TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TÍNH ĐÚNG ĐẮN SÁNG TẠO TRONG TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA HỘI
NGUYỄN THU NGÂN - 97613
NGUYỄN MAI QUỲNH -
HOÀNG THỊ YẾN - 96960
NGỌC DUYÊN - 95393
Lớp: tưởng Hồ Chí Minh N03
Viện: Viện Đào tạo Quốc tế
Khóa năm: 2023-2024
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Phan Duy Hòa
Hải Phòng 2023
I. MỞ ĐẦU
tưởng quan điểm của Bác về nhà nước của dân, do dân, dân
cùng sâu sắc hạt nhân cốt lõi của tưởng Hồ Chí Minh. chứa
đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận thực tiễn đối với
cách mạng Việt Nam; cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà
nước pháp quyền hội chủ nghĩa mở rộng quan hệ quốc tế đi tới
thành công. Nghiên cứu tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, dân không những ý nghĩa lịch sử còn cung cấp cho chúng
ta những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước,
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự công bộc của dân, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấu trong
bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ hội chủ nghĩa, bảo vệ hiệu quả
các quyền lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được
bản chất cách mạng, từng bước xây dựng Nnước pháp quyền hội
chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng Nhà ớc pháp quyền xu hướng tất
yếu khách quan. Trên thế giới cũng chưa quốc gia, dân tộc nào khẳng
định đã xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, chỉ đạt được một
số thành tựu nhất định. Mặt khác, không một nhà nước pháp quyền
với cách khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do
vậy, cùng với việc tiếp thu những giá trị tính chất phổ biến về nhà
nước pháp quyền nhân loại đã đạt được, chúng ta cần nghiên cứu, kế
thừa vận dụng những giá trị tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp luật để từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
Việt Nam những đặc trưng riêng, phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế- hội, truyền thống văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam. Với
những do trên, em lựa chọn chủ đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, dân vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp
quyền hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay để nghiên cứu, viết bài thu
hoạch môn học tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình đào tạo Cao
cấp luận chính trị.
II. NỘI DUNG
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, nhân dân Việt Nam
1.1. Về nhà nước kiểu mới trong lịch sử Việt Nam - Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, nhân dân
Trên hành trình tìm đường cứu nước, HChí Minh đã nghiên cứu
nhiều hình nhà nước khởi xướng cuộc đấu tranh nền độc lập, tự
do cho dân tộc mình, đồng bào mình bằng việc phê phán bản chất
nhân đạo của bộ máy chính quyền thực dân phong kiến . đang thống trị
các thuộc địa, trong đó Việt Nam. Nói về Nhà nước dân chủ, nhân
dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“NƯỚC TA NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ đến Chính phủ Trung ương do dân cra.
Đoàn thể từ Trung ương đến do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành lực ợng đều nơi dân.”
* Nhà nước của nhân dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh nhà
nước do dân chủ làm chủ. Nhân dân địa vị cao nhất, quyền
tham gia bàn luận quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Vị thế cách chủ của người dân được khẳng định trong Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).
* Nhà nước do nhân dân: Nhà nước do dân làm chủ trên cả hai
phương diện quyền lợi nghĩa vụ. ới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân lựa chọn, bầu ra các đại biểu xứng đáng o các quan quyền lực
nhà nước (từ Trung ương đến địa phương) thông qua chế độ bầu cử phổ
thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Nhân Dân quyền bãi miễn các nhân
hoặc các quan của Chính phủ, khi nhân hoặc quan Chính phủ
đó không thực hiện được sự ủy thác của nhân n, thậm chí đi ngược lại
lợi ích của nhân dân. Hồ Chí Minh phân tích: Nhân dân cử ra những
người đại diện cho nh, đồng thời “có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân n”. Nhà nước do dân còn thể
hiện một nội dung quan trọng: Nhân dân quyền tham gia công việc
quản của Nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động
của các quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Hồ Chí Minh
viết: “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát phê
bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đầy tớ trung thành tận tụy
của nhân dân”. Cùng với quyền lợi, theo Hồ Chí Minh, nhân dân
quyền làm chủ thì phải nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân (bổn
phận hay trách nhiệm đó được Người gọi “đạo đức công dân”). Người
nói: “Làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ muốn ăn bao
nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm”, làm chủ thì chớ nên “ăn cỗ đi
trước, lội nước theo sau”. Nhà nước do dân bầu ra, phải trách nhiệm
bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi phí hoạt động cho Nhà
nước.
* Nhà nước nhân dân : Nhà nước kiến tạo, tận tâm, tận lực phục
vụ lợi ích của đất nước nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hồ
Chí Minh nói, Nhà nước dân chủ nhân dân do dân là chủ thì Chính phủ
đầy tớ, công bộc của dân. Người chỉ rõ, cán bộ, công chức, viên chức
trong bộ máy chính quyền, nhà nước làm đầy tớ, công bộc của dân chứ
không phải “quan cách mạng”; không phải để “đè đầu cưỡi cổ dân”.
Mặt khác, Nhà nước nhân dân Nhà nước trách nhiệm hướng dẫn
nhân dân nhằm phát huy tính ch cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân
để tự chăm lo đời sống của mình. Trách nhiệm của Nhà nước là: Đem
tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Bên cạnh việc chăm lo lợi ích
của nhân dân nói chung, Nhà nước phải biết kết hợp, điều chỉnh các lợi
ích khác nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân một cách hài hòa,
đảm bảo ổn định hội. Nhà nước nhân n theo tưởng theo Hồ
Chí Minh một nhà nước phục vụ nhân n, không phải nhà nước cai
trị nhân dân.
người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đã thể hiện tấm gương
sáng về tinh thần tận tụy, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Người nói: “Cả đời tôi chỉ một mục đích phấn đấu cho
quyền lợi Tổ quốc, hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn
nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội xông pha sự hiểm nghèo
mục đích đó”. Người chỉ một tâm nguyện ham muốn: “.. muốn
đến tột bậc, làm sao cho ớc ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”; cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ tiếc: “..tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Chính ham muốn
mục đích cùng cao đẹp ấy đã tạo cho Người một ý chí nghị lực
cùng mãnh liệt: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”; đó điểm tựa giúp Người
vượt qua mọi khổ ải, khó khăn, dẫn dắt nhân n ta đến bến bờ hạnh
phúc.
Hình ảnh của Hồ Chí Minh - hình ảnh của một lãnh tụ đại về trí
tuệ lãnh đạo, mẫu mực về mối liên hệ thân thiết, gắn với nhân dân,
hết lòng thương yêu nhân dân, dựa vào dân, “cách mạng sự nghiệp
của quần chúng”, sức mạnh của nhân dân là địch, phải “lấy dân
làm gốc”.
