Tiểu luận vai trò của lực lượng sản xuất - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tiểu luận vai trò của lực lượng sản xuất - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………….……….2
NỘI DUNG………………………………………………………………….….….3
I. Cơ sở lí luận: Một số vấn đề chung về lực lượng sản xuất………………...…....3
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất…………………………………………...…....3
2. Kết cấu của lực lượng sản xuất……………………………………………….….3
3. Trình độ của lực lượng sản xuất…………………………………….……...……4
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất……………...…4
a) Mối quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
b)Sự phát triển, tiến hóa của người lao động
c) Sự phát triển của khoa học kĩ thuật
d)Một số yếu tố khác
II.Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội
1. Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất của đời sống và xã hội
2. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội
3. Vai trò quyết định của Lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã
hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn
III.Vận dụng
1. Thực tiễn quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
a) Thực trạng đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
b) Thực trạng ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào
phát
c) Thực trạng kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam
d) Thực trạng lực lượng sản xuất trong thời kì dịch bệnh Covid - 19
2. Vận dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng sản
xuất ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái kinh tế và luôn
gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra của
cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Và trong hoạt động sản xuất vật chất
ấy, ta không thể không nhắc tới lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất luôn đóng
vai trò to lớn trong đời sống và xã hội. Sự phát triển của nó dẫn đến sự thay đổi
quan hệ sản xuất do đó kiến trúc thượng tầng thay đổi theo dẫn đến hình thái xã hội
cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Việc vận dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng
sản xuất là luôn cần thiết. Đất nước Việt Nam chúng ta đang trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, còn gặp rất nhiều thách thức và vấn đề được đặt lên hàng đầu
là làm sao vượt qua thách thức, vượt lên khó khan để đón nhận những cơ hội mới,
tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế.
Muốn làm được như vậy, trước hết và trên hết chúng ta phải phát triển, xây dựng
một lực lượng sản xuất mạnh mẽ, vững vàng.
Bản thân em đã nhận ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: “vai trò của
lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và vận dụng lý luận này vào quá trình
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”. Khi được nghiên cứu sâu sắc
hơn về đề tài này, em đã nhận ra sự thiếu hụt kiến thức nghiêm trọng của bản thân
cũng như những thanh niên đồng trang lứa – thế hệ tương lai của đất nước, những
người nắm giữ trách nhiệm to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
sau này.
Vì vậy, em xin phép chọn đề tài này để viết thành một bài tiểu luận những
mong các bạn đồng trang lứa có thể phần nào bổ sung cho mình một vài kiến thức
về lý luận này để rồi vận dụng vào thực tiễn, đưa đất nước phát triển giàu mạnh
hơn nữa. Đây cũng là lần đầu tiên em viết tiểu luận nên có gì thiếu sót mong thầy
cô và các bạn có thể đóng góp và bổ sung để em có thể hoàn thiện kiến thức của
mình.
2
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận: một số vấn đề chung về lực lượng sản xuất
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất, là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất để cải biến giới
tự nhiên, tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người và xã hội.
Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất – năng lực hoạt động sản xuất
vật chất của con người.
2. Kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
+ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu
lao động (những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động
lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng
nhu cầu của con người) và đối tượng lao động (là những yếu tố vật chất của sản xuất
mà lao động con người dung tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng phù
hợp nhu cầu của con người).
Trong tư liệu lao động gồm có phương tiện lao động và công cụ lao động thì công
cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao động và đối
tượng lao động vì thế đây là “khí quan” của bộ óc, giữ vai trò quyết định đến năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm.
+ Người lao động là người có sức khỏe, có trình độ, có kĩ năng, tay nghề lao động –
có thể lực và trí lực.
Người lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất vì chính
con người chế tạo và sử dụng công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất, nhờ đó mà sản
xuất phát triển.
Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, Các Mác khẳng
định: "Tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào
thành lực lượng sản xuất trực tiếp” . Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
1
học và công nghệ hiện đại đang phát triển, công cụ lao động lao động được tin học
hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa càng có vai trò quan trọng dẫn đến khoa học công
nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành yếu tố trực tiếp của
lực lượng sản xuất.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn t p, t. 46 - Phầần II, Nxb Chính tr quốốc gia- S th t, Hà N i, 2006, tr. 372.
3
3. Trình độ của lực lượng sản xuất
+ Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Biểu hiện ở trình độ của công
cụ lao động, ptien lao động; trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con
người; trình độ khai thác và sử dụng đối tượng lao động.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất gắn liền với tính chất của lực lượng sản xuất.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
a) Mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Đầu tiên ta phải nói đến mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất quan
hệ sản xuất quy định sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất
trong lịch sử. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây quy luật bản nhất của sự vận
động và phát triển xã hội.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy sản xuất được mở rộng; những
thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt nh
hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự m m đó ch diễn ra trong những giới hạn, với
những điều kiện nhất định.
b)Sự tiến hóa, phát triển của người lao động
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết
định. Sở dĩ như vậy là vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao
động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người,
đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử
dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao
động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm., thì người lao động do bản
chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ
bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu.
Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của
sự phát triển sản xuất.
4
Vì vậy, đầu tư phát triển người lao động cũng là một cách phát triển trực tiếp lực
lượng sản xuất.
c) Khoa học kĩ thuật hiện đại
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển,
cả người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hoá, nền kinh tế của nhiều quốc
gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự
sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối
với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc
sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin,
trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đời sống xã hội.
như đã nói ở phần trước, khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất.
d)Một số yếu tố khác
Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như
điều kiện tự nhiên, dân số, thời đại, thể chế chính trị…
Dân số của một nước chính là nguồn lao động chủ yếu của quốc gia đó, dân số
càng đông thì nguồn lao động càng dồi dào.
Ở mỗi thời đại, dưới sự thống trị của mỗi chủ nghĩa từ đó có những thể chế chính
trị khác nhau đã tác động trực tiếp đến Lực lượng sản xuất. Từ đó dẫn đến những sự
khác biệt về chất lượng lao động, tốc độ phát triển của lao động cũng như sản lượng
lao động.
II.Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống và xã hội:
Đầu tiên trên hết, ta khẳng định lực lượng sản xuất vai trò to lớn ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống và xã hội. Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là
cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất, từ nền sản
xuất vật chất hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống
tinh thần; để phát triển hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế- vật chất.
Một hội phát triển một hội nền sản xuất ngày càng đi lên hoàn thiện.
Sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với những cái cũ, lạc hậu, kìm hãm nó,
tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên
tiến hơn, từ đó hình thái kinh tế mới xuất hiện thay thế hình thái kinh tế cũ. tất
nhiên, cái mới phải hoàn thiện hiệu quả hơn cái cũ, nếu không sẽ lập tức bị đào
thải. Sự phát triển của xã hội cũng là một yếu tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất: đời sống đi lên, nhu cầu của con người ngày càng nhiều, khắt khe phức
tạp đòi hỏi những sản phẩm tương thích, hiệu quả hơn cái cũ.
5
Nói cách khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hoàn thiện của xã hội
cũng như sự phát triển đời sống có mối quan hệ biện chứng, lực lượng sản xuất có vai
trò đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của xã hội.
1. Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất của đời sống và xã hội
Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định về lượng và chất của đời sống xã
hội.
+ Về lượng:
Lực lượng sản xuất sản xuất ra của cải vật chất và đáp ứng nhu cầu của con
người.
Trong quá trình lao động, con người sáng tạo và sản xuất ra một số lượng khổng
lồ sản phẩm: từ tư liệu sản xuất đến tư liệu lao động, phương tiện lao động, công cụ
lao động…; từ đơn sơ nhất như đồ đá đến tinh vi, hiện đại như máy móc có trí tuệ;…
+ Về chất:
Theo quy luật phát triển của xã hội, sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn
với những cái cũ, lạc hậu, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời
bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C.Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ: “Tới
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản
xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi
đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” . Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
2
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các
phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa. Đầu tiên ở xã hội nguyên thủy, ta thấy xuất hiện những sản phẩm lao động
mang tính tự phát, bản năng xuất hiện: ăn lông ở lỗ. Sau đó ta thấy con người biết săn
bắt hái lượm rồi săn bắn và trồng trọt. Đồ đá xuất hiện như một cuộc cách mạng vì từ
đó con người đã có công cụ lao động. Sau đồ đá là đồ đồng, đồ sắt cũng dần dần
được phát hiện và sử dụng… Và hiện tại, vào thế kỉ XXI, con người đang sử dụng
những cỗ máy thông minh, hiện đại, tự động hóa thậm chí là trí tuệ hóa. Rõ ràng, ta
thấy được sự phát triển vượt bậc và phát triển một cách kì diệu xuyên suốt quá trình
lịch sử. Chính sự phát triển này của sản xuất đã đưa những chú vượn người trở thành
2 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn t p, Nxb. Chính tr quốốc gia, Hà N i, 1993
6
người hiện đại có những bộ não thiên tài như ngày hôm nay. Đây chính là sự đóng
góp về chất của lực lượng sản xuất đối với đời sống và xã hội.
Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển của xã hội, Lê-nin đã nói: “Suy cho
cùng phương thức sản xuất này thắng phương thức sản xuất kia chính là ở chỗ tạo ra
năng suất cao hơn”.
2. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội
Để thỏa mãn nhu cầu đầu tiên, cơ bản của con người, Mác thấy con người phải
chế tạo ra công cụ lao động, cái mà sau này Mác gọi bằng những khái niệm rộng hơn
và chính xác hơn là tư liệu ld, tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất. Như vậy loaig
người tồn tại và phát triển trên thế giới này, không phải do phép màu của một lực
lượng huyền bí hay ý chí của thần tiên, Chúa trời hay các bậc vĩ nhân mà do sự tồn
tại và phát triển của những phương thức kế tiếp nhau trong lịch sử.
a) Vai trò của yếu tố con người đối với sự phát triển xã hội
Như đã nói ở phần I.4.b, người lao động là nhân tố hàng đầu và quyết định của
lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất đóng góp vai trò trực tiếp trong sự phát
triển xã hội. Con người tác động làm thay đổi lực lượng sản xuất để lực lượng sản
xuất trực tiếp phát triển xã hội. Phải ý thức được rằng chính yếu tố con người làm nên
tất cả các cuộc cách mạng to lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị… tạo
nên sự biến đổi không ngừng của xã hội loài người.
Từ khi loài người xuất hiện, lao động là không thể thiếu trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Từ những bước đi chập chững đầu tiên, loài người đã biết
dung những công cụ thô sơ nhất để tác động tự nhiên làm ra sản phẩm nuôi sống bản
thân. Chính nhờ có lao động và ngôn ngữ, con người trở thành động vật cao cấp nhất
trong giới tự nhiên, biết dung ý chí của mình để biến đổi thế giới. Cùng với sự phát
triển của lịch sử, công cụ lao động đã dần dần được phát triển từ những công cụ thô
sơ nhất đến những máy móc vô cùng hiện đại. Tất cả những sự biến đổi to lớn đó là
do con người tạo ra. Dù cho khoa học kỹ thuật có hiện đạo đến mức độ nào, công cụ
lao động có thông minh đến đâu thì vai trò của con người là không thể phủ nhận. Con
người vẫn luôn là chủ thể của sản xuất, chủ thể của xh; nếu thiếu con người thì xã hội
sẽ không thể vận hành.
b)Vai trò của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ đối với xã hội
Lực lượng sản xuất vai trò trực tiếp trong sự phát triển của hội, theo
như mục I.4.c, một yếu tố quan trọng khác tác động đến lực lượng sản xuất chính
khoa học công nghệ. Trên sở phân tích sự vận động phát triển hội bản,
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ, xét về mặt kỹ thuật, đặc điểm nổi bật của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất là “do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy
7
kéo sợi, máy dệt hàng loạt những thiết bị máy móc khác”1 thay thế công cụ thủ
công trước đó, biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất qui mô lớn, được thể hiện rõ
trong ngành dệt may, luyện kim, cơ khí.
Thực tế, với sự tham dự của máy móc đã tạo ra năng suất lao động vượt trội gấp
hàng chục, hàng trăm lần so với lao động thủ công, bởi máy móc làm thay đổi toàn
bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay. Hàng hóa do máy móc sản xuất ra
thì rẻ hơn và tốt hơn so với hàng hóa do công nhân sản xuất bằng xe kéo sợi và khung
cửi dệt vải của mình, cho phép trong một thời gian ngắn thể tăng thêm sản xuất
công nghiệp một cách hạn chi phí lại không nhiều, góp phần giảm nhẹ lao
động. Tăng năng suất lao động, sau đó là tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất, nhà tư bản
là vai trò to lớn của máy móc đối với sản xuất mà mọi người đều có thể cảm nhận.
“Kinh tế tri thức” là một khái niệm mới đang được nhiều quốc gia và các tổ
chức bàn luận. Tuy ý kiến còn khác nhua về cách định nghĩa, nhưng đều thống nhất
rằng: kinh tế tri thức lấy yếu tố tri thức hiện đại của khoa học, công nghệ và quản lý
làm nền tảng. Với sự phát triển của kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ thực sự
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm ra sản phẩm ở hầu hết các ngành, các lĩnh
vực. Sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức gắn chặt với những bước nhảy
vọt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, đặc biệt là công nghệ thông
tin (kỹ thuật số…), công nghệ sinh học (công nghệ gen…), công nghệ vật liệu mới
(công nghệ Nano…). Cốt lõi của nền kinh tế tri thức chính là công nghệ cao.
điều đó càng đúng hơn với máy móc, công nghệ thông minh của hội
trong thế kỉ XXI hiện nay. Máy móc giờ đây thể thay thế con người, tự động hóa,
trí tuệ hóa, tiết kiệm rất nhiều sức người, từ đó con người có thể tập trung hơn vào sự
phát triển toàn diện của bản thân: đức – trí – thể - mĩ. Và từ đó, xã hội phát triển toàn
diện, hoàn thiện.
3. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn
a)Khái niệm hình thái kinh tế xã hội
Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm
hình thái kinh tế – xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
b) Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội
Một hình thái kinh tế – xã hội có 3 yếu tố cơ bản cấu thành:
Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định,
đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất
8
Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng và các
quan hệ xã hội khác.
Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế,
đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá…. của các quan
hệ sản xuất của xã hội.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế – xã hội còn có các yếu
tố khác như: Quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình…
c)Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với
sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế
– xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về
lĩnh vực xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và
do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói
chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con
người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản
thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển
của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất hiện thực.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các
phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ
bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội khác nhau.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một
quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có
hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật
vận động, phát triển của xã hội.
III.Vận dụng lí luận vào đời sống, xã hội ở Việt Nam
1. Thực tiễn quá trình phát triển lực lượng lao động ở Việt Nam
Việt Nam đã đi qua chiến tranh được hơn bốn thập kỉ, nhưng trải qua những
năm tháng bị tàn phá nặng nề và xuất phát điểm thấp từ một nước nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu và đặc biệt là các hậu quả do dịch Covid – 19 để lại. Đất nước ta cũng
đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và đứng trước rất nhiều khó khăn,
9
thách thức đòi hỏi phải tận dụng triệt để những ưu thế và khắc phục những mặt còn
hạn chế của đất nước. Để làm được điều đó, chúng ta phải nắm chắc những thực
trạng về lực lượng sản xuất ở Việt Nam cũng như biết vận dụng những lí luận về lực
lượng sản xuất vào thực tế đó.
a) Thực trạng đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
- Tỉ lệ người lao động
Dân số đông và tỉ lệ người trong độ tuổi ld cao là những lợi thế to lớn của Việt
Nam để phát triển lực lượng sản xuất:
Tính đến ngày 1/4/2019, tổng số dân Việt Nam được thống kê là hơn 96 triệu
người, xếp thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó, gần
88% dân số trong độ tuổi từ 25-59 tham gia lực lượng lao động; trong đó tỷ trọng dân
số tham gia lực lượng lao động cao nhất ở nhóm tuổi 25-29 (14,3%) và giảm nhẹ ở
nhóm 30-34 (14,2%). Dân số ở nhóm tuổi trẻ (nhóm 15-19 tuổi và nhóm 20-24 tuổi)
và nhóm tuổi già (từ 60 tuổi trở lên) đều chiếm tỷ trọng tham gia lực lượng lao động
thấp (dưới 10%).
