Tiểu Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Cần ,Kiệm Liêm,Chính | Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tiểu Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Cần ,Kiệm Liêm,Chính | Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu gồm 16 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

1
B CÔNG THƯƠNG
ĐẠI HC CÔNG NGHP THÀNH PH H CHÍ MINH
KHOA LÍ LUN CHÍNH TR
TIU LUN MÔN HC
TƯ TƯỞNG H CHÍ MINH
Đề tài
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG “CẦN ,KIỆM ,LIÊM ,CHÍNH” CỦA
H CHÍ MINH
Lp hc phn:
Nhóm:
GVHD:Ths. Lê Hoài Nam
Thành ph H Chí Minh,tháng 11 năm 2018
2
B CÔNG THƯƠNG
ĐẠI HC CÔNG NGHP THÀNH PH H CHÍ MINH
KHOA LÍ LUN CHÍNH TR
TIU LUN MÔN HC
TƯ TƯỞNG H CHÍ MINH
Đề tài
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG “CẦN ,KIỆM ,LIÊM ,CHÍNH” CỦA
H CHÍ MINH
STT
H VÀ TÊN
MÃ S SINH VIÊN
CH
1
PHM TUN ANH
18081861
2
3
4
5
6
7
8
9
10
TP.H Chí Minh,11/2018
3
Mc Lc
I Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính. ………….5
II Vn dng vào vic giáo dục tưởng sng cho hc sinh, sinh
viên hin nay……………………………………………………………..7
1.Thc trng vic thc hin cn, kim, liêm, chính trong hc
sinh,sinh viên hin nay……………………………………8
2.Liên h vào vic giáo dục nhưng phẩm cht này cho hc
sinh,sinh viên trong giai đoạn hin nay………………….11
2.1 Vai trò của việc giáo dục phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học
sinh, sinh viên…………………………………………………………….11
2.2 Phương pháp giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học
sinh, sinh viên………………………………………………………..12
2.3 Nội dung giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh,
sinh viên………………………………………………………………13.
4
PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng
với những tác động tích cực tiêu cực của nền kinh tế thị trường, một nền đạo
đức mới đã đang hình thành cùng với hai mặt của nó. Học sinh, sinh viên
thế hệ trẻ, thế htương lai của đất nước, đồng thời cũng là những người chịu
ảnh hưởng nhanh nhất và dễ dàng nhất của những trào lưu mới. Là một sinh viên
đã được học tưởng Hồ Chí Minh, liên hệ với bản thân nói riêng với thực
trạng của học sinh, sinh viên hiện nay nói chung, em thấy việc học tập vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về những đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính
cùng quan trọng; không phải chỉ vì đó là những phẩm chất đạo đức cơ bản cần có
mỗi con người theo em hiểu: để đất nước phát triển vững mạnh cần những
con người mới phát triển toàn diện cả Tài Đức như Bác Hồ đã dạy. Chính từ
cách nhìn nhận đó, em lựa chọn nghiên cứu sâu hơn về đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính và vận dụng vào việc giáo dục những phẩm
chất đó cho học sinh, sinh viên hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn Ths. HOÀI NAM giảng viên trực tiếp
giảng dạy bộ môn tưởng Hồ Chí Minh, cảm ơn các thầy cô giáo trên Trung
tâm Thông tin Thư viện của trường, cùng các anh chị và các bạn đã giúp đỡ em
hoàn thành đề tài tiểu luận này. Bài tiểu luận chắc không tránh khỏi những thiếu
5
sót, kính mong các thầy đóng góp ý kiến để bài tiểu luận này của em được hoàn
thiên hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: nhóm 3
Lớp: ĐHHO-14C
A- NỘI DUNG
I Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Một ngày sau khi nước nhà giành được độc lp (3-9-1945), Ch tch
H Chí Minh ch to phiên họp đầu tiên ca Hội đồng Chính phủ. Người
trình bày sáu nhim v cp bách của Nhà nước Vit Nam Dân ch Cng
hoà, trong đó có vấn đề th tư cần phi gii quyết lúc by gi “Chế độ
thực dân đã đầu độc dân ta vi rượu và thuc phiện. Nó đã dùng mọi th
đon hòng h hoá dân tc chúng ta bng nhng thói xấu, lười biếng, gian
gio, tham ô nhng thói xu khác. Chúng ta nhim v cp bách
phi giáo dc li nhân dân chúng ta. Chúng ta phi làm cho dân tc chúng
ta tr nên mt dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, mt dân tc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lp”. Để làm được những điều đó,
Người đề ngh “m mt chiến dch giáo dc li tinh thn nhân dân bng
cách thc hin: CN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”
Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên nhân dân ta, Ch
tch H Chí Minh đã nhiu tác phm viết v vấn đề này, Ngay t năm
1927, trong tác phm “Đường Kách mệnh”, chương đầu tiên ca cun
sách cách một người cách mnh tiêu chuẩn đầu tiên trong
cách một người cách mnh chính là: cn kim. Sau này là các tác phm
“Sửa đổi li làm vic” (10-1947), Thực hành tiết kim, chng tham ô, lãng
phí, chng bệnh quan liêu” (1952). “Đạo đức ch mạng” (12-1958) các
bài báo như “Chớ kiêu ngo, phi khiêm tốn”, “Cần kiệm liêm chính”, “Cần
6
ty sch bnh quan liêu mnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mng, quét
sách ch nghĩa nhân”... Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc để li cho
toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta, Người nhc “Đng ta một đảng
cm quyn. Mỗi đảng viên cán b phi tht s thm nhuần đạo đức
cách mng, tht s cn kiệm liêm chính, chí công vô tư...”“Sau khi tôi
qua đời, ch nên t chc điếu phúng linh đình, để khi lãng phí thì gi
tin bc của nhân dân”.