1.2. Bản chất của Nhà nước kiểu mới Việt Nam
Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân. Hồ Chí
Minh phân tích, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta được thể
hiện trước hết chỗ, Nhà ớc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam - người đại diện cho quyền lợi của giai
cấp công nhân, cho nhân dân lao động đại diện cho lợi ích của toàn
dân tộc. Quyền lợi của dân tộc, của nhân dân được thể chế hóa trong
Hiến pháp pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đồng thời, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta còn thể hiện
thông qua việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật để quản lý, điều hành tất
cả các lĩnh vực đời sống hội. Các quan nhà nước, từ trung ương tới
địa phương được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Nhà nước dân chủ nhân dân hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
pháp luật, tuy nhiên, với chức năng của Nhà nước (quản lý, điều hành
hội...), sự cần thiết phải thực hiện chuyên chính. Song, như Hồ Chí
Minh giải thích: “Chế độ nào cũng chuyên chính. Vấn đề ai chuyên
chính với ai?... Như cái hòm đựng của cải thì phải cái khóa. Nhà thì
phải cửa...Dân chủ của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính
cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... Thế thì dân chủ cũng cần
phải chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”. Chuyên chính Hồ Chí
Minh đề cập “chuyên chính sản”, nhằm bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân nhân dân lao động; bảo
vệ chế độ hội chủ nghĩa; kịp thời ngăn chặn sự phá hoại của các lực
lượng thù địch, phản động chống phá cách mạng
* Nhà nước Việt Nam sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân tính dân tộc: Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước ta
mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời mang tính nhân dân tính
dân tộc sâu sắc. Người khẳng định, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động của dân tộc, Đảng không lợi ích nào khác. Đặt
mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động
dân tộc trong mối quan hệ biện chứng, trong một chỉnh thể thống nhất
không tách rời, Hồ Chí Minh cho rằng, các giai tầng trong hội,
lớn mạnh đến đâu cũng một bộ phận của dân tộc. vậy, quyền lợi
của giai cấp, bộ phận phải phục tùng quyền lợi của dân tộc. Chính
vậy, Nhà nước ta thành quả đấu tranh của giai cấp công nhân, đồng
thời thành quả cách mạng của nhân dân của cả dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Chỉ điều này cũng thể hiện sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân với tính nhân dân tính dân tộc của Nhà nước Việt
Nam
Thực tế lịch sử đã minh chứng, Nhà nước dân chủ nhân dân Việt
Nam ra đời thành quả hy sinh xương máu, đấu tranh gian khổ của
nhiều thế hệ người Việt Nam yêu ớc qua các thời kỳ lịch sử. Do đó,
Nhà nước coi lợi ích dân tộc là trên hết, trước hết, lấy lợi ích của dân
tộc, của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột mục tiêu phục vụ,
trong đó đương nhiên lợi ích của giai cấp. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được xây dựng trên nền tảng đại đoàn kết dân tộc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng ngay từ khi thành lập, trong thành
phần Chính phủ đã sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước,
tinh thần dân tộc (dù thuộc các đảng chính trị khác nhau), trong đó
nhiều người quan lại trong bộ máy chính quyền phong kiến. Điều đó
càng cho thấy tính dân tộc, tính nhân văn tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh thể hiện trong việc xây dựng Nhà nước dân chủ
nhân dân Việt Nam.
2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả
2.1 Nhà nước vững mạnh phải Nhà nước pháp quyền hội
chủ nghĩa
Ngay sau ngày Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách phải một Hiến pháp dân chủ. Người
đề nghị: “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc Tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu để sớm Quốc hội Nhà nước hợp
hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh sắc
lệnh về thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 20-9-1945, Người Sắc lệnh thành
lập Ban dự thảo Hiến pháp do Người làm Trưởng ban. Ngày 6-1-1946,
cuộc Tổng tuyển cử đã thành công, 333 đại biểu Quốc hội khóa I của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trúng cử. Tháng 3-1946, Chính
phủ hợp hiến đầu tiên đã được Quốc hội cử ra, do Hồ Chí Minh Chủ
tịch. Đây sở pháp lý, hợp hiến buộc các lực lượng Đồng minh phải
thương thảo với Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Để xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, một nhà nước pháp
quyền vững mạnh, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật
trong quản điều hành Nhà nước hội. Quan điểm này của Người
sớm được thể hiện trong bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam (6-
1919), yêu cầu Chính phủ Pháp chính quyền thuộc địa phải ban hành
Hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh, thay thế vào đó bằng
các đạo luật. Người đã thể hiện qua bài Diễn ca: “Bảy xin hiến pháp ban
hành; Trăm điều phải thần linh pháp quyền”.
Tuy nhiên, muốn Hiến pháp, pháp luật thực sđi vào cuộc sống,
Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng chế kiểm tra, giám sát việc thực
hiện, đồng thời nhấn mạnh phải hết sức chú trọng việc tuyên truyền
trong quần chúng nhân dân vấn đề công dân sống làm việc theo Hiến
pháp pháp luật. Người đòi hỏi cán bộ, công chức nhà nước phải
không ngừng học tập, nâng cao trình độ năng lực công tác, am hiểu pháp
luật, liêm khiết, thực hiện nghiêm minh đạo đức công vụ đạo đức
công dân.
Nhà nước pháp quyền trong tưởng Hồ Chí Minh nhà nước
phải sự kết hợp giữa vai trò của đạo đức vai trò của pháp luật. Đây
nét đặc sắc, một sáng tạo của Hồ Chí Minh trong các quan điểm về
xây dựng nhà nước. Với trí tuệ kinh nghiệm của một chính trị gia
uyên bác, Hồ Chí Minh đã chắt lọc kế thừa phát triển các quan niệm trên
kết hợp khéo léo vai trò của đạo đức vai trò của pháp luật. Người
đã nhiều lần giải thích mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật. Theo Hồ
Chí Minh, pháp luật hình thức, biện pháp khẳng định chuẩn mực, giá
trị của đạo đức; chuẩn mực đạo đức càng cao thì vai trò của pháp luật
càng quan trọng. Hồ Chí Minh nâng đạo đức con người thành đạo đức
cách mạng. Từ phạm trù trung, hiếu, Người đã khái quát, bổ sung thành
trung với nước, hiếu với dân; liêm, chính cũng được Người coi tiêu
chuẩn của cán bộ, công chức. Người coi những kẻ bất liêm (tham nhũng,
ăn cắp, ăn hối lộ, tham ô, ng phí) phạm tội nặng như tội phản quốc
(tội như làm Việt gian, mật thám) đòi hỏi phải bị nghiêm trị theo
pháp luật. Phải xây dựng chế kiểm ưa, giám sát việc thực thi quyền
lực
2.2 Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Theo Hồ Chí Minh, sự trong sạch vững mạnh của Nhà nước, trước
hết được thể hiện bằng công chức trong bộ máy nhà nước thực sự liêm
khiết. Người dẫn lời của Mạnh Tử: Nước lắm kẻ tham lam tvận
nước sẽ nguy. Hồ Chí Minh yêu cầu phải y dựng đội ngũ cán bộ, công
chức phẩm chất đạo đức tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ,
tinh thần “dĩ công vi thượng”, những người thực sự “công bộc của
dân”. Người đã sớm định hướng về việc thi tuyển, bổ nhiệm vào các bậc,
ngạch công chức theo các tiêu chuẩn hiện đại với những yêu cầu khá
toàn diện về kiến thức chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử, địa lý, ngoại
ngữ.
Cùng với việc đưa ra các tiêu chí về đạo đức công vụ, các tiêu
chuẩn phương pháp đào tạo đội ngũ công chức mới, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải kiên quyết chống tệ quan liêu, tham ô, lãng phí, chống
tưởng nhân chủ nghĩa... trong đội ngũ cán bộ, công chức. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, ai mắc phải tội với nhân dân, với Chính phủ, tội
nặng như làm mật thám, Việt Gian. Người yêu cầu cán bộ công chức
phải nâng cao năng lực công tác, đồng thời phải tu dưỡng đạo đức cần
kiệm liêm chính, chí công tư; phải tinh thần “phụng công thủ
pháp” (làm việc công phải giữ đúng pháp luật); phải nhận thức chúng
ta làm cách mạng là để chống tình trạng bất công, bất bình đẳng, vậy
phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm
3. Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, dân vào xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay
3.1. Sự cần thiết phải vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, dân vào xây dựng nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Đảng Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định: chủ nghĩa Mác-
Lênin, tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước
các chế độ hội ta. Đó kim chỉ nam đưa đường, dẫn lối cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, ới sự lãnh đạo của Đảng đi đến
thắng lợi vẻ vang. Do vậy, việc vận dụng tưởng của Người về nhà
nước của dân, do dân, dân vấn đề mang tính luận thực tiễn sâu
sắc, nguyên tắc bản để đảm bảo cho nhà nước luôn lu ôn giữ
được bản chất cách mạng của mình; giúp chúng ta tránh được những sai
lầm, thiếu sót xây dựng thành công nhà nước pháp quyền mang
những đặc trưng riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế- hội, truyền
thống bản sắc văn hóa dân tộc.