Trong khi đó nhóm dân số ở độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 61,1% vào
năm 1999 lên 69,1% vào năm 2009 và ổn định ở mức 69,4% năm 2014. Việt Nam
đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” hay còn gọi là “cửa sổ cơ hội nhân khẩu
học”. Điều đó đồng nghĩa rằng số người trong độ tuổi lao động cao gấp đôi nhóm dân
số trong độ tuổi phụ thuộc. Nói cách khác, cứ có hơn 2 người trong độ tuổi lao động
thì chỉ có 1 người ở độ tuổi phụ thuộc.
- Trình độ người lao động
Theo số liệu thống kê năm 2015, trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở
lên thuộc lực lượng lao động của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm
18,6% trong tổng số lao động trên cả nước. Trong những năm gần đây, tỉ lệ lao động
có trình độ đại học của lực lượng lao động trực tiếp không ngừng tăng lên. Năm
2012, trung bình cả nước có 4,7%, năm 2013 là 5,8%, đến năm 2014, tỷ lệ này là
6,2%. Sự tăng lên không ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã
bước đầu đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc
ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất
theo hướng hiện đại.
Tính đến năm 2019, lực lượng lao động đã tốt nghiệp THPT trở lên chiếm
39,1%, tăng 13,5 điểm phần trăm so với năm 2009; đã được đào tạo có bằng, chứng
chỉ (từ sơ cấp trở lên) chiếm 23,1% (ở khu vực thành thị cao gấp 2,5 lần khu vực
nông thôn, tương ứng là 39,3% và 15,6%). (Theo báo cáo dân số Việt Nam 2019)
10
Một trong những đặc điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch sử là sự
cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Đó cũng chính là ưu điểm của người lao động nước ta
hiện nay. Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản xuất những mặt hàng
đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Cũng với tính cần cù, chăm chỉ, ngày
nay số lượng lao động Việt Nam làm việc trong các ngành công nghiệp lắp ráp công
nghệ cao cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong
những năm gần đây, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty, nhà máy lớn được xây dựng
do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Sam Sung, Toyota, Deawoo... Các chủ đầu tư
của những công ty đó đã nhìn thấy ưu điểm nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự
cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển
biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ
lao động công nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở
nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Như vậy, có thể thấy tỉ lệ ld có trình độ ở nước ta còn thấp (dưới 50%), đây là
một hạn chế cần khắc phục.
- Cơ cấu ld:
Nhóm nghề lao động giản đơn thu hút nhiều nhân lực nhất trong nền kinh tế với
tỷ lệ 33,2%. So với 10 năm trước đây, tỷ trọng lao động làm công việc giản đơn đã
giảm mạnh (giảm 7,1 điểm phần trăm). Các nhóm “dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán
hàng”, “thợ thủ công và các thợ khác có liên quan” và “thợ lắp ráp và vận hành máy
móc thiết bị” cũng là những nhóm nghề thu hút nhiều lực lượng lao động, tương ứng
là 18,3%, 14,5% và 13,2% tổng số lao động đang làm việc.
b)Thực trạng ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Khoa học - công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những thành tựu của khoa học, công nghệ
đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu sản xuất, trước hết là cải biến những
công cụ lao động cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp.
Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc
tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Những
công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp đã được thay thế bằng
những dây chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người
được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động
giản đơn dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. Những sự thay
đổi lớn lao của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khối
11
lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Cũng nhờ sự phát triển
của công cụ sản xuất, nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch lớn mạnh về cơ cấu
kinh tế. Trong những năm gần đây, tỉ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ có xu hướng tăng mạnh hơn so với các ngành nông nghiệp.
Theo Báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2014 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đứng thứ 71/143 nước, đứng
thứ 4 trong số các nước thuộc khối ASEAN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất còn nhiều hạn chế. Trình độ cơ khí hóa,
tự động hóa và tin học hóa của nhiều ngành kinh tế nhìn chung còn nhiều hạn chế.
c) Thực trạng kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Kết cấu hạ tầng chính là cái “cốt vật chất” của các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở
mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng không chỉ giúp cho
việc lưu thông hàng hóa, hiện đại hóa quá trình sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy
quá trình sản xuất phát triển.
Hiện nay, ở nước ta đã hình thành được hầu hết các trục đường bộ từ Bắc đến
Nam, từ Đông sang Tây, không chỉ nối liền các vùng kinh tế trong cả nước mà còn
đảm bảo thông thương với các nước láng giềng. Đặc biệt, trong những năm gần đây,
nhiều tuyến đường cao tốc từ các tỉnh, thành phố trung tâm đã được xây dựng như Hà
Nội - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu, Đà Nẵng -
Dung Quất... làm giảm đáng kể thời gian vận chuyển, lưu thông hàng hóa từ 30-50%.
Hơn nữa, nhiều cây cầu đã được xây dựng như cầu Cần Thơ, cầu Nhật Tân, cầu
Thanh Trì... góp phần quan trọng trong việc hiện đại hóa nền kinh tế đất nước.
Không chỉ thế, giao thông đường biển, giao thông đường hàng không và giao
thông đường sắt cũng được đầu tư xây dựng, đem lại những thành tựu đáng kể và
thuận lợi nhất định cho việc lưu thông sản phẩm lao động.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng việc xây dựng kết cấu hạ
tầng phục vụ sản xuất ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém như hệ thống kết
cấu hạ tầng thiếu tính đồng bộ và mất cân đối đáng kể giữa các vùng miền. Hệ thống
kết cấu hạ tầng ở các thành phố lớn như thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
khá hiện đại nhưng ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo còn lạc hậu, yếu kém,
chất lượng hạn chế; công tác quản lý, khai thác và sử dụng dịch vụ hạ tầng còn nhiều
bất cập.
d)Thực trạng lực lượng sản xuất trong thời kì dịch bệnh Covid – 19:
12
Theo báo cáo tác động của dịch covid-19 đến tình hình lao động việc làm tại
việt nam quý III/2020:
- Cả nước có 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch
Covid-19
- Lực lượng lao động tăng trở lại sau khi ghi nhận mức giảm sâu kỷ lục vào
quý II năm 2020 nhưng vẫn chưa thể khôi phục về trạng thái của cùng kỳ năm trước
- Lao động trong một số ngành dịch vụ như vận tải kho bãi, lưu trú và ăn
uống, nghệ thuật, vui chơi và giải trí bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19
- Lao động có việc làm tăng so với quý trước chủ yếu ở nhóm lao động phi
chính thức; tốc độ tăng của lao động phi chính thức cao hơn so với tốc độ tăng của
lao động chính thức
- Dịch Covid-19 làm tăng đáng kể số lao động thiếu việc làm ở cả ba khu vực
kinh tế
- Một phần ba doanh nghiệp tham gia khảo sát nhanh cho biết phải thực hiện
các biện pháp cắt giảm lao động; các doanh nghiệp vận tải hàng không, du lịch và
dịch vụ lưu trú có tỷ lệ lao động bị cắt giảm cao nhất
2. Vận dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất
ở Việt Nam
Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư
bản, đây là một công cuộc có những khó khan, thách thức to lớn mà chúng ta cần
phải vượt qua. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì này đã đặt ra mục tiêu
phải đạt được khi kết thúc thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: xây dựng xong về
căn bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về tư
tưởng, chính trị, văn hóa làm cho đất nước Việt Nam trở thành một đất nước xã hội
chủ nghĩa phồn vinh. Để đạt được mục tiêu thì một trong những phương hướng cụ thể
là: “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
13
tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.”
3
a) Những khái niệm cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ
các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỉ trọng về lao
động, về giá trị gia tăng, v.v.. Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng
đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công
nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá
trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ,
đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công
nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ
trong nhận thức tự nhiên.
Hiện đại hóa là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật vào
công nghệ sản xuất và đời sống xã hội, cải tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ
chức đời sống, tạo ra một nền sản xuất có trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày
càng văn minh, tiến bộ .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
b)Đề xuất một số ý kiến về phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời đại
mới
- Đầu tiên và trên hết là đầu tư vào con người.