Cn, Kim, Liêm, Chính là nhng khái niệm đạo đức , được H
Chí Minh tiếp thu, chn lọc, đưa vào những yêu cu và ni dung mới. Đây
phm chất đạo đức gn lin vi hoạt động hàng ngày ca mỗi người,
đại cương đạo đức H Chí Minh, Người viết:
“Trời có bn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cn, Kim, Liêm, Chính
Thiếu mt mùa thì không thành tri
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
(H Chí Minh toàn tp. Nxb. Chính tr quc gia, Hà Ni, 2000, t.5,
tr.631)
H Chí Minh ch ra rng, bn phong kiến ngày xưa nêu ra Cần,
Kiệm, Liêm, Chính nhưng không bao giờ thc hin li bt nhân dân
tuân theo để phng s quyn lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra Cn, Kim,
Liêm, Chính cho cán b thc hiện làm gương cho nhân dân là để đem lại
hnh phúc cho dân. Với ý nghĩa như vậy, Cn, Kiệm, Liêm, Chính cũng
mt biu hin c th, mt ni dung ca phm cht “trung với nước, hiếu
với dân”.
7
Cn siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoch, có hiu qu,
năng suất cao vi tinh thn t lc cánh sinh. Dao siêng mài thì sc bén.
Rung siêng làm c thì lúa tốt. Người siêng hc tp thì mau tiến. Siêng
nghĩ ngợi thì hay sáng kiến. Siêng hoạt động thì sc khỏe. Người
siêng năng thì mau tiến b. C nhà siêng năng tchắc m no. C làng
siêng năng thì làng phồn thnh. C ớc siêng năng thì nước giàu mnh.
Kiệm tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của
cải…) của nước, của dân; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên
tiêu. Khi việc đáng làm, việc lợi ích thực sự cho dân thì tốn bao nhiêu công,
bao nhiêu của cũng không tiếc.
Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham
lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn: Đối với mình không được tự cao, tự đại,
tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối
với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối
trá. Đối với việc – phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng
làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính có quan h
chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm, làm chừng nào, xào chừng ấy giống như
một chiếc thùng không đáy. Kiệm không cần thì lấy kiệm. Chữ Liêm
phải đi đôi với chữ Kiệm, Kiệm mới Liêm được xa xỉ sinh tham lam.
Cần, Kiệm, Liêm gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần gốc rễ lại cần
cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Đối với một quốc gia, Cần, Kiệm, Liêm, Chính thước đo sự giàu v
vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, Kiệm, Liêm,
Chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
II Vn dng vào vic giáo dục tưởng sng cho hc sinh, sinh
viên hin nay.
8
1. Thực trạng việc thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong học sinh, sinh
viên hiện nay.
Lịch scủa nhân loại cũng ncủa mỗi một dân tộc phát triển theo một
dòng chảy liên tục, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Đó là một quy luật. Xuất phát
từ quy luật vận động của hội loài người ấy, Hồ Chí Minh đã khẳng định tuổi
trẻ không những là người kế tục các thế hệ trước, n tương lai của dân tộc.
Ngưởi đã tuổi trẻ như mùa xuân, bắt đầu của một năm. Năm 1969 trong thư gửi
học sinh, Hồ Chí Minh viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu
từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ mùa xuân của hội.” Câu nói đó thể hiện vai trò quan
trọng của tuổi trẻ đối với sự phát triển của xã hội.
Thực hiện chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng hội chủ nghĩa đang đặt ra cho chúng ta những vận hội mới, thời
thách thức mới. Học sinh, sinh viên thế hệ trẻ của đất nước, thể coi lứa
tuổi nhanh chóng tiếp thu những kiến thức cũng như những trào lưu mới của quá
trình hội nhập. Trong những ảnh hưởng của quá trình hội nhập giao lưu văn
hóa ấy, có nhiều ảnh hưởng tích cực nhưng cũng không ít những ảnh hưởng tiêu
cực đang tác động mạnh mđến thế hệ học sinh, sinh viên hiện nay nhất về mặt
đạo đức lối sống. Việc thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong học sinh, sinh
viên cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng hai mặt đó.
Từ ngàn xưa dân tộc Việt Nam đã những truyền thống tốt đẹp. Những
truyền thống ấy vẫn còn được lưu giữ trong một chặng đường dài đấu tranh dựng
nước giữ nước. thể nói, đức tính cần cù, chịu khó một trong những nét
đạo đức truyền thống nổi bật của con người Việt Nam. Ông cha ta xưa câu:
“Có làm thì mới ăn/ Không dưng ai dễ đem phần đến cho”, hoặc “Thế gian
chuộng của chuộng công/ Nào ai có chuộng người không bao giờ”…Những câu
ca dao giản dị như thế cứ nhẹ nhàng thấm sâu vào tâm hồn con người Việt Nam
ngay từ thuở lọt lòng. Tiếp thu những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đó nên phần lớn
học sinh, sinh viên, thanh niên trí thức Việt Nam hiện nay vẫn giữ được đức tính
cần cù, chịu khó, siêng năng. Nhiều học sinh ngoài việc học lớp còn tham gia
lao động giúp đỡ gia đình. Nhiều sinh viên ngoài việc học còn tham gia rất tích
9
cực các hoạt động phong trào và cũng có rất nhiều sinh viên kiếm việc làm thêm.