3.2 Những đặc trưng bản của Nhà nước pháp quyền hội
chủ nghĩa Việt Nam
Một là, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công phối
hợp giữa các quan nhà ớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp pháp. Đây vừa nguyên tắc tchức hoạt động của
bộ máy nhà nước ta, vừa quan điểm chỉ đạo quá trình thực hiện việc
cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp pháp luật giữ vị trí tối cao trong đời sống
hội. Nhà nước đại diện cho nhân dân thực thi quyền lực đặt ra pháp
luật, nhưng trong tổ chức vận hành cũng phải đặt dưới sự điều chỉnh
của pháp luật.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, nâng cao trách nhiệm pháp giữa nhà nước công dân,
thực hiện dân chủ, đồng thời giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế hội chủ nghĩa.
Năm là, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam tôn
trọng thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam đã kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ
chức hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây
đặc trưng bản để phân biệt nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
nhà nước pháp quyền sản.
3.3 Một số nội dung vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
* Thực hiện nguyên tắc: quyền lực nhà nước thống nhất, sự
phân công phối hợp giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp pháp; skiểm tra, giám sát chặt
chẽ việc thực hiện quyền lực nhà ớc
Nguyên tắc này trở thành một trong những đặc trưng bản của
Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam; một trong những
biện pháp quan trọng phòng tránh sự lộng quyền, lạm quyền, quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước ta; nêu cao tinh thần trách nhiệm
xác định được trách nhiệm của các quan nhà nước, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước; đảm bảo chủ quyền luôn
luôn thống nhất thuộc về nhân dân.
* Cải cách pháp, đảm bảo cho Tòa án độc lập chỉ tuân theo
pháp luật
Tòa án độc lập chỉ tuân theo pháp luật một trong những đặc
trưng bản, yêu cầu, đòi hỏi không thể thiếu của Nhà nước pháp
quyền hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, để đạt được đó chúng ta cần
tiếp tục thực hiện tốt những nội dung sau đây:
Thứ nhất, về mặt tổ chức, hệ thống Tòa án nước ta cần được thiết
kế, tổ chức theo cấp xét xử, nhằm giảm bớt lãng phí về tài chính, nhân
sự, sở vật chất, tạo thuận lợi trong tổ chức xét xử, quan trọng hơn
cả đảm bảo sự độc lập của Tòa án với chính quyền địa phương.
Thứ hai, quyền pháp phải được tổ chức hoạt động theo một
thủ tục pháp cụ thể, khả năng bảo đảm cho việc đạt được kết quả
pháp công bằng trong việc xét xử giải quyết các tranh chấp thuộc
thẩm quyền của Tòa án.
Thứ ba, các thẩm phán phải được bổ nhiệm suốt đời, hoặc chí ít
lâu dài hơn so với hiện nay.
Thứ tư, chế độ lương của thẩm phán phải được bảo đảm đủ nuôi họ
gia đình một cách đàng hoàng, như vậy họ mới vững tâm hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ năm, đề cao trách nhiệm, trình độ chuyên môn phẩm chất
đạo đức của người thẩm phán.
Trong Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi
một nền pháp (mà trung tâm Tòa án) phải đủ khả năng kiểm soát
giới hạn hai nhánh quyền lực lập pháp hành pháp trên sở Hiến
pháp pháp luật; pháp phải được áp dụng phổ biến tiêu biểu
của công để giải quyết các tranh chấp trong hội; pháp phải đảm
bảo các quyền tự do của con người quyền lực pháp cũng được
giới hạn bởi Hiến pháp pháp luật. Để đáp ứng được những yêu cầu,
đòi hỏi đó thì điều quan trọng nhất phải đảm bảo cho Tòa án được độc
lập chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình tổ chức hoạt động.
3.4. Cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa
Để một nền hành chính năng động, sáng tạo, tinh gọn, trách
nhiệm, phục vụ tốt các nhu cầu của người dân hội, đáp ứng những
đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam thì chúng
ta cần:
- Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ, sắp xếp,
thu gọn các đầu mối của Chính phủ. Đổi mới hoạt động của Chính phủ
theo hướng Chính phủ tập trung vào xây dựng các chính sách, các thể
chế, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế- hội, chỉ đạo điều
hành phối hợp các ngành, các cấp thực thi chính sách, pháp luật.
- Đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương, đẩy
mạnh phân công, phân cấp, nâng cao nh chủ động, sáng tạo, chịu trách
nhiệm trước pháp luật của chính quyền địa phương đối với mọi hoạt
động hội tại địa phương. Tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát, đánh
giá các hoạt động của Hội đồng nhân dân ủy ban nhân dân. Tchức
hợp Hội đồng nhân dân, tăng cường vai tcủa Hội đồng nhân dân
địa phương.
- Trong nền hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo
đồ sộ nhất, do đó, yếu tố con người khâu then chốt. Cần xây dựng quy
chế hoạt động công vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán
bộ, công chức. Thực hiện thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ kỹ năng thực hành chuyên môn của đội ngũ cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ thói quen tuân thủ pháp luật, công tâm,
tinh thần trách nhiệm đối với nhân n.
3.5. Xây dựng chất đạo đức của người cán bộ trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Những yêu cầu, đòi hỏi về phẩm chất đạo đức của người cán bộ
trong điều kiện hiện nay đó là:
Một là, tinh thần yêu ớc sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, phấn đấu thực
hiện kết quả đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước.
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư, không tham nhũng
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, ý thức tổ chức kỷ luật,
không hội, gắn mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Ba là, trình độ hiểu biết về luận chính trị, quan điểm, đường
lối của Đảng pháp luật của Nhà nước, trình độ văn hóa, chuyên
môn, đủ năng lực sức khỏe để m việc hiệu quả, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn đó quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức
tài, đức gốc.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức "vừa hồng vừa
chuyên", phải tăng cường pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách
mạng, phát huy tinh thần phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc; Đảng
Nhà nước phải thường xuyên chăm lo xây dựng, giáo dục bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ về mọi mặt; m tốt công tác cán bộ; tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong nhà nước cũng như ngoài hội, xử nghiêm minh,
công bằng những cán bộ thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật; mỗi cán
bộ, đảng viên phải tích cực, tự giác trong học tập rèn luyện về đạo
đức cũng như về tri thức, coi trọng việc tự học, tự rèn luyện; thực hiện
thường xuyên nghiêm túc nguyên tắc tphê bình phê bình; phát
huy dân chủ dựa vào nhân dân để xây dựng, giáo dục, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức...
3.6. Mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam
- Tính tất yếu của mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật chỉ thể thực hiện được vai trò phương
tiện hàng đầu trong việc điều chỉnh các quan hệ hội khi sự bổ
sung, hỗ trợ của các quy phạm hội khác. Pháp luật không phải công
cụ vạn năng để thể điều chỉnh được hết mọi quan hệ hội, thuộc
mọi lĩnh vực khác nhau trong đời sống hội. Pháp luật không thể
cũng không nhất thiết phải làm điều đó.
