Honore de Balzac
“Nhà văn người thư trung thành của thời đại”.
(Balzac)
1. Hoàn cảnh hình thành phát triển của văn học
hiện thực phê phán pháp vào cuối thể kỉ XIX
1.1 Tiền đề lịch sử hội cho sự ra đời của văn học hiện thực phê phán Pháp
Sự hình thành thống trị của chủ nghĩa bản trên các nước Tây Âu phát triển
như Anh, Pháp. Hậu quả sự thay đổi sâu sắc bộ mặt xã hội do phân hóa đẳng cấp, do s
xuất hiện của các tầng lớp thống trị bị trị mới(tư bản sản). Sự thay đổi về kinh tế
hội kéo theo sự thay đổi về văn hóa tinh thần, sự khủng hoảng về tư tưởng hội, đạo
đức.
Sự ra đời của nhiều học thuyết chống bản trong thời kỳ đầu như chủ nghĩa hội
không tưởng của Owen, Saint Simon Fourrier, chủ nghĩa đốc hội của Lamenais.
Sự xuất hiện của phép biện chứng của Hégel. Sau đó biện chứng duy vật làm nền
cho chủ nghĩa cộng sản của Marx. Tuyên ngôn cộng sản ra đời năm 1848.
=> Tất c những tiền đề trên tác động sâu sắc đến sự hình thành của cảm hứng phê
phán hội con người trong chế tư sản, tác hại của lợi nhuận, của đồng tiền trên
mối quan hệ giữa người người trong cuộc sống, làm tha hóa con người do dục vọng và
đồng tiền.
1.2 Tiền đề văn hóa tinh thần
Với sự lùi dần của mỹ học lãng mạn trong hoàn cảnh hội mới khhông đáp ứng
được những đổi thay của thời đại mới, tâm mới, xu hướng "tôn trọng thực tế" xuất hiện
thay cho sưü tưởng tượng, mộng tính chủ quan cực đoan trong sáng tạo văn chương
lãng mạn. "Sự phản ứng hiện thực” phủ định duy siêu hình, đòi hỏi nhà văn phải khả
năng quan sát, tiếp nhận phán xét thế giới bên ngoài .
Các quan niệm mới xuất hiện như "nghệ thuật tấm gương trrên đường, phản ánh
khi thì trời xanh, khi thì bùn lầy"(Stendhal); "lý tưởng của một nhà văn ngã khả năng
biến hóa đa dạng : vừa nạn nhân vừa là đao phủ, quan tòa bị cáo, lần lượt diễn các
vai của mục người lính, cái cày của nông phu, sự ngây thơ của quấn chúng sự
ngu xuẩn tiểu sản"(Balzac). Nhà văn muốn nhấn mạnh đến khả năng biến hóa hội
nhập vào các tầng lớp hội để thể hiện cho đúng bản chất của nhiều loại con người, chứ
không đặt nặng việc thể hiện cái tôi nhân. Hiện thực khách quan nhiều mặt như lịch
sử, hội, tâm tình của các tầng lớp hội phải cảm hứng chính cho sáng tạo văn
chương.
1.3 Giai đoạn ra đời:
Văn học hiện thực Pháp xuất hiện sau năm 1820 dưới thời Trung hưng, phát triển
mạnh mẽ cho đến những năm 60, thể chia ra hai giai đoạn: trước sau năm 1848.
1.4 Ðặc điểm về nội dung nghệ thuật của văn học hiện thực phê phán Về
nội dung : p phán hội bản các tiêu cực của đã làm tha hóa con
người trong mối quan hệ trục giả dối, tố cáo sự lệ của con người trước danh vọng, vật
chất tiền tài, biến con người thành lạnh lùng tàn nhẫn dưới s chỉ huy của đồng tiền.
Chủ nghĩa hiện thực một trong những phương pháp sáng tác được đánh giá cao
trong sáng tác văn chương. Không mang màu sắc lãng mạn, huyền ảo với những gam màu
tình yêu cháy bỏng như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực đi sâu vào khai thác hiện
thực cuộc sống với bao ngổn ngang hỗn tạp. Nếu chủ nghĩa lãng mạn giương cao ngọn cờ
giành lấy tự do yêu đương thì chủ nghĩa hiện thực lúc nào cũng đấu tranh cho quyền sống
con người. Quyền sống đó không chỉ đơn giản quyền được yêu, được sống hơn hết
quyền được “LÀM NGƯỜI”, một con người thực sự đúng nghĩa của nó. Đó cũng
những suy trăn trở của các nhà văn, n thơ.