Nhiều học sinh, sinh viên nghèo không có tiền ôn luyện tại các “lò” luyện thi, các
khóa học thêm, ngoài các giờ học trên lớp lại chăm chỉ tự học, tự rèn luyện. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều học sinh, sinh viên tình trạng lười làm, ham
chơi”. Nhiều học sinh, sinh viên không chú tâm vào việc học hành, học theo kiểu
đối phó, chỉ để thi lấy điểm, học chỉ để lấy bằng…
Cùng với đức tính cần ttiết kiệm cũng một trong những nét phẩm
chất tốt đẹp vốn của dân tộc ta. Người xưa nói: “Được mùa chphụ ngô
khoai/ Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”. Theo đó, ông cha ta cũng có dạy, không
nên “ăn xổi ở thì”, “vung tay quá trán” khi sống, ăn ở hay làm bất cứ việc gì
đều phải “liệu cơm gắp mắm”, “tích tiểu thành đại”, thế cho nên đức tính “bám
rễ, ăn sâu” của con người Việt Nam ta là tính tiết kiệm. Tư tưởng của Bác về tính
tiết kiệm được mở rộng hơn, đó là không chỉ tiết kiệm về của cải vật chất còn
tiết kiệm về thời gian và công sức. Do ảnh hưởng của thời đại mới và môi trường
sống mới, sự xa hoa lãng phí đã xuất hiện trong không ít người, trong số đó không
ngoại trừ học sinh, sinh viên. Có những học sinh, sinh viên tiết kiệm tiền để mua
sách, đóng học, thậm chí để ủng hộ người nghèo, ủng hộ lụt miền
Trung…nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những học sinh, sinh viên tiêu tin
hoang phí vào những thú vui bổ hoặc ăn chơi, đua đòi. những học sinh, sinh
viên tiết kiệm cả thời gian ra chơi, nghỉ giải lao đôn bài nhưng cũng lại những
học sinh, sinh viên bỏ học đi chơi hoặc dành quá nhiều thời gian cho những việc
ích. Một công trình nghiên cứu khoa học mang tên “Sinh viên sử dụng thi
gian như thế nào?” của nhóm sinh viên trường ĐH Mở tp.Hồ Chí Minh đưa ra
kết quả rằng: 75% các bạn trẻ đã lãng phí thời gian, đã để cho thời gian trôi qua
một cách vô ích vào những trò vô bổ (lên mạng “tán gẫu”, chơi game…hoặc tiêu
tốn thời gian lang thang quán xá, đi uống trà đá, phê, ttập bạn “tám
chuyện…)
Về việc thực hiện chữ Liêm: “Liêm là trong sạch, không tham lam”. Ngay
từ bậc tiểu học, các em học sinh đã được giáo dục vđức tính liêm khiết qua
những câu chuyện đời thường như “Nhặt được của rơi” với bài học giản dị mà ai
10
cũng thuộc “Nhặt được của rơi phải trả lại người đánh mất”. Người xưa đã có nói:
“Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Chính vì bản tính trời sinh đó cùng với việc được
hấp thụ những điều hay lẽ phải từ gia đình và nhà trường nên phần lớn học sinh,
sinh viên đều thực hiện tốt đức tính này. Tuy nhiên, do những ảnh hưởng tiêu cực
của xã hội, những tệ nạn trộm cắp, thậm ccướp giật vẫn còn sảy ra trong một
bộ phận học sinh, sinh viên. Chữ “Liêm” còn được thể hiện việc không tham
lam địa vị, danh tiếng. Danh thì cần, chí hướng phấn đấu là tốt, nhưng ham
danh vọng thì thực sự nguy hiểm, không ít những người ham danh vọng hơn
là phục vụ. Cụ thể trong giới sinh viên đó là việc một số sinh viên tham gia hoạt
động phong trào chỉ mang tính hình thức, góp mặt để lấy danh..v.v.
Đồng nghĩa với chữ “Chính” của Hồ Chí Minh, trong dân gian có lưu truyền
câu nói: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Theo Hồ Chí Minh, “Chính” ngoài ý
nghĩa là lối sống thẳng thắn, thật thà, trung thực, Người còn đưa thêm một s
yêu cầu, đó là: Đối với mình – không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn
học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với người – không nịnh
người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc phải
để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy
cũng tránh. Thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn giữ được đức tính
thật thà, trung thực của người xưa ấy, luôn thái độ cầu tiến trong học tập, khiêm
tốn học hỏi trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay việc tự phê bình, nhận khuyết
điểm và sửa chữa sai lầm không chỉ ở riêng học sinh, sinh viên mà ở nhiều người
vẫn chưa được thực hiện tốt. Phần đa học sinh, sinh viên mới chỉ dừng lại ở việc
nhìn thấy điểm mạnh của mình, của mọi người để phấn đấu mà rất ít học sinh,
sinh viên dám nhìn thẳng vào những điểm yếu để sửa chữa sai lầm. dụ đơn
giản như việc học sinh, sinh viên phát biểu ý kiến xây dựng bài trên lớp: nhiều
học sinh, sinh viên sợ sai mà không dám đưa lên ý kiến của mình; hoặc sợ mọi
người phê bình những điểm yếu, không dám đối diện với sự thật, dẫu vẫn nhận
thức được rằng “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Bác Hồ có nói: “Chớ vì ai
thưởng, ghét ai phạt, ai hầu với mình thì dung, ai trực tính nói ngay thì
bỏ.”. Tuy nhiên, không phải ai cũng thực hiện tốt được điều đó. Ngoài ra, trong
11
chữ Chính” ấy Bác Hồ còn nói “phải để việc công lên trên hết”, về điều này,
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, bên cạnh phần lớn những học sinh, sinh viên
suy nghĩ sau này ra trường sẽ đem kiến thức của mình đóng góp cho sự phát
triển của đất nước, làm giàu những mục đích chính đáng, bản thân, gia
đình và vì sự tiến bộ xã hội…đã rất nhiều học sinh, sinh viên suy nghĩ mang
khuynh hướng chủ nghĩa nhân, ham danh vọng, địa vị, chức quyền, bất chấp
mọi thủ đoạn để làm giàu…
2. Liên hệ vào việc giáo dục những phẩm chất này cho học sinh, sinh viên
trong giai đoạn hiện nay.
2.1 Vai trò của việc giáo dục phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học
sinh, sinh viên.
Trong nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh
nhắc đến vai trò, nhiệm vụ của các thế hệ đi trước, chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng
các thế hệ đi sau làm sao để họ tiến bộ hơn mình. Theo Người, thế hệ đi sau tiến
bộ hơn thế hệ đi trước mới tốt. Nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước
không tốt.
Hồ Chí Minh quan niệm: lợi ích mười năm thì phải trồng cây, lợi
ích trăm năm thì phải trồng người”. Để “trồng người” thì vai trò của giáo dục
vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện
cả Trí Đức Thể – Mỹ , phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng , lối
sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không
tách rời nhau. Trong đó “đức” là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết
hợp giữa nhận thức hành động, lời nói với việc làm..Có như vậy mới thể
“học làm người”.