Thứ hai, pháp luật chỉ nh khả thi khi được ban hành
thực hiện dựa trên những giá trđạo đức tiến bộ của hội, xuất phát từ
nhu cầu khách quan của cuộc sống, từ ý chí, nguyện vọng lợi ích của
nhân dân.
Thứ ba, hệ thống pháp luật nước ta hiện nay vẫn chưa hoàn thiện,
còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính minh bạch, tính khả thi thấp,
chậm đi vào cuộc sống. Do vậy, cùng với pháp luật, chúng ta cần chú
trọng giáo dục, nâng cao đạo đức cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất đối
với đội ngũ cán bộ, công chức nhà ớc.
Thứ tư, hội Việt Nam một hội trọng đạo đức, một hội
duy tình hơn duy lý. Do vây, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
Việt Nam kết hợp hài hòa giữa pháp luật đạo đức trong quản hội
điều phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc, lịch sử hình
thành, phát triển bản chất ch mạng của Nhà nước ta.
- Thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật nước ta hiện
nay:
Nhìn chung, pháp luật đã được xây dựng trên nền tảng đạo đức,
phản ánh khá đầy đủ các quan niệm đạo đức cách mạng, đạo đức truyền
thống tiến bộ của dân tộc, ngược lại, đạo đức đã tác dụng to lớn
đến việc hình thành các quy định trong pháp luật cũng như việc thực
hiện pháp luật của các chủ thể trong hội.
Bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém
như sau:
Pháp luật ban hành nhiều nhưng còn chậm đi vào cuộc sống, tính
khả thi thấp, lại thường xuyên sự thay đổi. Đặc biệt, việc tổ chức thực
hiện pháp luật còn chưa tốt, thi hành luật chưa nghiêm. Pháp luật nước
ta chưa làm tròn chức năng răn đe, ngăn ngừa, "phòng bệnh" phần
lớn chỉ sử dụng như một công cụ để xử vi phạm; nhiều giá trị đạo đức
tốt đẹp của dân tộc xu hướng mai một dần hoặc sự biến tướng, lai
căng theo hướng phản tiến bộ; Nhiều quan niệm đạo đức lạc hậu, lỗi
thời, phản tiến bộ chiều hướng khôi phục, trỗi dậy; đang diễn ra sự
suy thoái về đạo đức lối sống trong hội, với các biểu hiện như: chủ
nghĩa nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, vụ lợi...có xu hướng ngày
càng phát triển. Một bộ phận cán bộ lợi dụng vị trí quyền lực để mưu
lợi nhân, lo thu vén cho nhân, gia đình, họ tộc, coi nhẹ lợi ích tập
thể, cộng đồng; nạn tham nhũng, đưa nhận hối lộ, bòn rút, lãng phí
của công... diễn ra nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trở
thành "quốc nạn";... quan liêu, xa dân, nh đạm, cảm trước những
khó khăn, bức xúc, những yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân, của
doanh nghiệp;... lối sống thiếu trung thực, hội "chạy chọt" lợi ích
nhân như chạy thành tích, bằng cấp, chức quyền, dán, đề tài, chạy
án, chạy tội... khá phổ biến;... lời nói không đi đôi với việc làm, nói
không làm, hứa nhưng không thực hiện...nói một đàng, làm một nẻo; nói
nhiều, làm ít;... đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh
vực được hội tôn vinh như y tế, giáo dục, bảo vệ pháp luật, báo chí…
- Những giải pháp nâng cao vai trò, tác dụng của pháp luật đạo
đức trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò của đạo đức, pháp
luật sự kết hợp giữa chúng trong quản điều hành hội.
Thứ hai, đưa các chuẩn mực đạo đức bản vào nội dung các văn
bản pháp luật.
Cần tập trung luật hóa cho được những phẩm chất đạo đức mới
chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu, đó là: Trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính, chí công tư; yêu thương con người, sống nghĩa,
tình; tinh thần quốc tế trong sáng.
Thứ ba, đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến giáo dụng pháp
luật đạo đức trong các tầng lớp nhân dân toàn hội.
Thứ tư: Tùy theo tính chất, nội dung của mỗi văn bản luật
trước khi đưa vào cuộc sống cần thông qua một cuộc trưng cầu dân ý để
điều chỉnh, bổ sung những nội dung cần thiết.
Pháp luật ban hành để nhân dân thực hiện, công cụ, phương
tiện để nhân dân sinh tồn, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do
vậy, cuộc sống, quyền lợi ích của chính nhân dân, trước khi luật
được chính thức thực thi rộng i thì cần trưng cầu dân ý để tiếp thu trí
tuệ lực lượng toàn dân. Đó biện pháp căn bản khắc phục tính thiếu
khả thi, chậm đi vào cuộc sống của pháp luật nước ta hiện nay; làm cho
pháp luật trở thành "pháp luật tnhiên" được mọi người tự giác thực
hiện.
Thứ năm, Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm
tính nghiêm minh tuyệt đối trong chấp hành pháp luật. Mọi người bình
đẳng trước pháp luật. Xây dựng lối sống, lao động, học tập hành xử
theo pháp luật.
3.7. Thực hiện dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà ớc
pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Thực hiện dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta cần thực hiện đồng bộ,
với quyết tâm cao bền bỉ những giải pháp sau:
Trước hết, xác định vị trí tối cao của pháp luật trong đời sống nhà
nước hội.
Mọi hoạt động của các nhân, các tchức, cán bộ, công chức
các quan nhà nước phải trên sở đặt dưới sự điều chỉnh của pháp
luật, không ngoại lệ. Pháp luật phải xuất phát từ những yêu cầu, đòi
hỏi của hiện thực khách quan; phải thể hiện đầy đủ ý chí nguyện vọng
của nhân dân, phù hợp với quyền lợi ích của nhân dân, phản ánh
những chuẩn mực đạo đức các giá trị tiến bộ của nhân loại.
Thứ hai, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
cao.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách bộ máy hành chính, cải
cách pháp, đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội Hội đồng
nhân dân các cấp; tăng cường pháp chế, xử nghiêm minh, công bằng
mọi hành vi vi phạm pháp luật…
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh thông nghiệp vụ,
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, thực sự công bộc của dân.
Bốn là, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân từ kinh tế, chính
trị, tưởng đến các lĩnh vực khác.
Nói dân chủ trước hết dân chủ trong kinh tế, đây mấu chốt
quyết định. Nghĩa nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân làm
ăn hợp pháp, giải phóng sức sản xuất, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân... Dân chủ
trong chính trị phải tiếp tục đổi mới thể chế, từ luật pháp, chế, bộ
máy để thực hiện bằng được nguyên lý dân chủ là: người dân được m
tất cả những luật pháp không cấm, còn công chức chỉ được làm những
luật pháp cho phép.
Năm là, thường xuyên giáo dục pháp luật nâng cao văn hóa
dân chủ cho tất cả mọi người. Thực hành dân chủ tốt sẽ chống lại
hiệu quả chủ nghĩa nhân, tệ quan liêu, tham nhũng các tnạn
khác.