Như đã nhắc tới ở phần trước, người lao động là nguồn gốc của sự phát triển
sản xuất. Vì thế, đầu tư cho con người, tạo điều kiện để con người nâng cao trình độ
văn hóa, trình độ kĩ thuật, đồng thời chú ý tới việc đáp ứng như cầu của con người cả
về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần chính là cốt lõi của phát triển lực lượng
sản xuất. Lâu nay, “nguồn ld dồi dào, giá nhân công rẻ, lao động cần cù, thông minh
và hiếu học và có khả năng tiếp thu nhanh kĩ thuật mới” thường được đánh giá như
một lợi thế của nước ta. Điều đó đúng nhưng chưa thực sự toàn diện và còn nhiều
mặt chưa hoàn toàn thích ứng với bối cảnh phát triển của khoa học và công nghệ
3 nh ng ph ng h ng c b n trong ươ ướ ơ C ng lĩnh xầy d ng đầốt n c trong th i kỳ quá đ lên ch nghĩa xã h i ươ ướ
(thống qua t i đ i h i đ i bi u toàn quốốc lầần th VII c a đ ng)
14
ngày nay. Trong khi chúng ta đánh giá cao khả năng trí tuệ của con người Việt Nam
nhưng cũng cần đánh giá khách quan những mặt còn hạn chế như trình độ ld còn
thấp, chuyển dịch cơ cấu ld chưa kịp thích ứng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
mà ta đã nhắc tới ở phía trên bài viết. Để tạo nền kinh tế tri thức, trước hết ta phải có
một nền giáo dục tiên tiến và lành mạnh: chúng ta vẫn chưa đầu tư cho giáo dục –
đào tạo một cách thỏa đáng, giữa chất lượng đào tạo và yêu cầu thực tế còn có
khoảng cách khá xa. Trên cơ sở phân tích thực trạng của nguồn nhân lực, nhận thức
vai trò quan trọng của giáo dục – đào tạo trong sự nghiệp phát triển nguồn lực này để
đưa ra phương hướng phát triển nền giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, điều chỉnh cơ cấu đào tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội trong thời gian tới.
Thứ ba, tạo một môi trường giáo dục lành mạnh: tăng cường thanh tra giáo dục
ở mọi bậc học, nâng cao chất lượng giáo dục một cách tập trung, cụ thể.
Thứ tư, công nghệ giáo dục cần luôn luôn đổi mới, bắt kịp xu thế toàn cầu hóa
nhưng không mất đi bản sắc dân tộc.
Thứ sáu, chăm lo đến đội ngũ giáo viên: trước tiên là nâng cao chất lượng giáo
viên, sau đó là có những chính sách đãi ngộ xứng đáng.
Thứ bảy, đối với người ld, cần nâng cao trình độ văn hóa cũng như trình độ
chuyên môn – kỹ thuật.
- Tiếp đó là có các phương án, giải pháp cụ thể, phù hợp với từng nhóm ngành
ld, từng thành phần kinh tế mà Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn
thiện thêm một bước đặc trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền
kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết
với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
c) Đề xuất một số ý kiến về phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam để khắc phục và
vượt qua Covid – 19
Qua dự báo nêu trên có thể thấy các ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế Việt Nam
năm 2020 và 2021 và xuất hiện các thời cơ như sau:
15
Do dịch ở các nước trên thế giới, trong 17 nước là đối tác kinh tế và du lịch
quan trọng nhất của Việt Nam (chiếm 80% về thương mại, 90% về đầu tư nước
ngoài, 80% về du lịch nước ngoài), có 16 nước bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
vậy nhu cầu nhập khẩu, khả năng xuất khẩu và khả năng người dân đi du lịch nước
ngoài ở các nước này giảm mạnh so với năm 2019, khi nào các nước này chưa trở lại
trạng thái bình thường mới và là nước an toàn dịch Covid-19. Vì vậy, ngay từ bây
giờ, cần có kế hoạch khẩn trương để phối hợp với từng nước: chuẩn bị, khuyến khích
phục hồi đầu tư nước ngoài, thương mại hai chiều và du lịch một cách cụ thể, phù
hợp với đặc điểm từng nước. Đây là biện pháp hiệu quả nhất để phát huy vai trò tích
cực của quan hệ kinh tế với nước ngoài của Việt Nam, biến dự báo phục hồi đầu tư
nước ngoài, thương mại và du lịch nêu trên thành hiện thực và có thể cải thiện hơn.
Việc giảm nhập khẩu một số nguyên liệu, vật tư cần cho sản xuất trong nước,
do các cơ sở sản xuất nước ngoài phải dừng khi nước này còn dịch, thì đây là cơ hội
cho phát triển các cơ sở sản xuất trong nước để đáp ứng nhu cầu này. Về lâu dài s
làm cho kinh tế Việt Nam ít phụ thuộc vào nước ngoài hơn, tăng chuỗi giá trị gia tăng
cho nền kinh tế Việt Nam.
Từ các nhận định trên và kinh nghiệm thực tiễn thời gian qua, xin đề xuất một
số giải pháp để phục hồi và phát triển kinh tế, ổn định xã hội 2020 - 2021 như sau:
- Hỗ trợ thiết thực các doanh nghiệp và người lao động để cuối năm 2020, số
doanh nghiệp phải phá sản không quá 15% tổng số doanh nghiệp đã hoạt động
tháng 12-2019 (các giải pháp của Chính phủ và địa phương cần làm rõ nguồn
hỗ trợ ở đâu, bao nhiêu, lúc nào).
- Có kế hoạch cụ thể, thiết thực với từng nước từ tháng 6-2020 đến tháng 6-2021
để tận dụng cơ hội phục hồi đầu tư nước ngoài, xuất, nhập khẩu và du lịch
nước ngoài của 17 nước là đối tác kinh tế lớn nhất của Việt Nam.
- Khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu với lợi thế về
nhân lực (chi phí lao động không cao, chất lượng lao động được nâng cao) và
công nghệ 4.0 do người Việt Nam tạo ra.
- Giám sát chặt chẽ các thị trường và chi ngân sách, kiềm chế, giữ vững lạm phát
theo chỉ tiêu của Quốc hội.
- Phát huy truyền thống văn hóa của Việt Nam - Nhà nước và nhân dân cùng
chia sẻ, hợp tác để mọi người nghèo, thu nhập thấp được hỗ trợ, không để
người dân, gia đình rơi vào hoàn cảnh cùng cực.
- Tăng cường và đẩy mạnh một số dịch vụ giao dịch online để khuyến khích nhu
cầu của người dân, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động.
16
KẾT LUẬN
17
Như vậy, từ những lí luận và thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng lực lượng
sản xuất có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội cả về vật chất lẫn
tinh thần. Trong hơn hai mươi năm đổi mới và mười năm thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng với những chính sách
phát triển công nghiệp hóa gắn liền với việc phát triển lực lượng sản xuất, nền kinh
tế đã có những chuyển biến tích cực cả về chất và lượng. Nhờ vậy mà thế và lực của
Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới đã được khẳng định và ngày càng đi
lên. Việt Nam đang trên con đường quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội do đó
cần phải chú trọng hơn nữa việc phát triển lực lượng sản xuất cả về trình độ kĩ thuật
lẫn tư tưởng. Thanh niên hiện nay cũng cần tự giác tiếp thu và học hỏi những lí luận
tiến bộ để góp phần phát triển lực lượng sản xuất, đưa nước nhà “sánh vai với các
cường quốc năm châu”. Nhưng trong sự phát triển đó phải đảm bảo sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, phù hợp với quy luật lịch sử của xã hội.