Người cũng khẳng định rằng: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.”. Trong thực
tế, do không chú ý việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức hàng ngày (giống như “soi
gương”, “rửa mặt”) nên những người mới hôm qua còn được mọi người tin
12
yêu, quý mến thì ngày hôm sau đã trở thành người có tội với Đảng, với dân. Có
những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ hiểm nguy,
khổ cực. Song đến khi có ít quyền lực trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, tham
ô, lãng phí, quan liêu.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một trong những nội dung quan trọng nhất trong
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, được coi là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đồng thời, Cần, Kiệm, Liêm, Chính cũng chính những phẩm chất quan trọng
cần mỗi người, cần phải được rèn luyện gắn với hoạt động thực tiễn hàng
ngày. Việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức này cho học sinh, sinh viên, thanh
niên trí thức lại càng quan trọng hơn, họ “người chủ tương lai của nước nhà”.
2.2 Phương pháp giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho
học sinh, sinh viên.
Vic giáo dc các phm cht Cn, Kim, Liêm, Chính hc sinh, sinh
viên đã được thc hin t lâu. Tuy nhiên, t vic nhn thy tm quan
trng ca vic giáo dc nhng phm cht y cho học sinh, sinh viên đồng
thi qua vic nghiên cu vic thc hin nhng phm cht này ca hc
sinh, sinh viên trong giai đon hin nay, theo em, những phương pháp
cn thiết để giáo dc các phm chất đó cho học sinh, sinh viên là:
Th nht, cn phi bồi dưng thế giới quan, phương pháp luận ca
ch nghĩa Mác Lênin, tưởng H Chí Minh. Nm vững phương pháp
lun bin chng duy vt giúp cho con người xem xét s vt, hiện tượng
khách quan một cách đúng đắn, tránh cho ta mc phi bnh ch quan duy
ý chí tùy tin trong hoạt động thc tin.
Th hai, cn phi tuân th thc hin tt các nguyên tc xây dng
đạo đức mới Bác đã nêu để xây dng nn tảng đạo đức mới trong đời
sng hội nước ta. Đó là: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo
đức. Xây phải đi đôi với chng, phi to thành phong trào trong qun
chúng rng rãi. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
13
Th ba, đề cao vai trò ca s giáo dc t gia đình, nhà trường và c
hội. Trong gia đình, thế h trước làm gương cho thế h sau. Giáo dc
các phm chất đạo đức nói chung các phm cht Cn, Kim, Liêm,
Chính cho hc sinh, sinh viên nói riêng có l phi bắt đầu bng cách dy
cho tt nhng môn học như: lịch sử, địa lý, văn học, đạo đức nht
môn giáo dc công dân, nhng môn chú trng phn dạy người, c th
những con người Vit Nam thế k 21 này trước nhng vấn đề ln ca
dân tc, của đất nước và ca thế gii, trong đó có những vn đề như lối
sống xa hoa, lãng phí; tham nhũng; lối sng ch nghĩa nhân…Tuy
nhiên cn phải thay đổi phương pháp giảng dạy đối vi nhng môn hc
đó để chúng không còn nhng môn b, chán ngán, nhng bài
ging khô khan trên lp hc được tr li cho thầy cô và nhà trường bng
nhng bài thi trên giấy và được ghi nhn bng nhng con s vô hn trên
hc b. Cùng với đó, các tổ chức Đoàn Đội Hi cn t chc nhng
bui tọa đàm, thảo luận… về nhng vấn đề thc hiện đạo đức nói riêng
thc hin Cn, Kim, Liêm, Chính nói riêng cho hc sinh, sinh viên;
đẩy mnh trin khai hiu qu cuc vận động “Học tp và làm theo tm
gương đạo đức H Chí Minh”.
2.3 Nội dung giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học
sinh, sinh viên.
- Cần: học sinh sinh viên phải học tập, lao động chăm chỉ, cần cù, siêng năng.
Tuy nhiên, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau. Nếu không kế
hoạch, điều nên làm trước đlàm sau, điều nên làm sau mà đưa làm trước,
như thế sẽ hao tốn thời giờ, mất nhiều công mà kết quả ít. Cần cũng có nghĩa
là phải biết cách nuôi dưỡng, phân bổ cả tinh thần, vật chất và lực lượng của
mình một cách hợp lý để làm việc lâu dài.
- Kiệm: học sinh sinh viên phải biết sống tiết kiệm. Cần phải biết tiết kiệm tiền
của, bởi người xưa có nói “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” hoặc “Nghèo đi đôi với
hèn”, học sinh sinh viên hầu hết mọi người đều sống nhờ vào sự chu cấp
14
của bố mẹ, của gia đình; cần phải biết cách lập kế hoạch chi tiêu một cách hợp
lý, không nên phung phí cho việc ăn chơi xa xỉ. Thời giờ cũng phải được tiết
kiệm như của cải. Của cải hết còn có thể làm thêm nhưng khi thời giờ đã qua
rồi, không bao giờ kéo trở lại được. Biết tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải
tiết kiệm thời giờ của người khác.
- Liêm: học sinh sinh viên phải có cuộc sống trong sạch, cố gắng phấn đấu học
tập thật tốt, học tập vì mục đích góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh hơn,
không tham lam, tham tiền của, địa vị, lợi danh…
- Chính: học sinh sinh viên phải sống cuộc sống thẳng thắn, không gian tà, mưu
lợi cá nhân, làm những điều sai trái mà phải luôn đứng về chính nghĩa, đứng
về lẽ phải, bảo vệ sự công bằng; đồng thời cũng phải biết tự phê bình, tự nhận
ra khuyết điểm và sửa chữa sai lầm để phát triển bản thân ngày càng tốt hơn.
Người xưa rất lý khi nói rằng: “Người ta không chết bởi núi non cao nhưng
khi chết bởi đất thấp”. Núi non cao người ta còn thấy được mà tránh,
còn mô đất thấp thì do chủ quan không để ý nên dễ dàng vấp ngã. Theo Bác
Hồ, đã người thì ai ng chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng
thiện – ác trong lòng. Vấn đề là chúng ta có dám nhìn thẳng vào mình không,
thấy cái hay , cái thiện để phát huy và thấy cái dở, cái xấu để khắc phục là vì
lẽ đó.