Hình thành nhiều hình thức tập hợp quần chúng, nhiều kênh thông
tin để người dân diễn đàn trình bày ý kiến của mình với Đảng, Nhà
nước. Muốn vậy, cần tăng cường vai trò, chức năng của Mặt trận tquốc
các đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp các tổ chức hội
trong giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
Nhà nước của dân, do dân, dân theo quan điểm, tưởng Hồ Chí
Minh một nhà nước do toàn thể nhân dân lập nên; một nhà nước
hoàn toàn hợp hiến, hợp pháp; nhà nước quyền lực của bắt
nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy thác, chứ không phải bắt nguồn t
lực lượng siêu nhiên chúa trời hay từ trí tối cao; một nhà nước lấy
quyền lợi của nhân dân, lấy sự tự do hạnh phúc của nhân dân làm
nhiệm vụ hoạt động làm do tồn tại của mình. Nhà nước không
mục đích tự thân nào, chỉ công cụ phục vụ nhân dân, phục vụ yêu
cầu phát triển của hội. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu như chính
quyền làm hại đến dân, không mưu cầu quyền lợi hạnh phúc cho
nhân dân thì nhân dân quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó
lập nên một chính quyền mới.
Nhà nước của dân, do dân, dân, theo ởng Hồ Chí Minh còn
nhà nước phương thức tổ chức quyền lực hợp lý, khoa học, đảm
bảo quyền lực nhà nước luôn thống nhất thuộc về một chủ thể duy nhất
nhân dân, sự phân công, phối hợp trong bộ máy nhà nước, để đảm
bảo chính quyền luôn luôn mạnh mẽ, sáng suốt, hiệu quả, lợi ích của
nhân dân. Đó một nhà nước Quốc hội thể hiện tính dân chủ, tính
nhân dân tính dân tộc sâu sắc; bộ máy hành pháp mạnh mẽ, sáng
suốt, dám chịu trách nhiệm; nền pháp độc lập độc lập, mỗi thẩm
phán chỉ trọng pháp luật, công lương tâm, trách nhiệm của nh;
đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, thực sự "công bộc" của nhân
dân; đó nhà nước coi trọng tính "tự quản", tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật của chính quyền địa phương; đó là nhà nước kết hợp hài hòa
giữa đạo đức pháp luật trong cả quá trình xây dựng thực thi pháp
luật.
Nhà nước trong tưởng Hồ Chí Minh không phải là nhà nước
vĩnh cửu, bất biến, trái lại đó nhà nước luôn vận động phát triển để
phục vụ ngày càng tốt hơn quyền lợi ích của nhân dân. Luôn đấu
tranh để khắc phục loại trừ những thói hư, tật xấu, những căn bệnh

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TÍNH ĐÚNG ĐẮN VÀ SÁNG TẠO TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
NGUYỄN THU NGÂN - 97613 NGUYỄN MAI QUỲNH -
NGUYỄN YẾN VY - 98650
HOÀNG THỊ YẾN - 96960
VŨ NGỌC DUYÊN - 95393
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh N03
Viện: Viện Đào tạo Quốc tế Khóa năm: 2023-2024
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Phan Duy Hòa Hải Phòng – 2023 I. MỞ ĐẦU
Tư tưởng và quan điểm của Bác về nhà nước của dân, do dân, vì dân vô
cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa
đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với
cách mạng Việt Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới
thành công. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân không những có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng
ta những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước,
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự là công bộc của dân, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấu trong
bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả
các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được
bản chất cách mạng, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền là xu hướng tất
yếu khách quan. Trên thế giới cũng chưa có quốc gia, dân tộc nào khẳng
định đã xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, mà chỉ đạt được một
số thành tựu nhất định. Mặt khác, không có một nhà nước pháp quyền
với tư cách là khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do
vậy, cùng với việc tiếp thu những giá trị có tính chất phổ biến về nhà
nước pháp quyền mà nhân loại đã đạt được, chúng ta cần nghiên cứu, kế
thừa và vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật để từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có những đặc trưng riêng, phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế- xã hội, truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc Việt Nam. Với
những lý do trên, em lựa chọn chủ đề: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay ” để nghiên cứu, viết bài thu
hoạch môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình đào tạo Cao cấp lý luận chính trị. II. NỘI DUNG
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam
1.1. Về nhà nước kiểu mới trong lịch sử Việt Nam - Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
nhiều mô hình nhà nước và khởi xướng cuộc đấu tranh vì nền độc lập, tự
do cho dân tộc mình, đồng bào mình bằng việc phê phán bản chất vô
nhân đạo của bộ máy chính quyền thực dân phong kiến . đang thống trị ở
các thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Nói về Nhà nước dân chủ, nhân
dân ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”
* Nhà nước của nhân dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là nhà
nước do dân là chủ và làm chủ. Nhân dân có địa vị cao nhất, có quyền
tham gia bàn luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Vị thế và tư cách là chủ của người dân được khẳng định trong Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).
* Nhà nước do nhân dân: Nhà nước do dân làm chủ trên cả hai
phương diện quyền lợi và nghĩa vụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân lựa chọn, bầu ra các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực
nhà nước (từ Trung ương đến địa phương) thông qua chế độ bầu cử phổ
thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Nhân Dân có quyền bãi miễn các cá nhân
hoặc các cơ quan của Chính phủ, khi cá nhân hoặc cơ quan Chính phủ
đó không thực hiện được sự ủy thác của nhân dân, thậm chí đi ngược lại
lợi ích của nhân dân. Hồ Chí Minh phân tích: Nhân dân cử ra những
người đại diện cho mình, đồng thời “có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Nhà nước do dân còn thể
hiện ở một nội dung quan trọng: Nhân dân có quyền tham gia công việc
quản lý của Nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Hồ Chí Minh
viết: “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đầy tớ trung thành tận tụy
của nhân dân”. Cùng với quyền lợi, theo Hồ Chí Minh, nhân dân có
quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân (bổn
phận hay trách nhiệm đó được Người gọi là “đạo đức công dân”). Người
nói: “Làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao
nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm”, làm chủ thì chớ nên “ăn cỗ đi
trước, lội nước theo sau”. Nhà nước do dân bầu ra, phải có trách nhiệm
bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để có chi phí hoạt động cho Nhà nước.
* Nhà nước vì nhân dân : Nhà nước kiến tạo, tận tâm, tận lực phục
vụ lợi ích của đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hồ
Chí Minh nói, Nhà nước dân chủ nhân dân do dân là chủ thì Chính phủ
là đầy tớ, công bộc của dân. Người chỉ rõ, cán bộ, công chức, viên chức
trong bộ máy chính quyền, nhà nước làm đầy tớ, công bộc của dân chứ
không phải là “quan cách mạng”; không phải để “đè đầu cưỡi cổ dân”.
Mặt khác, Nhà nước vì nhân dân là Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn
nhân dân nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân
để tự chăm lo đời sống của mình. Trách nhiệm của Nhà nước là: “Đem
tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Bên cạnh việc chăm lo lợi ích
của nhân dân nói chung, Nhà nước phải biết kết hợp, điều chỉnh các lợi
ích khác nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân một cách hài hòa,
đảm bảo ổn định xã hội. Nhà nước vì nhân dân theo tư tưởng theo Hồ
Chí Minh là một nhà nước phục vụ nhân dân, không phải nhà nước cai trị nhân dân.
Là người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đã thể hiện tấm gương
sáng về tinh thần tận tụy, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn
nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội xông pha sự hiểm nghèo là vì
mục đích đó”. Người chỉ có một tâm nguyện và ham muốn: “.. muốn
đến tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”; cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ tiếc: “..tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Chính ham muốn và
mục đích vô cùng cao đẹp ấy đã tạo cho Người một ý chí và nghị lực vô
cùng mãnh liệt: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”; đó là điểm tựa giúp Người
vượt qua mọi khổ ải, khó khăn, dẫn dắt nhân dân ta đến bến bờ hạnh phúc.
