118914.htm
7.Nhiệm vụ của ngành giáo dục trong xây dựng và phát triển văn hoá, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển vững đất nước
http://tanphutrung.dongthap.edu.vn/tin-tuc/thong-tin-can-biet/nhiem-vu-cua-
nganh-giao-duc-trong-xay-dung-va-phat-trien-van.html 20