KT LUN
H Chí Minh không ch là mt nhà đạo đức hc li lc còn là mt
tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và
15
tấm gương đạo đức Người có mt sc sng mãnh lit và s c lớn lao
không ch vi nhân dân Vit Nam mà còn c vi nhân dân thế gii trong
cuộc đấu tranh dân ch tiến b hội. Để tr thành người ích
cho hội, người ch tương lai của nước nhà, thế h tr Vit Nam nói
chung hc sinh, sinh viên, thanh niên trí thc nói chung cn phi hc
tp và làm theo tấm gương đạo đức ca H Chí Minh.
Cách đây hơn 60 năm (năm 1947), trong “Thư gửi thanh niên”, Ch
tch H Chí Minh khẳng định: “Thanh niên người ch tương lai của nước
nhà... Thanh niên mun làm ch tương lai một cách xứng đáng t ngay
t bây gi phi t giác rèn luyn tinh thn lực lượng ca mình, phi tích
cc làm việc để chun b cho tương lai. Vic giáo dc thanh niên không
th tách ri phi liên h cht ch vi nhng cuộc đu tranh ca xã hi,
nhm giúp h tránh những cái độc hi, tiêu cc tiếp thu, hc hi nhng
cái hay, tiến b trong cuc sng. Thanh niên phi tinh thn sn sàng:
“đâu Đảng cn thì thanh niên có, việc khó tthanh niên làm”; phải đoàn
kết cht ch, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tp và lao
động sn xut, góp sc vào s nghip xây dng một nước Vit Nam hòa
bình, thng nhất, độc lp, dân ch giàu mạnh”. Thiết nghĩ, việc giáo
dục đạo đức cho hc sinh, sinh viên nói chung và giáo dc các phm cht
Cn, Kim, Liêm, Chính nói riêng đã đang và mãi là việc có ý nghĩa quan
trng. Hc sinh, sinh viên cn phấn đấu rèn luyện hơn nữa, th hin bng
chính nhng hoạt động thường ngày để tr thành người công dân hc
sinh, sinh viên tt xứng đáng vi nim tin yêu và mong mi ca Bác.
16
TÀI LIU THAM KHO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005).
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2009).
3. Hỏi – đáp môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
4. Bác Hồ với đồng bào các dân tộc, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007.
5. Danh nhân Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Nội, 2000.
Hết.
| 1/16

Preview text:

BỘ CÔNG THƯƠNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG “CẦN ,KIỆM ,LIÊM ,CHÍNH” CỦA HỒ CHÍ MINH Lớp học phần: Nhóm: GVHD:Ths. Lê Hoài Nam
Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 11 năm 2018 1 BỘ CÔNG THƯƠNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG “CẦN ,KIỆM ,LIÊM ,CHÍNH” CỦA HỒ CHÍ MINH STT HỌ VÀ TÊN MÃ SỐ SINH VIÊN CHỮ KÝ 1 PHẠM TUẤN ANH 18081861 2 3 4 5 6 7 8 9 10
TP.Hồ Chí Minh,11/2018 2 Mục Lục
I – Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính. ………….5
II – Vận dụng vào việc giáo dục lý tưởng sống cho học sinh, sinh
viên hiện nay……………………………………………………………..7
1.Thực trạng việc thực hiện cần, kiệm, liêm, chính trong học
sinh,sinh viên hiện nay……………………………………8
2.Liên hệ vào việc giáo dục nhưng phẩm chất này cho học
sinh,sinh viên trong giai đoạn hiện nay………………….11
2.1 Vai trò của việc giáo dục phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học
sinh, sinh viên…………………………………………………………….11
2.2 Phương pháp giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học
sinh, sinh viên………………………………………………………..12
2.3 Nội dung giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh,
sinh viên………………………………………………………………13. 3 PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng
với những tác động tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường, một nền đạo
đức mới đã và đang hình thành cùng với hai mặt của nó. Học sinh, sinh viên là
thế hệ trẻ, là thế hệ tương lai của đất nước, đồng thời cũng là những người chịu
ảnh hưởng nhanh nhất và dễ dàng nhất của những trào lưu mới. Là một sinh viên
đã được học Tư tưởng Hồ Chí Minh, liên hệ với bản thân nói riêng và với thực
trạng của học sinh, sinh viên hiện nay nói chung, em thấy việc học tập và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về những đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính là vô
cùng quan trọng; không phải chỉ vì đó là những phẩm chất đạo đức cơ bản cần có
ở mỗi con người mà theo em hiểu: để đất nước phát triển vững mạnh cần có những
con người mới phát triển toàn diện cả Tài và Đức như Bác Hồ đã dạy. Chính từ
cách nhìn nhận đó, em lựa chọn nghiên cứu sâu hơn về đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính và vận dụng vào việc giáo dục những phẩm
chất đó cho học sinh, sinh viên hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn Ths. LÊ HOÀI NAM – giảng viên trực tiếp
giảng dạy bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, cảm ơn các thầy cô giáo trên Trung
tâm Thông tin – Thư viện của trường, cùng các anh chị và các bạn đã giúp đỡ em
hoàn thành đề tài tiểu luận này. Bài tiểu luận chắc không tránh khỏi những thiếu 4
sót, kính mong các thầy cô đóng góp ý kiến để bài tiểu luận này của em được hoàn thiên hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: nhóm 3
Lớp: ĐHHO-14C A- NỘI DUNG
I – Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập (3-9-1945), Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người
trình bày sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, trong đó có vấn đề thứ tư cần phải giải quyết lúc bấy giờ là “Chế độ
thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ
đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian
giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng
ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Để làm được những điều đó,
Người đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng
cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”
Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều tác phẩm viết về vấn đề này, Ngay từ năm
1927, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, chương đầu tiên của cuốn
sách là Tư cách một người cách mệnh và tiêu chuẩn đầu tiên trong tư
cách một người cách mệnh chính là: cần kiệm. Sau này là các tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” (10-1947), “ Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí, chống bệnh quan liêu” (1952). “Đạo đức cách mạng” (12-1958) và các
bài báo như “Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn”, “Cần kiệm liêm chính”, “Cần 5
tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sách chủ nghĩa cá nhân”... Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Người nhắc “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư...”“Sau khi tôi
qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là những khái niệm đạo đức cũ , được Hồ
Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Đây
là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người,
đại cương đạo đức Hồ Chí Minh, Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
(Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.631)
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra Cần,
Kiệm, Liêm, Chính nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân
tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra Cần, Kiệm,
Liêm, Chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân là để đem lại
hạnh phúc cho dân. Với ý nghĩa như vậy, Cần, Kiệm, Liêm, Chính cũng là
một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. 6
Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có
năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh. Dao siêng mài thì sắc bén.
Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt. Người siêng học tập thì mau tiến. Siêng
nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng hoạt động thì có sức khỏe. Người
siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả làng
siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh.
Kiệm là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của
cải…) của nước, của dân; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên
tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích thực sự cho dân thì tốn bao nhiêu công,
bao nhiêu của cũng không tiếc.
Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham
lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn: Đối với mình – không được tự cao, tự đại,
tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối
với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối
trá. Đối với việc – phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng
làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm, làm chừng nào, xào chừng ấy giống như
một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Chữ Liêm
phải đi đôi với chữ Kiệm, có Kiệm mới Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham lam.
Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có
cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Đối với một quốc gia, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là thước đo sự giàu có về
vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, Kiệm, Liêm,
Chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
II – Vận dụng vào việc giáo dục lý tưởng sống cho học sinh, sinh viên hiện nay. 7 1.
Thực trạng việc thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong học sinh, sinh
viên hiện nay.
Lịch sử của nhân loại cũng như của mỗi một dân tộc phát triển theo một
dòng chảy liên tục, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Đó là một quy luật. Xuất phát
từ quy luật vận động của xã hội loài người ấy, Hồ Chí Minh đã khẳng định tuổi
trẻ không những là người kế tục các thế hệ trước, mà còn là tương lai của dân tộc.
Ngưởi đã ví tuổi trẻ như mùa xuân, bắt đầu của một năm. Năm 1969 trong thư gửi
học sinh, Hồ Chí Minh viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu
từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.” Câu nói đó thể hiện vai trò quan
trọng của tuổi trẻ đối với sự phát triển của xã hội.
Thực hiện chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra cho chúng ta những vận hội mới, thời cơ và
thách thức mới. Học sinh, sinh viên là thế hệ trẻ của đất nước, có thể coi là lứa
tuổi nhanh chóng tiếp thu những kiến thức cũng như những trào lưu mới của quá
trình hội nhập. Trong những ảnh hưởng của quá trình hội nhập và giao lưu văn
hóa ấy, có nhiều ảnh hưởng tích cực nhưng cũng không ít những ảnh hưởng tiêu
cực đang tác động mạnh mẽ đến thế hệ học sinh, sinh viên hiện nay nhất là về mặt
đạo đức lối sống. Việc thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong học sinh, sinh
viên cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng hai mặt đó.
Từ ngàn xưa dân tộc Việt Nam đã có những truyền thống tốt đẹp. Những
truyền thống ấy vẫn còn được lưu giữ trong một chặng đường dài đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Có thể nói, đức tính cần cù, chịu khó là một trong những nét
đạo đức truyền thống nổi bật của con người Việt Nam. Ông cha ta xưa có câu:
“Có làm thì mới có ăn/ Không dưng ai dễ đem phần đến cho”, hoặc “Thế gian
chuộng của chuộng công/ Nào ai có chuộng người không bao giờ”…Những câu
ca dao giản dị như thế cứ nhẹ nhàng thấm sâu vào tâm hồn con người Việt Nam
ngay từ thuở lọt lòng. Tiếp thu những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đó nên phần lớn
học sinh, sinh viên, thanh niên trí thức Việt Nam hiện nay vẫn giữ được đức tính
cần cù, chịu khó, siêng năng. Nhiều học sinh ngoài việc học ở lớp còn tham gia
lao động giúp đỡ gia đình. Nhiều sinh viên ngoài việc học còn tham gia rất tích 8
cực các hoạt động phong trào và cũng có rất nhiều sinh viên kiếm việc làm thêm.
Nhiều học sinh, sinh viên nghèo không có tiền ôn luyện tại các “lò” luyện thi, các
khóa học thêm, ngoài các giờ học trên lớp lại chăm chỉ tự học, tự rèn luyện. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều học sinh, sinh viên có tình trạng “lười làm, ham
chơi”. Nhiều học sinh, sinh viên không chú tâm vào việc học hành, học theo kiểu
đối phó, chỉ để thi lấy điểm, học chỉ để lấy bằng…
Cùng với đức tính cần cù thì tiết kiệm cũng là một trong những nét phẩm
chất tốt đẹp vốn có của dân tộc ta. Người xưa có nói: “Được mùa chớ phụ ngô
khoai/ Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”. Theo đó, ông cha ta cũng có dạy, không
nên “ăn xổi ở thì”, “vung tay quá trán” và khi sống, ăn ở hay làm bất cứ việc gì
đều phải “liệu cơm gắp mắm”, “tích tiểu thành đại”, vì thế cho nên đức tính “bám
rễ, ăn sâu” của con người Việt Nam ta là tính tiết kiệm. Tư tưởng của Bác về tính
tiết kiệm được mở rộng hơn, đó là không chỉ tiết kiệm về của cải vật chất mà còn
tiết kiệm về thời gian và công sức. Do ảnh hưởng của thời đại mới và môi trường
sống mới, sự xa hoa lãng phí đã xuất hiện trong không ít người, trong số đó không
ngoại trừ học sinh, sinh viên. Có những học sinh, sinh viên tiết kiệm tiền để mua
sách, đóng học, thậm chí là để ủng hộ người nghèo, ủng hộ lũ lụt miền
Trung…nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những học sinh, sinh viên tiêu tiền
hoang phí vào những thú vui vô bổ hoặc ăn chơi, đua đòi. Có những học sinh, sinh
viên tiết kiệm cả thời gian ra chơi, nghỉ giải lao để ôn bài nhưng cũng lại có những
học sinh, sinh viên bỏ học đi chơi hoặc dành quá nhiều thời gian cho những việc
vô ích. Một công trình nghiên cứu khoa học mang tên “Sinh viên sử dụng thời
gian như thế nào?” của nhóm sinh viên trường ĐH Mở tp.Hồ Chí Minh đưa ra