Hình ảnh của Hồ Chí Minh - hình ảnh của một lãnh tụ vĩ đại về trí
tuệ lãnh đạo, mẫu mực về mối liên hệ thân thiết, gắn bó với nhân dân,
hết lòng thương yêu nhân dân, dựa vào dân, vì “cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”, vì sức mạnh của nhân dân là vô địch, phải “lấy dân làm gốc”.
1.2. Bản chất của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam
Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân. Hồ Chí
Minh phân tích, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta được thể
hiện trước hết ở chỗ, Nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam - người đại diện cho quyền lợi của giai
cấp công nhân, cho nhân dân lao động và đại diện cho lợi ích của toàn
dân tộc. Quyền lợi của dân tộc, của nhân dân được thể chế hóa trong
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đồng thời, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta còn thể hiện
thông qua việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật để quản lý, điều hành tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Các cơ quan nhà nước, từ trung ương tới
địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Nhà nước dân chủ nhân dân hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật, tuy nhiên, với chức năng của Nhà nước (quản lý, điều hành
xã hội...), sự cần thiết là phải thực hiện chuyên chính. Song, như Hồ Chí
Minh giải thích: “Chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên
chính với ai?... Như cái hòm đựng của cải thì phải có cái khóa. Nhà thì
phải có cửa...Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là
cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... Thế thì dân chủ cũng cần
phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”. Chuyên chính mà Hồ Chí
Minh đề cập là “chuyên chính vô sản”, nhằm bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời ngăn chặn sự phá hoại của các lực
lượng thù địch, phản động chống phá cách mạng
* Nhà nước Việt Nam là sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc: Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước ta
mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời mang tính nhân dân và tính
dân tộc sâu sắc. Người khẳng định, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Đặt
mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động
và dân tộc trong mối quan hệ biện chứng, trong một chỉnh thể thống nhất
không tách rời, Hồ Chí Minh cho rằng, các giai tầng trong xã hội, dù có
lớn mạnh đến đâu cũng là một bộ phận của dân tộc. Vì vậy, quyền lợi
của giai cấp, bộ phận phải phục tùng quyền lợi của dân tộc. Chính vì
vậy, Nhà nước ta là thành quả đấu tranh của giai cấp công nhân, đồng
thời là thành quả cách mạng của nhân dân và của cả dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Chỉ điều này cũng thể hiện rõ sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam
Thực tế lịch sử đã minh chứng, Nhà nước dân chủ nhân dân Việt
Nam ra đời là thành quả hy sinh xương máu, đấu tranh gian khổ của
nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước qua các thời kỳ lịch sử. Do đó,
Nhà nước coi lợi ích dân tộc là trên hết, trước hết, lấy lợi ích của dân
tộc, của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột là mục tiêu phục vụ,
trong đó đương nhiên có lợi ích của giai cấp. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được xây dựng trên nền tảng đại đoàn kết dân tộc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng ngay từ khi thành lập, trong thành
phần Chính phủ đã có sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước,
có tinh thần dân tộc (dù thuộc các đảng chính trị khác nhau), trong đó có
nhiều người là quan lại trong bộ máy chính quyền phong kiến. Điều đó
càng cho thấy tính dân tộc, tính nhân văn và tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh thể hiện trong việc xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả
2.1 Nhà nước vững mạnh phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Ngay sau ngày Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách là phải có một Hiến pháp dân chủ. Người
đề nghị: “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc Tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu để sớm có Quốc hội và Nhà nước hợp
hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc
lệnh về thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 20-9-1945, Người ký Sắc lệnh thành
lập Ban dự thảo Hiến pháp do Người làm Trưởng ban. Ngày 6-1-1946,
cuộc Tổng tuyển cử đã thành công, 333 đại biểu Quốc hội khóa I của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trúng cử. Tháng 3-1946, Chính
phủ hợp hiến đầu tiên đã được Quốc hội cử ra, do Hồ Chí Minh là Chủ
tịch. Đây là cơ sở pháp lý, hợp hiến buộc các lực lượng Đồng minh phải
thương thảo với Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Để xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, một nhà nước pháp
quyền vững mạnh, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật
trong quản lý điều hành Nhà nước và xã hội. Quan điểm này của Người
sớm được thể hiện trong bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam (6-
1919), yêu cầu Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa phải ban hành
Hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh, thay thế vào đó bằng
các đạo luật. Người đã thể hiện qua bài Diễn ca: “Bảy xin hiến pháp ban
hành; Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Tuy nhiên, muốn Hiến pháp, pháp luật thực sự đi vào cuộc sống,
Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực
hiện, đồng thời nhấn mạnh phải hết sức chú trọng việc tuyên truyền
trong quần chúng nhân dân vấn đề công dân sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật. Người đòi hỏi cán bộ, công chức nhà nước phải
không ngừng học tập, nâng cao trình độ năng lực công tác, am hiểu pháp
luật, liêm khiết, thực hiện nghiêm minh đạo đức công vụ và đạo đức công dân.
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nhà nước
phải có sự kết hợp giữa vai trò của đạo đức và vai trò của pháp luật. Đây
là nét đặc sắc, một sáng tạo của Hồ Chí Minh trong các quan điểm về
xây dựng nhà nước. Với trí tuệ và kinh nghiệm của một chính trị gia
uyên bác, Hồ Chí Minh đã chắt lọc kế thừa phát triển các quan niệm trên
và kết hợp khéo léo vai trò của đạo đức và vai trò của pháp luật. Người
đã nhiều lần giải thích mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Theo Hồ
Chí Minh, pháp luật là hình thức, biện pháp khẳng định chuẩn mực, giá
trị của đạo đức; chuẩn mực đạo đức càng cao thì vai trò của pháp luật
càng quan trọng. Hồ Chí Minh nâng đạo đức con người thành đạo đức
cách mạng. Từ phạm trù trung, hiếu, Người đã khái quát, bổ sung thành
trung với nước, hiếu với dân; liêm, chính cũng được Người coi là tiêu
chuẩn của cán bộ, công chức. Người coi những kẻ bất liêm (tham nhũng,
ăn cắp, ăn hối lộ, tham ô, lãng phí) là phạm tội nặng như tội phản quốc
(tội như làm Việt gian, mật thám) và đòi hỏi phải bị nghiêm trị theo
pháp luật. Phải xây dựng cơ chế kiểm ưa, giám sát việc thực thi quyền lực
2.2 Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Theo Hồ Chí Minh, sự trong sạch vững mạnh của Nhà nước, trước
hết được thể hiện bằng công chức trong bộ máy nhà nước thực sự liêm
khiết. Người dẫn lời của Mạnh Tử: Nước mà lắm kẻ tham lam thì vận
nước sẽ nguy. Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất đạo đức và tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ, có
tinh thần “dĩ công vi thượng”, những người thực sự là “công bộc của
dân”. Người đã sớm định hướng về việc thi tuyển, bổ nhiệm vào các bậc,
ngạch công chức theo các tiêu chuẩn hiện đại với những yêu cầu khá
toàn diện về kiến thức chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử, địa lý, ngoại ngữ.