Nội dung đó đã gây ấn tượng về văn học hiện thực phê phán n một trào lưu sở
trường về việc tả cái xấu, cái ác. Trong văn học hiện thực phê phán, nhân vật chính
thường không phải nhân vật chính diện. Các nhân vật anh hùng, nhân vật tích cực bị mờ
nhạt. Nhà văn hiện thực p phán thường không thành công với loại nhân vật này. Các
nhân vật nổi tiếng của họ thường nhân vật phản diện, nhân vật tha hóa. Do đó sự thể
hiện các quan điểm tiến bộ, nhân đạo của n văn hiện thực phê phán thường gián tiếp
chứ không trực tiếp.
Về nghệ thuật : Trong tác phẩm hiện thực phê phán, các yếu tố đề tài, chủ đề, nhân
vật, bút pháp cũng rất phong phú . Chủ nghĩa hiện thực phê phán Tây Âu đã để lại nhiêù
tác phẩm nổi tiếng, nhiều đóng góp ý nghĩa vào việc hoàn chỉnh thể loại tiểu thuyết hiện
đại.
1.5 Các tên tuổi tiêu biểu:
thể nói đỉnh cao của chiếc nôi hiện thực ấy Tây Âu với hàng loạt tên tuổi
như Stendhal, Honore de Balzac, Charles Dickens, WilliamThackeray…
2. Tiểu sử của H. de Balzac:
Honoré de Balzac (1799 1850) nhà tiểu thuyết lớn thế kỉ XIX “một bậc thầy
của chủ nghĩa hiện thực”, nhà văn hiện thực phê phán lớn nhất của nước Pháp c
văn học thế giới. Thật khó hình dung diện mạo văn học thế giới nếu như thiếu đi khuôn
mặt của “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” này.
Balzac sinh tỉnh Tour, thuộc miền Touraine nổi tiếng giàu đẹp, giữa nước Pháp.
Ông con trai của Bernard-François Balssa Anne-Charlotte-Laure Sallambier.
Cha ông một nông dân phất lên nhờ cuộc cách mạng sản Pháp 1789 khi mua bán đất
đai q tộc bị tịch thu trong cuộc cách mạng, và sau đó trở thành trợ cho thị trưởng
(thành phố Tours). Từ nhỏ, Balzac thừa hưởng được rất nhiều đức tốt đẹp từ bố. Đó
niềm say lao động kết hợp với một sức khỏe khả năng chịu đựng phi thường. Đó
sự hăng say, cần niềm lạc quan mãnh liệt. Mẹ ông xuất thân trong gia đình sản
buôn bán, một phụ nữ học thức, kém hơn chồng tới 32 tuổi. Ông Bernard đôi khi
nửa đùa nửa thật rằng mình hậu duệ của dòng dõi quý tộc Balzac, đó do v sau
ông đã đổi họ thành Balzac để nghe cao quý hơn.
Được bao bọc bởi một gia đình thương gia, tuổi thơ thời niên thiếu của ông thật
khó khăn. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã được gửi cho nuôi, khi trở về nhà, Balzac cảm
thấy cha mẹ đối xử với mình rất lạnh lùng, điều này đã ảnh hưởng khá tiêu cực đến ông.
Hơn nữa, từ lúc bắt đầu đi học tới năm 11 tuổi, Balzac đã phải đổi trường k nhiều lần,
lẽ thiếu vắng tình yêu thương của cha mẹ nên ngay từ nhỏ, Balzac đã nổi tiếng 1
đứa trẻ tính tình u uẩn. Trong hoàn cảnh sống như thế, ông đã sớm tìm tới sách vở,
Balzac thường ngồi trong thư viện của trường, mày tự đọc tự viết khiến đám bạn
cùng lứa chế giễu mỉa mai, đặt cho ông biệt danh “thi ”.
Những ngày tháng u ám nhất trong tuổi thơ của Balzac 7 năm sống trong
trường Vendome (1807-1813), một học giá khá kín nằm dưới quyền điều hành của các tu
sĩ. Ông đã phải tuân theo kỉ luật khắc nghiệt của các tu sĩ, khi phạm bất cứ lỗi lầm nào
nhỏ đến mấy cũng bị phạt nặng bằng roi vọt hay bị giam trong phòng kín. Ông đã từng
phải chịu một hình phạt như “quần gỗ”. Họ đặt miếng đệm lên người, khiến bị suy nhược
thần kinh.