kết quả rằng: 75% các bạn trẻ đã lãng phí thời gian, đã để cho thời gian trôi qua
một cách vô ích vào những trò vô bổ (lên mạng “tán gẫu”, chơi game…hoặc tiêu
tốn thời gian lang thang quán xá, đi uống trà đá, cà phê, tụ tập bạn bè “tám” chuyện…)
Về việc thực hiện chữ Liêm: “Liêm là trong sạch, không tham lam”. Ngay
từ bậc tiểu học, các em học sinh đã được giáo dục về đức tính liêm khiết qua
những câu chuyện đời thường như “Nhặt được của rơi” với bài học giản dị mà ai 9
cũng thuộc “Nhặt được của rơi phải trả lại người đánh mất”. Người xưa đã có nói:
“Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Chính vì bản tính trời sinh đó cùng với việc được
hấp thụ những điều hay lẽ phải từ gia đình và nhà trường nên phần lớn học sinh,
sinh viên đều thực hiện tốt đức tính này. Tuy nhiên, do những ảnh hưởng tiêu cực
của xã hội, những tệ nạn trộm cắp, thậm chí là cướp giật vẫn còn sảy ra trong một
bộ phận học sinh, sinh viên. Chữ “Liêm” còn được thể hiện ở việc không tham
lam địa vị, danh tiếng. Danh thì cần, có chí hướng phấn đấu là tốt, nhưng ham mê
danh vọng thì thực sự nguy hiểm, có không ít những người ham danh vọng hơn
là phục vụ. Cụ thể trong giới sinh viên đó là việc một số sinh viên tham gia hoạt
động phong trào chỉ mang tính hình thức, góp mặt để lấy danh..v.v.
Đồng nghĩa với chữ “Chính” của Hồ Chí Minh, trong dân gian có lưu truyền
câu nói: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Theo Hồ Chí Minh, “Chính” ngoài ý
nghĩa là có lối sống thẳng thắn, thật thà, trung thực, Người còn đưa thêm một số
yêu cầu, đó là: Đối với mình – không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn
học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với người – không nịnh
người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc – phải
để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy
cũng tránh. Thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn giữ được đức tính
thật thà, trung thực của người xưa ấy, luôn có thái độ cầu tiến trong học tập, khiêm
tốn học hỏi trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay việc tự phê bình, nhận khuyết
điểm và sửa chữa sai lầm không chỉ ở riêng học sinh, sinh viên mà ở nhiều người
vẫn chưa được thực hiện tốt. Phần đa học sinh, sinh viên mới chỉ dừng lại ở việc
nhìn thấy điểm mạnh của mình, của mọi người để phấn đấu mà rất ít học sinh,
sinh viên dám nhìn thẳng vào những điểm yếu để sửa chữa sai lầm. Ví dụ đơn
giản như việc học sinh, sinh viên phát biểu ý kiến xây dựng bài trên lớp: nhiều
học sinh, sinh viên vì sợ sai mà không dám đưa lên ý kiến của mình; hoặc sợ mọi
người phê bình những điểm yếu, không dám đối diện với sự thật, dẫu vẫn nhận
thức được rằng “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Bác Hồ có nói: “Chớ vì ai
mà thưởng, ghét ai mà phạt, ai hầu với mình thì dung, ai trực tính nói ngay thì
bỏ.”. Tuy nhiên, không phải ai cũng thực hiện tốt được điều đó. Ngoài ra, trong 10
chữ “Chính” ấy Bác Hồ còn nói “phải để việc công lên trên hết”, về điều này,
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, bên cạnh phần lớn những học sinh, sinh viên
có suy nghĩ sau này ra trường sẽ đem kiến thức của mình đóng góp cho sự phát
triển của đất nước, làm giàu vì những mục đích chính đáng, vì bản thân, vì gia
đình và vì sự tiến bộ xã hội…đã có rất nhiều học sinh, sinh viên có suy nghĩ mang
khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân, ham danh vọng, địa vị, chức quyền, bất chấp
mọi thủ đoạn để làm giàu… 2.
Liên hệ vào việc giáo dục những phẩm chất này cho học sinh, sinh viên
trong giai đoạn hiện nay.
2.1 Vai trò của việc giáo dục phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh, sinh viên.
Trong nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh
nhắc đến vai trò, nhiệm vụ của các thế hệ đi trước, chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng
các thế hệ đi sau làm sao để họ tiến bộ hơn mình. Theo Người, thế hệ đi sau tiến
bộ hơn thế hệ đi trước mới tốt. Nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước là không tốt.
Hồ Chí Minh quan niệm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người”. Để “trồng người” thì vai trò của giáo dục là
vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện
cả Trí – Đức – Thể – Mỹ , phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng , lối
sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không
tách rời nhau. Trong đó “đức” là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết
hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm..Có như vậy mới có thể “học làm người”.
Người cũng khẳng định rằng: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.”. Trong thực
tế, do không chú ý việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức hàng ngày (giống như “soi
gương”, “rửa mặt”) nên có những người mới hôm qua còn được mọi người tin 11
yêu, quý mến thì ngày hôm sau đã trở thành người có tội với Đảng, với dân. Có
những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ hiểm nguy,
khổ cực. Song đến khi có ít quyền lực trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, tham ô, lãng phí, quan liêu.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một trong những nội dung quan trọng nhất trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, được coi là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đồng thời, Cần, Kiệm, Liêm, Chính cũng chính là những phẩm chất quan trọng
cần có ở mỗi người, cần phải được rèn luyện gắn với hoạt động thực tiễn hàng
ngày. Việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức này cho học sinh, sinh viên, thanh
niên trí thức lại càng quan trọng hơn, vì họ là “người chủ tương lai của nước nhà”. 2.2
Phương pháp giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho
học sinh, sinh viên.