Trên đây là những ý kiến của em về vai trò của lực lượng sản xuất và sự vận
dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
18
1. Giáo trình Triết học Mác – Lê-nin khối các ngành ngoài lí luận chính trị (Phạm
Văn Đức chủ biên)
2. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin dành cho sinh
viên khối không chuyên ngành Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
Trị Quốc Gia (TS. Phạm Văn Sinh và GS,TS. Phạm Quang Phan đồng chủ biên)
3. Thông cáo báo chí Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 của
ASEAN
4. Cơ cấu tuổi và giới tính của dân số Việt Nam – UNFPA Vietnam
5. Báo cáo tác động của dịch covid-19 đến tình hình lao động việc làm tại việt nam
quý III/2020
6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thông
qua tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng)
7. Quyết định số 432/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ
8. Bài báo “Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Mặt
trận ngày 12/01/2018
9. “Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam” trên tạp chí Tài chính đăng ngày 03/05/2020
10. “Diễn biến dịch Covid-19 và kiến nghị chín nhóm giải pháp phục hồi phát triển
kinh tế Việt Nam” đăng trên báo Nhân dân ngày 12/06/2020
19
| 1/19

Preview text:

MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………….……….2
NỘI DUNG………………………………………………………………….….….3
I. Cơ sở lí luận: Một số vấn đề chung về lực lượng sản xuất………………...…....3
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất…………………………………………...…....3
2. Kết cấu của lực lượng sản xuất……………………………………………….….3
3. Trình độ của lực lượng sản xuất…………………………………….……...……4
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất……………...…4
a) Mối quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
b) Sự phát triển, tiến hóa của người lao động
c) Sự phát triển của khoa học kĩ thuật d) Một số yếu tố khác
II.Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội
1. Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất của đời sống và xã hội
2. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội
3. Vai trò quyết định của Lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã
hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn III.Vận dụng
1. Thực tiễn quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
a) Thực trạng đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
b) Thực trạng ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào phát
c) Thực trạng kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
d) Thực trạng lực lượng sản xuất trong thời kì dịch bệnh Covid - 19
2. Vận dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái kinh tế và luôn
gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra của
cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Và trong hoạt động sản xuất vật chất
ấy, ta không thể không nhắc tới lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất luôn đóng
vai trò to lớn trong đời sống và xã hội. Sự phát triển của nó dẫn đến sự thay đổi
quan hệ sản xuất do đó kiến trúc thượng tầng thay đổi theo dẫn đến hình thái xã hội
cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Việc vận dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng
sản xuất là luôn cần thiết. Đất nước Việt Nam chúng ta đang trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, còn gặp rất nhiều thách thức và vấn đề được đặt lên hàng đầu
là làm sao vượt qua thách thức, vượt lên khó khan để đón nhận những cơ hội mới,
tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế.
Muốn làm được như vậy, trước hết và trên hết chúng ta phải phát triển, xây dựng
một lực lượng sản xuất mạnh mẽ, vững vàng.
Bản thân em đã nhận ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: “vai trò của
lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và vận dụng lý luận này vào quá trình
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”. Khi được nghiên cứu sâu sắc
hơn về đề tài này, em đã nhận ra sự thiếu hụt kiến thức nghiêm trọng của bản thân
cũng như những thanh niên đồng trang lứa – thế hệ tương lai của đất nước, những
người nắm giữ trách nhiệm to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước sau này.
Vì vậy, em xin phép chọn đề tài này để viết thành một bài tiểu luận những
mong các bạn đồng trang lứa có thể phần nào bổ sung cho mình một vài kiến thức
về lý luận này để rồi vận dụng vào thực tiễn, đưa đất nước phát triển giàu mạnh
hơn nữa. Đây cũng là lần đầu tiên em viết tiểu luận nên có gì thiếu sót mong thầy
cô và các bạn có thể đóng góp và bổ sung để em có thể hoàn thiện kiến thức của mình. 2 NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận: một số vấn đề chung về lực lượng sản xuất
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất, là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất để cải biến giới
tự nhiên, tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người và xã hội.
Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất – năng lực hoạt động sản xuất
vật chất của con người.
2. Kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
+ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu
lao động (những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động
lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng
nhu cầu của con người) và đối tượng lao động (là những yếu tố vật chất của sản xuất
mà lao động con người dung tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng phù
hợp nhu cầu của con người).
Trong tư liệu lao động gồm có phương tiện lao động và công cụ lao động thì công
cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao động và đối
tượng lao động vì thế đây là “khí quan” của bộ óc, giữ vai trò quyết định đến năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm.
+ Người lao động là người có sức khỏe, có trình độ, có kĩ năng, tay nghề lao động –
có thể lực và trí lực.
Người lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất vì chính
con người chế tạo và sử dụng công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất, nhờ đó mà sản xuất phát triển.
Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, Các Mác khẳng
định: "Tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào
thành lực lượng sản xuất trực tiếp”1. Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đang phát triển, công cụ lao động lao động được tin học
hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa càng có vai trò quan trọng dẫn đến khoa học công
nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 46 - Phầần II, Nxb Chính tr quốốc gia- S ị th
ự ậ t, Hà Nộ i, 2006, tr. 372. 3
3. Trình độ của lực lượng sản xuất
+ Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Biểu hiện ở trình độ của công
cụ lao động, ptien lao động; trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con
người; trình độ khai thác và sử dụng đối tượng lao động.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất gắn liền với tính chất của lực lượng sản xuất.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
a) Mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Đầu tiên ta phải nói đến mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất và nó quy định sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất
trong lịch sử. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận
động và phát triển xã hội.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng; những
thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình
hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với
những điều kiện nhất định.
b) Sự tiến hóa, phát triển của người lao động
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết
định. Sở dĩ như vậy là vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao
động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người,
đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử
dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao
động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm., thì người lao động do bản
chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ
bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu.
Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của
sự phát triển sản xuất. 4
Vì vậy, đầu tư phát triển người lao động cũng là một cách phát triển trực tiếp lực lượng sản xuất.
c) Khoa học kĩ thuật hiện đại
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển,
cả người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hoá, nền kinh tế của nhiều quốc
gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự
sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối
với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc
sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin,
trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đời sống xã hội. Và
như đã nói ở phần trước, khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất. d) Một số yếu tố khác
Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như
điều kiện tự nhiên, dân số, thời đại, thể chế chính trị…
Dân số của một nước chính là nguồn lao động chủ yếu của quốc gia đó, dân số
càng đông thì nguồn lao động càng dồi dào.
Ở mỗi thời đại, dưới sự thống trị của mỗi chủ nghĩa từ đó có những thể chế chính
trị khác nhau đã tác động trực tiếp đến Lực lượng sản xuất. Từ đó dẫn đến những sự
khác biệt về chất lượng lao động, tốc độ phát triển của lao động cũng như sản lượng lao động.
II.Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống và xã hội:
Đầu tiên và trên hết, ta khẳng định lực lượng sản xuất có vai trò to lớn và ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống và xã hội. Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là
cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất, từ nền sản
xuất vật chất xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống
tinh thần; để phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế- vật chất.
Một xã hội phát triển là một xã hội có nền sản xuất ngày càng đi lên và hoàn thiện.
Sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với những cái cũ, lạc hậu, kìm hãm nó,
tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên
tiến hơn, từ đó hình thái kinh tế mới xuất hiện thay thế hình thái kinh tế cũ. Và tất
nhiên, cái mới phải hoàn thiện và hiệu quả hơn cái cũ, nếu không sẽ lập tức bị đào
thải. Sự phát triển của xã hội cũng là một yếu tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất: đời sống đi lên, nhu cầu của con người ngày càng nhiều, khắt khe và phức
tạp đòi hỏi những sản phẩm tương thích, hiệu quả hơn cái cũ. 5
Nói cách khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hoàn thiện của xã hội
cũng như sự phát triển đời sống có mối quan hệ biện chứng, lực lượng sản xuất có vai
trò đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của xã hội.
1. Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất của đời sống và xã hội
Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định về lượng và chất của đời sống xã hội. + Về lượng:
Lực lượng sản xuất sản xuất ra của cải vật chất và đáp ứng nhu cầu của con người.
Trong quá trình lao động, con người sáng tạo và sản xuất ra một số lượng khổng
lồ sản phẩm: từ tư liệu sản xuất đến tư liệu lao động, phương tiện lao động, công cụ
lao động…; từ đơn sơ nhất như đồ đá đến tinh vi, hiện đại như máy móc có trí tuệ;… + Về chất:
Theo quy luật phát triển của xã hội, sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn
với những cái cũ, lạc hậu, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời
bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C.Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ: “Tới
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản
xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi
đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các
phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa. Đầu tiên ở xã hội nguyên thủy, ta thấy xuất hiện những sản phẩm lao động
mang tính tự phát, bản năng xuất hiện: ăn lông ở lỗ. Sau đó ta thấy con người biết săn
bắt hái lượm rồi săn bắn và trồng trọt. Đồ đá xuất hiện như một cuộc cách mạng vì từ
đó con người đã có công cụ lao động. Sau đồ đá là đồ đồng, đồ sắt cũng dần dần
được phát hiện và sử dụng… Và hiện tại, vào thế kỉ XXI, con người đang sử dụng
những cỗ máy thông minh, hiện đại, tự động hóa thậm chí là trí tuệ hóa. Rõ ràng, ta
thấy được sự phát triển vượt bậc và phát triển một cách kì diệu xuyên suốt quá trình
lịch sử. Chính sự phát triển này của sản xuất đã đưa những chú vượn người trở thành
2 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính tr quốốc gia, Hà N ị ộ i, 1993 6
người hiện đại có những bộ não thiên tài như ngày hôm nay. Đây chính là sự đóng
góp về chất của lực lượng sản xuất đối với đời sống và xã hội.
Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển của xã hội, Lê-nin đã nói: “Suy cho
cùng phương thức sản xuất này thắng phương thức sản xuất kia chính là ở chỗ tạo ra năng suất cao hơn”.
2. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội
Để thỏa mãn nhu cầu đầu tiên, cơ bản của con người, Mác thấy con người phải
chế tạo ra công cụ lao động, cái mà sau này Mác gọi bằng những khái niệm rộng hơn
và chính xác hơn là tư liệu ld, tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất. Như vậy loaig
người tồn tại và phát triển trên thế giới này, không phải do phép màu của một lực
lượng huyền bí hay ý chí của thần tiên, Chúa trời hay các bậc vĩ nhân mà do sự tồn
tại và phát triển của những phương thức kế tiếp nhau trong lịch sử.
a) Vai trò của yếu tố con người đối với sự phát triển xã hội
Như đã nói ở phần I.4.b, người lao động là nhân tố hàng đầu và quyết định của
lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất đóng góp vai trò trực tiếp trong sự phát
triển xã hội. Con người tác động làm thay đổi lực lượng sản xuất để lực lượng sản
xuất trực tiếp phát triển xã hội. Phải ý thức được rằng chính yếu tố con người làm nên
tất cả các cuộc cách mạng to lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị… tạo
nên sự biến đổi không ngừng của xã hội loài người.
Từ khi loài người xuất hiện, lao động là không thể thiếu trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Từ những bước đi chập chững đầu tiên, loài người đã biết
dung những công cụ thô sơ nhất để tác động tự nhiên làm ra sản phẩm nuôi sống bản
thân. Chính nhờ có lao động và ngôn ngữ, con người trở thành động vật cao cấp nhất
trong giới tự nhiên, biết dung ý chí của mình để biến đổi thế giới. Cùng với sự phát
triển của lịch sử, công cụ lao động đã dần dần được phát triển từ những công cụ thô
sơ nhất đến những máy móc vô cùng hiện đại. Tất cả những sự biến đổi to lớn đó là
do con người tạo ra. Dù cho khoa học kỹ thuật có hiện đạo đến mức độ nào, công cụ
lao động có thông minh đến đâu thì vai trò của con người là không thể phủ nhận. Con
người vẫn luôn là chủ thể của sản xuất, chủ thể của xh; nếu thiếu con người thì xã hội sẽ không thể vận hành.
b) Vai trò của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ đối với xã hội
Lực lượng sản xuất có vai trò trực tiếp trong sự phát triển của xã hội, và theo
như mục I.4.c, một yếu tố quan trọng khác tác động đến lực lượng sản xuất chính là
khoa học công nghệ. Trên cơ sở phân tích sự vận động và phát triển xã hội tư bản,
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ, xét về mặt kỹ thuật, đặc điểm nổi bật của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất là “do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy 7
kéo sợi, máy dệt và hàng loạt những thiết bị máy móc khác”1 thay thế công cụ thủ
công trước đó, biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất qui mô lớn, được thể hiện rõ
trong ngành dệt may, luyện kim, cơ khí.
Thực tế, với sự tham dự của máy móc đã tạo ra năng suất lao động vượt trội gấp
hàng chục, hàng trăm lần so với lao động thủ công, bởi máy móc làm thay đổi toàn
bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay. Hàng hóa do máy móc sản xuất ra
thì rẻ hơn và tốt hơn so với hàng hóa do công nhân sản xuất bằng xe kéo sợi và khung
cửi dệt vải của mình, cho phép trong một thời gian ngắn có thể tăng thêm sản xuất
công nghiệp một cách vô hạn mà chi phí lại không nhiều, góp phần giảm nhẹ lao
động. Tăng năng suất lao động, sau đó là tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất, nhà tư bản
là vai trò to lớn của máy móc đối với sản xuất mà mọi người đều có thể cảm nhận.
“Kinh tế tri thức” là một khái niệm mới đang được nhiều quốc gia và các tổ
chức bàn luận. Tuy ý kiến còn khác nhua về cách định nghĩa, nhưng đều thống nhất
rằng: kinh tế tri thức lấy yếu tố tri thức hiện đại của khoa học, công nghệ và quản lý
làm nền tảng. Với sự phát triển của kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ thực sự
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm ra sản phẩm ở hầu hết các ngành, các lĩnh
vực. Sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức gắn chặt với những bước nhảy
vọt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, đặc biệt là công nghệ thông
tin (kỹ thuật số…), công nghệ sinh học (công nghệ gen…), công nghệ vật liệu mới
(công nghệ Nano…). Cốt lõi của nền kinh tế tri thức chính là công nghệ cao.
Và điều đó càng đúng hơn với máy móc, công nghệ thông minh của xã hội
trong thế kỉ XXI hiện nay. Máy móc giờ đây có thể thay thế con người, tự động hóa,
trí tuệ hóa, tiết kiệm rất nhiều sức người, từ đó con người có thể tập trung hơn vào sự
phát triển toàn diện của bản thân: đức – trí – thể - mĩ. Và từ đó, xã hội phát triển toàn diện, hoàn thiện.
3. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn
a)Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội
Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm
hình thái kinh tế – xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
b) Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội
Một hình thái kinh tế – xã hội có 3 yếu tố cơ bản cấu thành:
Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định,
đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất 8
Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội khác.
Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế,
đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá…. của các quan
hệ sản xuất của xã hội.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế – xã hội còn có các yếu
tố khác như: Quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình…
c)Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với
sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế
– xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và
do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói
chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con
người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản
thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển
của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các
phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ
bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội khác nhau.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một
quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có
hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật
vận động, phát triển của xã hội.
III.Vận dụng lí luận vào đời sống, xã hội ở Việt Nam
1. Thực tiễn quá trình phát triển lực lượng lao động ở Việt Nam
Việt Nam đã đi qua chiến tranh được hơn bốn thập kỉ, nhưng trải qua những
năm tháng bị tàn phá nặng nề và xuất phát điểm thấp từ một nước nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu và đặc biệt là các hậu quả do dịch Covid – 19 để lại. Đất nước ta cũng
đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và đứng trước rất nhiều khó khăn, 9
thách thức đòi hỏi phải tận dụng triệt để những ưu thế và khắc phục những mặt còn
hạn chế của đất nước. Để làm được điều đó, chúng ta phải nắm chắc những thực
trạng về lực lượng sản xuất ở Việt Nam cũng như biết vận dụng những lí luận về lực
lượng sản xuất vào thực tế đó.
a) Thực trạng đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
- Tỉ lệ người lao động
Dân số đông và tỉ lệ người trong độ tuổi ld cao là những lợi thế to lớn của Việt
Nam để phát triển lực lượng sản xuất:
Tính đến ngày 1/4/2019, tổng số dân Việt Nam được thống kê là hơn 96 triệu
người, xếp thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó, gần
88% dân số trong độ tuổi từ 25-59 tham gia lực lượng lao động; trong đó tỷ trọng dân
số tham gia lực lượng lao động cao nhất ở nhóm tuổi 25-29 (14,3%) và giảm nhẹ ở
nhóm 30-34 (14,2%). Dân số ở nhóm tuổi trẻ (nhóm 15-19 tuổi và nhóm 20-24 tuổi)
và nhóm tuổi già (từ 60 tuổi trở lên) đều chiếm tỷ trọng tham gia lực lượng lao động thấp (dưới 10%).