Khi Balzac 15 tuổi, người cha được chuyển về Paris làm việc ông tiếp tục học
nội trú, đó năm 1814 khi đế chế của Napoleon vừa sụp đổ. Cuộc sống những trường
nội trú đã tạo cho Balzac một tính độc lập. trong bất hoàn cảnh k khăn nào,
Balzac vẫn không hề lay động, không hề bị khuất phục. Đây chìa khóa thành công đưa
Balzac đứng vững trên con đường nghệ thuật của mình sau này
Tuy nhiên, cha mẹ của ông muốn thay đổi cuộc sống của mình, chuyển đến một
khu vực khác của Pháp buộc ông phải theo học luật. vậy năm 1816, sau khi học hết
bậc Trung học ông vào học trường Luật theo như ý muốn của gia đình. Trong quá trình
học luật ông giấu gia đình vừa thực hành tập sự trong văn phòng của các viên công
chứng, vừa đi dự giảng những tiết Văn, Triết, Sử trường Sorbonne.
Sau 1819, tốt nghiệp trường Luật, Balzac bỏ nghề luật vốn được quan niệm o
bở, hái ra tiền để đi vào con đường văn chương trong sự phản đối quyết liệt của gia đình.
Tuy nhiên, gia đình vẫn không hề thuyết phục được Balzac nên đã chấp thuận bằng cách
nhượng bộ với điều kiện sau hai năm nếu không thể thực hiện được khả năng sáng tạo
nghệ thuật, ông sẽ phải trở về với ngành Luật. Nhưng rất may những ngày tập sự tại
văn phòng tố tụng, ông được chứng kiến nhiều bi kịch gia đình cùng với những hành
động phạm tội không hề bị trừng phạt… đã tạo cho nhà văn một kho liệu sáng tác
quý báu. Trong thời gian học luật, ông đã bắt đầu hiểu được những thay đổi trong bản
chất của con người.
Trong cuốn tiểu thuyết năm 1840, Balzac kể lại: “Ai ai cũng quay cuồng trước
những gia tài để lại, s phẫn nộ ghê tởm của những người thừa kế trước những xác chết
chưa nguội, trái tim con người đang vật lộn với bộ luật hình sự”. lẽ đây chính là
nguyên nhân khiến Balzac không muốn theo nghề luật. Việc này đã gây ra mối bất hòa
nghiêm trọng trong gia đình.
Khi cha ông đã về hưu, cả gia đình chuyển tới một thành phố nhỏ gần thủ đô.
Cuối cùng để thực hiện hoài bão, ước của mình, Balzac quyết định rời gia đình, một
mình lại Paris túc một n phòng áp mái nhỏ. đó, Balzac “vùi đầu vào thế giới
của sách vở tưởng, thế giới của lao động yên lặng, giữa Paris ồn ào náo nhiệt,
giống như một con nhộng tự xây mồ để rồi sẽ tái sinh vinh quang rực rỡ”. Chính nơi
đây Balzac càng điều kiện tiếp xúc với những người lao động, những người nghèo khổ
tận cùng của đáy hội Paris. Đây nguồn liệu quý g cho sự nghiệp sáng tác của
ông.
Trong một bức t gửi cho em gái, Honoré de Balzac viết rằng “Anh đã nhìn thấy
định mệnh của anh. Định mệnh chỉ thể đạt được sau khi vượt qua những trở ngại
khó khăn nhất bằng sự mạnh m của chính mình. Anh sẽ tạo nên kỷ nguyên của anh”.
Những năm tháng đó, Honoré de Balzac thường đến các hàng quán phê nơi
diễn ra những buổi hội đàm văn học, đắm mình trong hơi thở thời đại, quan sát diễn biến
hội đương thời thông qua những cuộc bình luận bên trong quán phê. Chiêm nghiệm,
suy sáng tạo nên những câu chuyện bất tận. Balzac giữ cho sức sáng tạo liên tục
không ngừng sự tỉnh táo thăng hoa bằng những ly phê được pha chế theo phong
cách Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc sống của ông dường n chỉ bao quanh ngôn ngữ văn học, sách
phê. Balzac uống tới 50 tách phê mỗi ngày. Trong tiểu luận “The Pleasures and
Pains of Coffee”, đại văn hào người Pháp viết rằng ông không thể sống nổi nếu thiếu
phê. Balzac khẳng định, phê nguồn năng lượng sáng tạo đầy huyền thoại, thưởng
thức phê là một điều cần thiết tuyệt đối để t tưởng tượng tạo ra những điều kỳ diệu:
“Khi tôi uống phê, các ý tưởng xuất hiện như đi diễu hành trong quân đội”.