Cùng với việc đưa ra các tiêu chí về đạo đức công vụ, các tiêu
chuẩn và phương pháp đào tạo đội ngũ công chức mới, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải kiên quyết chống tệ quan liêu, tham ô, lãng phí, chống tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa... trong đội ngũ cán bộ, công chức. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, ai mắc phải là có tội với nhân dân, với Chính phủ, tội
nặng như làm mật thám, Việt Gian. Người yêu cầu cán bộ công chức
phải nâng cao năng lực công tác, đồng thời phải tu dưỡng đạo đức cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư; phải có tinh thần “phụng công thủ
pháp” (làm việc công phải giữ đúng pháp luật); phải nhận thức rõ chúng
ta làm cách mạng là để chống tình trạng bất công, bất bình đẳng, vì vậy
phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
3.1. Sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định: chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước
và các chế độ xã hội ta. Đó là kim chỉ nam đưa đường, dẫn lối cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đi đến
thắng lợi vẻ vang. Do vậy, việc vận dụng tư tưởng của Người về nhà
nước của dân, do dân, vì dân là vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu
sắc, là nguyên tắc cơ bản để đảm bảo cho nhà nước luôn lu ôn giữ
được bản chất cách mạng của mình; giúp chúng ta tránh được những sai
lầm, thiếu sót và xây dựng thành công nhà nước pháp quyền mang
những đặc trưng riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, truyền
thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
3.2 Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình thực hiện việc
cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối cao trong đời sống xã
hội. Nhà nước đại diện cho nhân dân thực thi quyền lực và đặt ra pháp
luật, nhưng trong tổ chức và vận hành cũng phải đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân,
thực hiện dân chủ, đồng thời giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn
trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ
chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây
là đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và nhà nước pháp quyền tư sản.
3.3 Một số nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

* Thực hiện nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có sự kiểm tra, giám sát chặt
chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước
Nguyên tắc này trở thành một trong những đặc trưng cơ bản của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là một trong những
biện pháp quan trọng phòng tránh sự lộng quyền, lạm quyền, quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước ta; nêu cao tinh thần trách nhiệm và
xác định được rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước; đảm bảo chủ quyền luôn
luôn thống nhất thuộc về nhân dân.
* Cải cách tư pháp, đảm bảo cho Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những đặc
trưng cơ bản, là yêu cầu, đòi hỏi không thể thiếu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, để đạt được đó chúng ta cần
và tiếp tục thực hiện tốt những nội dung sau đây:
Thứ nhất, về mặt tổ chức, hệ thống Tòa án ở nước ta cần được thiết
kế, tổ chức theo cấp xét xử, nhằm giảm bớt lãng phí về tài chính, nhân
sự, cơ sở vật chất, tạo thuận lợi trong tổ chức xét xử, và quan trọng hơn
cả là đảm bảo sự độc lập của Tòa án với chính quyền địa phương.
Thứ hai, quyền tư pháp phải được tổ chức và hoạt động theo một
thủ tục pháp lý cụ thể, có khả năng bảo đảm cho việc đạt được kết quả
pháp lý công bằng trong việc xét xử và giải quyết các tranh chấp thuộc
thẩm quyền của Tòa án.
Thứ ba, các thẩm phán phải được bổ nhiệm suốt đời, hoặc chí ít là
lâu dài hơn so với hiện nay.
Thứ tư, chế độ lương của thẩm phán phải được bảo đảm đủ nuôi họ
và gia đình một cách đàng hoàng, có như vậy họ mới vững tâm hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ năm, đề cao trách nhiệm, trình độ chuyên môn và phẩm chất
đạo đức của người thẩm phán.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi
một nền tư pháp (mà trung tâm là Tòa án) phải có đủ khả năng kiểm soát
và giới hạn hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp trên cơ sở Hiến
pháp và pháp luật; tư pháp phải được áp dụng phổ biến và là tiêu biểu
của công lý để giải quyết các tranh chấp trong xã hội; tư pháp phải đảm
bảo các quyền và tự do của con người và quyền lực tư pháp cũng được
giới hạn bởi Hiến pháp và pháp luật. Để đáp ứng được những yêu cầu,
đòi hỏi đó thì điều quan trọng nhất là phải đảm bảo cho Tòa án được độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình tổ chức và hoạt động.
3.4. Cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa
Để có một nền hành chính năng động, sáng tạo, tinh gọn, trách
nhiệm, phục vụ tốt các nhu cầu của người dân và xã hội, đáp ứng những
đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì chúng ta cần:
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, sắp xếp,
thu gọn các đầu mối của Chính phủ. Đổi mới hoạt động của Chính phủ
theo hướng Chính phủ tập trung vào xây dựng các chính sách, các thể
chế, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, chỉ đạo và điều
hành phối hợp các ngành, các cấp thực thi chính sách, pháp luật.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, đẩy
mạnh phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, chịu trách
nhiệm trước pháp luật của chính quyền địa phương đối với mọi hoạt
động xã hội tại địa phương. Tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát, đánh
giá các hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Tổ chức
hợp lý Hội đồng nhân dân, tăng cường vai trò của Hội đồng nhân dân ở địa phương.
- Trong nền hành chính, có đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo và
đồ sộ nhất, do đó, yếu tố con người là khâu then chốt. Cần xây dựng quy
chế hoạt động công vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán
bộ, công chức. Thực hiện thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ và kỹ năng thực hành chuyên môn của đội ngũ cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ có thói quen tuân thủ pháp luật, công tâm, có
tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân.
3.5. Xây dựng chất đạo đức của người cán bộ trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Những yêu cầu, đòi hỏi về phẩm chất đạo đức của người cán bộ
trong điều kiện hiện nay đó là:
Một là, có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực
hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước.
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng
và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật,
không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Ba là, có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có trình độ văn hóa, chuyên
môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn đó quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức "vừa hồng vừa
chuyên", phải tăng cường pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách
mạng, phát huy tinh thần phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc; Đảng và
Nhà nước phải thường xuyên chăm lo xây dựng, giáo dục và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ về mọi mặt; làm tốt công tác cán bộ; tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong nhà nước cũng như ngoài xã hội, xử lý nghiêm minh,
công bằng những cán bộ thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật; mỗi cán
bộ, đảng viên phải tích cực, tự giác trong học tập và rèn luyện về đạo
đức cũng như về tri thức, coi trọng việc tự học, tự rèn luyện; thực hiện
thường xuyên và nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình; phát
huy dân chủ và dựa vào nhân dân để xây dựng, giáo dục, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức...
3.6. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Tính tất yếu của mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật chỉ có thể thực hiện được vai trò là phương
tiện hàng đầu trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có sự bổ
sung, hỗ trợ của các quy phạm xã hội khác. Pháp luật không phải là công
cụ vạn năng để có thể điều chỉnh được hết mọi quan hệ xã hội, thuộc
mọi lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Pháp luật không thể và
cũng không nhất thiết phải làm điều đó.
Thứ hai, pháp luật chỉ có tính khả thi khi mà nó được ban hành và
thực hiện dựa trên những giá trị đạo đức tiến bộ của xã hội, xuất phát từ
nhu cầu khách quan của cuộc sống, từ ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Thứ ba, hệ thống pháp luật nước ta hiện nay vẫn chưa hoàn thiện,
còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính minh bạch, tính khả thi thấp,
chậm đi vào cuộc sống. Do vậy, cùng với pháp luật, chúng ta cần chú
trọng giáo dục, nâng cao đạo đức cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối
với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Thứ tư, xã hội Việt Nam là một xã hội trọng đạo đức, một xã hội
duy tình hơn duy lý. Do vây, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội
là điều phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc, lịch sử hình
thành, phát triển và bản chất cách mạng của Nhà nước ta.
- Thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ở nước ta hiện nay:
Nhìn chung, pháp luật đã được xây dựng trên nền tảng đạo đức,
phản ánh khá đầy đủ các quan niệm đạo đức cách mạng, đạo đức truyền
thống tiến bộ của dân tộc, và ngược lại, đạo đức đã có tác dụng to lớn
đến việc hình thành các quy định trong pháp luật cũng như việc thực
hiện pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
Bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém như sau:
Pháp luật ban hành nhiều nhưng còn chậm đi vào cuộc sống, tính
khả thi thấp, lại thường xuyên có sự thay đổi. Đặc biệt, việc tổ chức thực
hiện pháp luật còn chưa tốt, thi hành luật chưa nghiêm. Pháp luật nước
ta chưa làm tròn chức năng răn đe, ngăn ngừa, "phòng bệnh" mà phần
lớn chỉ sử dụng như một công cụ để xử lý vi phạm; nhiều giá trị đạo đức
tốt đẹp của dân tộc có xu hướng mai một dần hoặc có sự biến tướng, lai
căng theo hướng phản tiến bộ; Nhiều quan niệm đạo đức lạc hậu, lỗi
thời, phản tiến bộ có chiều hướng khôi phục, trỗi dậy; đang diễn ra sự
suy thoái về đạo đức và lối sống trong xã hội, với các biểu hiện như: chủ
nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, vụ lợi...có xu hướng ngày
càng phát triển. Một bộ phận cán bộ lợi dụng vị trí và quyền lực để mưu
lợi cá nhân, lo thu vén cho cá nhân, gia đình, họ tộc, coi nhẹ lợi ích tập
thể, cộng đồng; nạn tham nhũng, đưa và nhận hối lộ, bòn rút, lãng phí
của công... diễn ra nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trở
thành "quốc nạn";... quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những
khó khăn, bức xúc, những yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân, của
doanh nghiệp;... lối sống thiếu trung thực, cơ hội "chạy chọt" vì lợi ích
cá nhân như chạy thành tích, bằng cấp, chức quyền, dự án, đề tài, chạy
án, chạy tội... khá phổ biến;... lời nói không đi đôi với việc làm, nói mà
không làm, hứa nhưng không thực hiện...nói một đàng, làm một nẻo; nói
nhiều, làm ít;... đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh
vực được xã hội tôn vinh như y tế, giáo dục, bảo vệ pháp luật, báo chí…
- Những giải pháp nâng cao vai trò, tác dụng của pháp luật và đạo
đức trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò của đạo đức, pháp
luật và sự kết hợp giữa chúng trong quản lý và điều hành xã hội.
Thứ hai, đưa các chuẩn mực đạo đức cơ bản vào nội dung các văn bản pháp luật.
Cần tập trung luật hóa cho được những phẩm chất đạo đức mới mà
chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu, đó là: Trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; yêu thương con người, sống có nghĩa,
có tình; có tinh thần quốc tế trong sáng.
Thứ ba, đẩy mạnh việc tuyên truyền và phổ biến giáo dụng pháp
luật và đạo đức trong các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội.
Thứ tư: Tùy theo tính chất, nội dung của mỗi văn bản luật mà
trước khi đưa vào cuộc sống cần thông qua một cuộc trưng cầu dân ý để
điều chỉnh, bổ sung những nội dung cần thiết.
Pháp luật ban hành là để nhân dân thực hiện, là công cụ, phương
tiện để nhân dân sinh tồn, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do
vậy, vì cuộc sống, vì quyền và lợi ích của chính nhân dân, trước khi luật
được chính thức thực thi rộng rãi thì cần trưng cầu dân ý để tiếp thu trí
tuệ và lực lượng toàn dân. Đó là biện pháp căn bản khắc phục tính thiếu
khả thi, chậm đi vào cuộc sống của pháp luật nước ta hiện nay; làm cho
pháp luật trở thành "pháp luật tự nhiên" được mọi người tự giác thực hiện.
Thứ năm, Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm
tính nghiêm minh tuyệt đối trong chấp hành pháp luật. Mọi người bình
đẳng trước pháp luật. Xây dựng lối sống, lao động, học tập và hành xử theo pháp luật.
3.7. Thực hiện dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Thực hiện dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta cần thực hiện đồng bộ,
với quyết tâm cao và bền bỉ những giải pháp sau:
Trước hết, xác định vị trí tối cao của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội.
Mọi hoạt động của các cá nhân, các tổ chức, cán bộ, công chức và
các cơ quan nhà nước phải trên cơ sở và đặt dưới sự điều chỉnh của pháp
luật, không có ngoại lệ. Pháp luật phải xuất phát từ những yêu cầu, đòi
hỏi của hiện thực khách quan; phải thể hiện đầy đủ ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, phù hợp với quyền và lợi ích của nhân dân, phản ánh
những chuẩn mực đạo đức và các giá trị tiến bộ của nhân loại.
Thứ hai, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả cao.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách bộ máy hành chính, cải
cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp; tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, công bằng
mọi hành vi vi phạm pháp luật…
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh thông nghiệp vụ,
có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, thực sự là công bộc của dân.
Bốn là, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân từ kinh tế, chính
trị, tư tưởng đến các lĩnh vực khác.
Nói dân chủ trước hết là dân chủ trong kinh tế, đây là mấu chốt và
quyết định. Nghĩa là nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân làm
ăn hợp pháp, giải phóng sức sản xuất, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân... Dân chủ
trong chính trị là phải tiếp tục đổi mới thể chế, từ luật pháp, cơ chế, bộ
máy để thực hiện bằng được nguyên lý dân chủ là: người dân được làm
tất cả những gì luật pháp không cấm, còn công chức chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Năm là, thường xuyên giáo dục pháp luật và nâng cao văn hóa
dân chủ cho tất cả mọi người. Thực hành dân chủ tốt sẽ chống lại có
hiệu quả chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn khác.

Hình thành nhiều hình thức tập hợp quần chúng, nhiều kênh thông
tin để người dân có diễn đàn trình bày ý kiến của mình với Đảng, Nhà
nước. Muốn vậy, cần tăng cường vai trò, chức năng của Mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí
Minh là một nhà nước do toàn thể nhân dân lập nên; là một nhà nước
hoàn toàn hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước mà quyền lực của nó bắt
nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy thác, chứ không phải bắt nguồn từ
lực lượng siêu nhiên chúa trời hay từ lý trí tối cao; là một nhà nước lấy
quyền và lợi của nhân dân, lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm
nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước không có
mục đích tự thân nào, mà chỉ là công cụ phục vụ nhân dân, phục vụ yêu
cầu phát triển của xã hội. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu như chính
quyền làm hại đến dân, không mưu cầu quyền lợi và hạnh phúc cho
nhân dân thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và
lập nên một chính quyền mới.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn
là nhà nước có phương thức tổ chức quyền lực hợp lý, khoa học, đảm
bảo quyền lực nhà nước luôn thống nhất thuộc về một chủ thể duy nhất
là nhân dân, có sự phân công, phối hợp trong bộ máy nhà nước, để đảm
bảo chính quyền luôn luôn mạnh mẽ, sáng suốt, hiệu quả, vì lợi ích của
nhân dân. Đó là một nhà nước có Quốc hội thể hiện tính dân chủ, tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; có bộ máy hành pháp mạnh mẽ, sáng
suốt, dám chịu trách nhiệm; có nền tư pháp độc lập độc lập, mỗi thẩm
phán chỉ trọng pháp luật, công lý và lương tâm, trách nhiệm của mình;
có đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là "công bộc" của nhân
dân; đó là nhà nước coi trọng tính "tự quản", tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật của chính quyền địa phương; đó là nhà nước kết hợp hài hòa
giữa đạo đức và pháp luật trong cả quá trình xây dựng và thực thi pháp luật.
Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là nhà nước
vĩnh cửu, bất biến, trái lại đó là nhà nước luôn vận động và phát triển để
phục vụ ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Luôn đấu
tranh để khắc phục và loại trừ những thói hư, tật xấu, những căn bệnh