Trong khi đó nhóm dân số ở độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 61,1% vào
năm 1999 lên 69,1% vào năm 2009 và ổn định ở mức 69,4% năm 2014. Việt Nam
đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” hay còn gọi là “cửa sổ cơ hội nhân khẩu
học”. Điều đó đồng nghĩa rằng số người trong độ tuổi lao động cao gấp đôi nhóm dân
số trong độ tuổi phụ thuộc. Nói cách khác, cứ có hơn 2 người trong độ tuổi lao động
thì chỉ có 1 người ở độ tuổi phụ thuộc.
- Trình độ người lao động
Theo số liệu thống kê năm 2015, trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở
lên thuộc lực lượng lao động của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm
18,6% trong tổng số lao động trên cả nước. Trong những năm gần đây, tỉ lệ lao động
có trình độ đại học của lực lượng lao động trực tiếp không ngừng tăng lên. Năm
2012, trung bình cả nước có 4,7%, năm 2013 là 5,8%, đến năm 2014, tỷ lệ này là
6,2%. Sự tăng lên không ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã
bước đầu đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc
ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất theo hướng hiện đại.
Tính đến năm 2019, lực lượng lao động đã tốt nghiệp THPT trở lên chiếm
39,1%, tăng 13,5 điểm phần trăm so với năm 2009; đã được đào tạo có bằng, chứng
chỉ (từ sơ cấp trở lên) chiếm 23,1% (ở khu vực thành thị cao gấp 2,5 lần khu vực
nông thôn, tương ứng là 39,3% và 15,6%). (Theo báo cáo dân số Việt Nam 2019) 10
Một trong những đặc điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch sử là sự
cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Đó cũng chính là ưu điểm của người lao động nước ta
hiện nay. Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản xuất những mặt hàng
đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Cũng với tính cần cù, chăm chỉ, ngày
nay số lượng lao động Việt Nam làm việc trong các ngành công nghiệp lắp ráp công
nghệ cao cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong
những năm gần đây, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty, nhà máy lớn được xây dựng
do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Sam Sung, Toyota, Deawoo... Các chủ đầu tư
của những công ty đó đã nhìn thấy ưu điểm nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự
cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển
biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ
lao động công nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở
nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Như vậy, có thể thấy tỉ lệ ld có trình độ ở nước ta còn thấp (dưới 50%), đây là
một hạn chế cần khắc phục. - Cơ cấu ld:
Nhóm nghề lao động giản đơn thu hút nhiều nhân lực nhất trong nền kinh tế với
tỷ lệ 33,2%. So với 10 năm trước đây, tỷ trọng lao động làm công việc giản đơn đã
giảm mạnh (giảm 7,1 điểm phần trăm). Các nhóm “dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán
hàng”, “thợ thủ công và các thợ khác có liên quan” và “thợ lắp ráp và vận hành máy
móc thiết bị” cũng là những nhóm nghề thu hút nhiều lực lượng lao động, tương ứng
là 18,3%, 14,5% và 13,2% tổng số lao động đang làm việc.
b) Thực trạng ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Khoa học - công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những thành tựu của khoa học, công nghệ
đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu sản xuất, trước hết là cải biến những
công cụ lao động cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp.
Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc
tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Những
công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp đã được thay thế bằng
những dây chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người
được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động
giản đơn dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. Những sự thay
đổi lớn lao của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khối 11
lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Cũng nhờ sự phát triển
của công cụ sản xuất, nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch lớn mạnh về cơ cấu
kinh tế. Trong những năm gần đây, tỉ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ có xu hướng tăng mạnh hơn so với các ngành nông nghiệp.
Theo Báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2014 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đứng thứ 71/143 nước, đứng
thứ 4 trong số các nước thuộc khối ASEAN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất còn nhiều hạn chế. Trình độ cơ khí hóa,
tự động hóa và tin học hóa của nhiều ngành kinh tế nhìn chung còn nhiều hạn chế.
c) Thực trạng kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Kết cấu hạ tầng chính là cái “cốt vật chất” của các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở
mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng không chỉ giúp cho
việc lưu thông hàng hóa, hiện đại hóa quá trình sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy
quá trình sản xuất phát triển.
Hiện nay, ở nước ta đã hình thành được hầu hết các trục đường bộ từ Bắc đến
Nam, từ Đông sang Tây, không chỉ nối liền các vùng kinh tế trong cả nước mà còn
đảm bảo thông thương với các nước láng giềng. Đặc biệt, trong những năm gần đây,
nhiều tuyến đường cao tốc từ các tỉnh, thành phố trung tâm đã được xây dựng như Hà
Nội - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu, Đà Nẵng -
Dung Quất... làm giảm đáng kể thời gian vận chuyển, lưu thông hàng hóa từ 30-50%.
Hơn nữa, nhiều cây cầu đã được xây dựng như cầu Cần Thơ, cầu Nhật Tân, cầu
Thanh Trì... góp phần quan trọng trong việc hiện đại hóa nền kinh tế đất nước.
Không chỉ thế, giao thông đường biển, giao thông đường hàng không và giao
thông đường sắt cũng được đầu tư xây dựng, đem lại những thành tựu đáng kể và
thuận lợi nhất định cho việc lưu thông sản phẩm lao động.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng việc xây dựng kết cấu hạ
tầng phục vụ sản xuất ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém như hệ thống kết
cấu hạ tầng thiếu tính đồng bộ và mất cân đối đáng kể giữa các vùng miền. Hệ thống
kết cấu hạ tầng ở các thành phố lớn như thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
khá hiện đại nhưng ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo còn lạc hậu, yếu kém,
chất lượng hạn chế; công tác quản lý, khai thác và sử dụng dịch vụ hạ tầng còn nhiều bất cập.
d) Thực trạng lực lượng sản xuất trong thời kì dịch bệnh Covid – 19: 12
Theo báo cáo tác động của dịch covid-19 đến tình hình lao động việc làm tại việt nam quý III/2020:
- Cả nước có 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19
- Lực lượng lao động tăng trở lại sau khi ghi nhận mức giảm sâu kỷ lục vào
quý II năm 2020 nhưng vẫn chưa thể khôi phục về trạng thái của cùng kỳ năm trước
- Lao động trong một số ngành dịch vụ như vận tải kho bãi, lưu trú và ăn
uống, nghệ thuật, vui chơi và giải trí bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19
- Lao động có việc làm tăng so với quý trước chủ yếu ở nhóm lao động phi
chính thức; tốc độ tăng của lao động phi chính thức cao hơn so với tốc độ tăng của lao động chính thức
- Dịch Covid-19 làm tăng đáng kể số lao động thiếu việc làm ở cả ba khu vực kinh tế
- Một phần ba doanh nghiệp tham gia khảo sát nhanh cho biết phải thực hiện
các biện pháp cắt giảm lao động; các doanh nghiệp vận tải hàng không, du lịch và
dịch vụ lưu trú có tỷ lệ lao động bị cắt giảm cao nhất
2. Vận dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư
bản, đây là một công cuộc có những khó khan, thách thức to lớn mà chúng ta cần
phải vượt qua. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì này đã đặt ra mục tiêu
phải đạt được khi kết thúc thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: xây dựng xong về
căn bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về tư
tưởng, chính trị, văn hóa làm cho đất nước Việt Nam trở thành một đất nước xã hội
chủ nghĩa phồn vinh. Để đạt được mục tiêu thì một trong những phương hướng cụ thể
là: “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền 13
tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.”3
a) Những khái niệm cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ
các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỉ trọng về lao
động, về giá trị gia tăng, v.v.. Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng
đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công
nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá
trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ,
đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công
nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ
trong nhận thức tự nhiên.
Hiện đại hóa là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật vào
công nghệ sản xuất và đời sống xã hội, cải tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ
chức đời sống, tạo ra một nền sản xuất có trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
b) Đề xuất một số ý kiến về phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời đại mới
- Đầu tiên và trên hết là đầu tư vào con người.