Việc giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính học sinh, sinh
viên đã được thực hiện từ lâu. Tuy nhiên, từ việc nhận thấy tầm quan
trọng của việc giáo dục những phẩm chất ấy cho học sinh, sinh viên đồng
thời qua việc nghiên cứu việc thực hiện những phẩm chất này của học
sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay, theo em, những phương pháp
cần thiết để giáo dục các phẩm chất đó cho học sinh, sinh viên là:
Thứ nhất, cần phải bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nắm vững phương pháp
luận biện chứng duy vật giúp cho con người xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan một cách đúng đắn, tránh cho ta mắc phải bệnh chủ quan duy
ý chí tùy tiện trong hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, cần phải tuân thủ và thực hiện tốt các nguyên tắc xây dựng
đạo đức mới mà Bác đã nêu để xây dựng nền tảng đạo đức mới trong đời
sống xã hội nước ta. Đó là: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo
đức. Xây phải đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào trong quần
chúng rộng rãi. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. 12
Thứ ba, đề cao vai trò của sự giáo dục từ gia đình, nhà trường và cả
xã hội. Trong gia đình, thế hệ trước làm gương cho thế hệ sau. Giáo dục
các phẩm chất đạo đức nói chung và các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm,
Chính cho học sinh, sinh viên nói riêng có lẽ phải bắt đầu bằng cách dạy
cho tốt những môn học như: lịch sử, địa lý, văn học, đạo đức và nhất là
môn giáo dục công dân, những môn chú trọng phần dạy người, cụ thể là
những con người Việt Nam ở thế kỷ 21 này trước những vấn đề lớn của
dân tộc, của đất nước và của thế giới, trong đó có những vấn đề như lối
sống xa hoa, lãng phí; tham nhũng; lối sống chủ nghĩa cá nhân…Tuy
nhiên cần phải thay đổi phương pháp giảng dạy đối với những môn học
đó để chúng không còn là những môn vô bổ, chán ngán, là những bài
giảng khô khan trên lớp học được trả lại cho thầy cô và nhà trường bằng
những bài thi trên giấy và được ghi nhận bằng những con số vô hồn trên
học bạ. Cùng với đó, các tổ chức Đoàn – Đội – Hội cần tổ chức những
buổi tọa đàm, thảo luận… về những vấn đề thực hiện đạo đức nói riêng
và thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính nói riêng cho học sinh, sinh viên;
đẩy mạnh triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. 2.3
Nội dung giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh, sinh viên.
- Cần: học sinh sinh viên phải học tập, lao động chăm chỉ, cần cù, siêng năng.
Tuy nhiên, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau. Nếu không có kế
hoạch, điều nên làm trước mà để làm sau, điều nên làm sau mà đưa làm trước,
như thế sẽ hao tốn thời giờ, mất nhiều công mà kết quả ít. Cần cũng có nghĩa
là phải biết cách nuôi dưỡng, phân bổ cả tinh thần, vật chất và lực lượng của
mình một cách hợp lý để làm việc lâu dài.
- Kiệm: học sinh sinh viên phải biết sống tiết kiệm. Cần phải biết tiết kiệm tiền
của, bởi người xưa có nói “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” hoặc “Nghèo đi đôi với
hèn”, là học sinh sinh viên hầu hết mọi người đều sống nhờ vào sự chu cấp 13
của bố mẹ, của gia đình; cần phải biết cách lập kế hoạch chi tiêu một cách hợp
lý, không nên phung phí cho việc ăn chơi xa xỉ. Thời giờ cũng phải được tiết
kiệm như của cải. Của cải hết còn có thể làm thêm nhưng khi thời giờ đã qua
rồi, không bao giờ kéo trở lại được. Biết tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải
tiết kiệm thời giờ của người khác.
- Liêm: học sinh sinh viên phải có cuộc sống trong sạch, cố gắng phấn đấu học
tập thật tốt, học tập vì mục đích góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh hơn,
không tham lam, tham tiền của, địa vị, lợi danh…
- Chính: học sinh sinh viên phải sống cuộc sống thẳng thắn, không gian tà, mưu
lợi cá nhân, làm những điều sai trái mà phải luôn đứng về chính nghĩa, đứng
về lẽ phải, bảo vệ sự công bằng; đồng thời cũng phải biết tự phê bình, tự nhận
ra khuyết điểm và sửa chữa sai lầm để phát triển bản thân ngày càng tốt hơn.
Người xưa rất có lý khi nói rằng: “Người ta không chết bởi núi non cao nhưng
có khi chết bởi mô đất thấp”. Núi non cao người ta còn thấy được mà tránh,
còn mô đất thấp thì do chủ quan không để ý nên dễ dàng vấp ngã. Theo Bác
Hồ, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có
thiện – ác trong lòng. Vấn đề là chúng ta có dám nhìn thẳng vào mình không,
thấy cái hay , cái thiện để phát huy và thấy cái dở, cái xấu để khắc phục là vì lẽ đó. KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một
tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và 14
tấm gương đạo đức Người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao
không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong
cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích
cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam nói
chung và học sinh, sinh viên, thanh niên trí thức nói chung cần phải học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
Cách đây hơn 60 năm (năm 1947), trong “Thư gửi thanh niên”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà... Thanh niên muốn làm chủ tương lai một cách xứng đáng thì ngay
từ bây giờ phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích
cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Việc giáo dục thanh niên không
thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội,
nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu, học hỏi những
cái hay, tiến bộ trong cuộc sống. Thanh niên phải có tinh thần sẵn sàng:
“đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”; phải đoàn
kết chặt chẽ, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao
động sản xuất, góp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Thiết nghĩ, việc giáo
dục đạo đức cho học sinh, sinh viên nói chung và giáo dục các phẩm chất
Cần, Kiệm, Liêm, Chính nói riêng đã đang và mãi là việc có ý nghĩa quan
trọng. Học sinh, sinh viên cần phấn đấu rèn luyện hơn nữa, thể hiện bằng
chính những hoạt động thường ngày để trở thành người công dân – học
sinh, sinh viên tốt xứng đáng với niềm tin yêu và mong mỏi của Bác. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005).
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2009).
3. Hỏi – đáp môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
4. Bác Hồ với đồng bào các dân tộc, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007.
5. Danh nhân Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000. Hết. 16