Như đã nhắc tới ở phần trước, người lao động là nguồn gốc của sự phát triển
sản xuất. Vì thế, đầu tư cho con người, tạo điều kiện để con người nâng cao trình độ
văn hóa, trình độ kĩ thuật, đồng thời chú ý tới việc đáp ứng như cầu của con người cả
về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần chính là cốt lõi của phát triển lực lượng
sản xuất. Lâu nay, “nguồn ld dồi dào, giá nhân công rẻ, lao động cần cù, thông minh
và hiếu học và có khả năng tiếp thu nhanh kĩ thuật mới” thường được đánh giá như
một lợi thế của nước ta. Điều đó đúng nhưng chưa thực sự toàn diện và còn nhiều
mặt chưa hoàn toàn thích ứng với bối cảnh phát triển của khoa học và công nghệ
3 những phươ ng hướ ng cơ b ả n trong C ng lĩnh xầ ươ y d ng đầốt n ự
ướ c trong thờ i kỳ quá độ lên ch ủ nghĩa xã h ộ i
(thống qua t i đạ i hạ i đ ộ i bi ạ u t ể oàn quốốc lầần th ứ VII c ủ a đ ả ng) 14
ngày nay. Trong khi chúng ta đánh giá cao khả năng trí tuệ của con người Việt Nam
nhưng cũng cần đánh giá khách quan những mặt còn hạn chế như trình độ ld còn
thấp, chuyển dịch cơ cấu ld chưa kịp thích ứng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
mà ta đã nhắc tới ở phía trên bài viết. Để tạo nền kinh tế tri thức, trước hết ta phải có
một nền giáo dục tiên tiến và lành mạnh: chúng ta vẫn chưa đầu tư cho giáo dục –
đào tạo một cách thỏa đáng, giữa chất lượng đào tạo và yêu cầu thực tế còn có
khoảng cách khá xa. Trên cơ sở phân tích thực trạng của nguồn nhân lực, nhận thức
vai trò quan trọng của giáo dục – đào tạo trong sự nghiệp phát triển nguồn lực này để
đưa ra phương hướng phát triển nền giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, điều chỉnh cơ cấu đào tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội trong thời gian tới.
Thứ ba, tạo một môi trường giáo dục lành mạnh: tăng cường thanh tra giáo dục
ở mọi bậc học, nâng cao chất lượng giáo dục một cách tập trung, cụ thể.
Thứ tư, công nghệ giáo dục cần luôn luôn đổi mới, bắt kịp xu thế toàn cầu hóa
nhưng không mất đi bản sắc dân tộc.
Thứ sáu, chăm lo đến đội ngũ giáo viên: trước tiên là nâng cao chất lượng giáo
viên, sau đó là có những chính sách đãi ngộ xứng đáng.
Thứ bảy, đối với người ld, cần nâng cao trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn – kỹ thuật.
- Tiếp đó là có các phương án, giải pháp cụ thể, phù hợp với từng nhóm ngành
ld, từng thành phần kinh tế mà Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn
thiện thêm một bước đặc trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền
kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết
với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
c) Đề xuất một số ý kiến về phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam để khắc phục và vượt qua Covid – 19
Qua dự báo nêu trên có thể thấy các ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế Việt Nam
năm 2020 và 2021 và xuất hiện các thời cơ như sau: 15
Do dịch ở các nước trên thế giới, trong 17 nước là đối tác kinh tế và du lịch
quan trọng nhất của Việt Nam (chiếm 80% về thương mại, 90% về đầu tư nước
ngoài, 80% về du lịch nước ngoài), có 16 nước bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Vì
vậy nhu cầu nhập khẩu, khả năng xuất khẩu và khả năng người dân đi du lịch nước
ngoài ở các nước này giảm mạnh so với năm 2019, khi nào các nước này chưa trở lại
trạng thái bình thường mới và là nước an toàn dịch Covid-19. Vì vậy, ngay từ bây
giờ, cần có kế hoạch khẩn trương để phối hợp với từng nước: chuẩn bị, khuyến khích
phục hồi đầu tư nước ngoài, thương mại hai chiều và du lịch một cách cụ thể, phù
hợp với đặc điểm từng nước. Đây là biện pháp hiệu quả nhất để phát huy vai trò tích
cực của quan hệ kinh tế với nước ngoài của Việt Nam, biến dự báo phục hồi đầu tư
nước ngoài, thương mại và du lịch nêu trên thành hiện thực và có thể cải thiện hơn.
Việc giảm nhập khẩu một số nguyên liệu, vật tư cần cho sản xuất trong nước,
do các cơ sở sản xuất nước ngoài phải dừng khi nước này còn dịch, thì đây là cơ hội
cho phát triển các cơ sở sản xuất trong nước để đáp ứng nhu cầu này. Về lâu dài sẽ
làm cho kinh tế Việt Nam ít phụ thuộc vào nước ngoài hơn, tăng chuỗi giá trị gia tăng
cho nền kinh tế Việt Nam.
Từ các nhận định trên và kinh nghiệm thực tiễn thời gian qua, xin đề xuất một
số giải pháp để phục hồi và phát triển kinh tế, ổn định xã hội 2020 - 2021 như sau:
- Hỗ trợ thiết thực các doanh nghiệp và người lao động để cuối năm 2020, số
doanh nghiệp phải phá sản không quá 15% tổng số doanh nghiệp đã hoạt động
tháng 12-2019 (các giải pháp của Chính phủ và địa phương cần làm rõ nguồn
hỗ trợ ở đâu, bao nhiêu, lúc nào).
- Có kế hoạch cụ thể, thiết thực với từng nước từ tháng 6-2020 đến tháng 6-2021
để tận dụng cơ hội phục hồi đầu tư nước ngoài, xuất, nhập khẩu và du lịch
nước ngoài của 17 nước là đối tác kinh tế lớn nhất của Việt Nam.
- Khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu với lợi thế về
nhân lực (chi phí lao động không cao, chất lượng lao động được nâng cao) và
công nghệ 4.0 do người Việt Nam tạo ra.
- Giám sát chặt chẽ các thị trường và chi ngân sách, kiềm chế, giữ vững lạm phát
theo chỉ tiêu của Quốc hội.
- Phát huy truyền thống văn hóa của Việt Nam - Nhà nước và nhân dân cùng
chia sẻ, hợp tác để mọi người nghèo, thu nhập thấp được hỗ trợ, không để
người dân, gia đình rơi vào hoàn cảnh cùng cực.
- Tăng cường và đẩy mạnh một số dịch vụ giao dịch online để khuyến khích nhu
cầu của người dân, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động. 16 KẾT LUẬN 17
Như vậy, từ những lí luận và thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng lực lượng
sản xuất có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội cả về vật chất lẫn
tinh thần. Trong hơn hai mươi năm đổi mới và mười năm thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng với những chính sách
phát triển công nghiệp hóa gắn liền với việc phát triển lực lượng sản xuất, nền kinh
tế đã có những chuyển biến tích cực cả về chất và lượng. Nhờ vậy mà thế và lực của
Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới đã được khẳng định và ngày càng đi
lên. Việt Nam đang trên con đường quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội do đó
cần phải chú trọng hơn nữa việc phát triển lực lượng sản xuất cả về trình độ kĩ thuật
lẫn tư tưởng. Thanh niên hiện nay cũng cần tự giác tiếp thu và học hỏi những lí luận
tiến bộ để góp phần phát triển lực lượng sản xuất, đưa nước nhà “sánh vai với các
cường quốc năm châu”. Nhưng trong sự phát triển đó phải đảm bảo sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, phù hợp với quy luật lịch sử của xã hội.
Trên đây là những ý kiến của em về vai trò của lực lượng sản xuất và sự vận
dụng lí luận về lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
1. Giáo trình Triết học Mác – Lê-nin khối các ngành ngoài lí luận chính trị (Phạm Văn Đức chủ biên)
2. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin dành cho sinh
viên khối không chuyên ngành Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
Trị Quốc Gia (TS. Phạm Văn Sinh và GS,TS. Phạm Quang Phan đồng chủ biên) 3.
Thông cáo báo chí Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 của ASEAN 4.
Cơ cấu tuổi và giới tính của dân số Việt Nam – UNFPA Vietnam
5. Báo cáo tác động của dịch covid-19 đến tình hình lao động việc làm tại việt nam quý III/2020
6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thông
qua tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng) 7.
Quyết định số 432/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ 8.
Bài báo “Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Mặt trận ngày 12/01/2018
9. “Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam” trên tạp chí Tài chính đăng ngày 03/05/2020
10. “Diễn biến dịch Covid-19 và kiến nghị chín nhóm giải pháp phục hồi phát triển
kinh tế Việt Nam” đăng trên báo Nhân dân ngày 12/06/2020 19