Giai đoạn đầu con đường sáng tác văn chương Balzac còn gặp nhiều khó khăn,
các sáng tác của ông hầu như không được đánh giá cao. thất bại nhưng Balzac không
hề thất vọng.
Năm 1825-1828 ông làm công việc xuất bản sách, mở nhà in, đúc chữ in vv…
nhằm cải thiện đời sống t nợ nần chồng chất sắp phá sản, suốt đời mới trả hết nợ.
Sau đó, ông từ bỏ hẳn kinh doanh chuyển sang con đường nghệ thuật bấy lâu ước.
Dường như Balzac sinh ra không phải một doanh nhân thành đạt ông duyên
nhiều hơn với lĩnh vực văn chương. Với sự nỗ lực vươn lên của chính bản thân Balzac đã
gặt hái được nhiều thành công đáng nể.
Cuộc đời ông sự thất bại toàn diện trong sáng tác kinh doanh - đó là tổng kết
chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến giai đoạn này. Ông chỉ thật
sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn
sống là Victor Hugo. Ông một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường
chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép.
Năm 1832 rất quan trọng đối với Balzac. Ông ấy đã nổi tiếng rồi. Những cuốn tiểu
thuyết được tạo ra đã mang lại sự nổi tiếng cho ông. Các nhà xuất bản hào phóng và trả
tiền ứng trước cho các tác phẩm chưa hoàn thành
Năm 1846, bệnh tái phát vào năm 1849, tình trạng của ông ngày càng trở nên yếu
đi, bạn đã đến thăm ông, bao gồm cả Victor Hugo, người đã đ lại những ghi chép rất
bi thảm
Nhà văn đã chết trong đau đớn trong vòng tay của mẹ mình vào năm ông chỉ mới 51
tuổi. Cái chết của Balzac xảy ra vào đêm 18-19 tháng 8 năm 1850. Đám tang ông được tổ
chức trong một ngày mưa thơ người đưa tiễn. Tường thuật tang lễ của Balzac, một
nhà văn - trên tạp chí Thời trang số ra ngày 24/8/1850 - đã viết: "Cái chết của ông thực
sự một thảm họa trí tuệ".
Sự nghiệp đại ông để lại đã nói lên rằng ông đã sử dụng những năm tháng
cuộc đời ngắn ngủi của mình đến mức tối đa với hiệu suất phi thường
Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của nữ,
đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ s Tấn t đời
2.1Sự nghiệp văn chương:
Sự nghiệp văn chương của Honore de Balzac được tập trung bộ Tấn trò đời còn
gọi Hài kịch nhân loại gồm gần 100 tiểu thuyết, truyện vừa truyện ngắn chính của
nhà văn được tập hơp lại. thể khẳng đinh rằng sự nghiệp văn chương của ông gắn chặt
với bộ tác phẩm này. Ngoài Tấn trò đời ra, Balzac còn thừa nhận một số các sáng tác
khác. Cuối Lời nói đầu cho Tấn trò đời viết tháng 7 năm 1842, Balzac khẳng định:
“Ngoài Tấn trò đời, tôi chỉ trăm tuyện cười, hai vở kịch những bài riêng lẻ cũng
tên tôi. Tôi sử dụng đây một quyền không thể chối cãi”.
2.1.1 Giai đoạn thứ nhất (1821 -1829)
Mặc nhà văn chỉ thừa nhận những c phẩm được viết từ sau khi tác phẩm Những
người Choaun ra đời (3/1829). Sự thực lịch sử từ trước đến nay, Balzac đã viết khá nhiều
từ ngày ông tấp tểnh nuôi mộng văn chương sau tốt nghiệp trường luật cho đến ngày trở
lại nghề giấy bút sau khi kinh doanh thất bại thảm hại. Ngoài vở kịch đầu tay Cromwell
được viết vào cuối năm 1819 - một vở kịch năm hồi bằng thơ và vở kịch đã thất bại.
những năm đầu của giai đoạn này, Balzac thiên về những loại tiểu thuyết phiêu
lưu lịch sử. So với những tác phẩm giai đoạn sau t những quyển tiểu thuyết y rất
yếu. Sau này, chính tác giả cũng đã phủ nhận nó, không đưa vào bộ Tấn trò đời
gọi văn chương con lợn”. Tuy nhiên, qua những tiểu thuyết đầu tay ấy, chúng ta thấy
tác giả chống lại mưu đ hòng khôi phục lại trật tự trước Cách mạng của giai cấp quý tộc
dưới thời Trung hưng. Trong các tiểu thuyết thời đầu, Balzac còn nói đến tính tích
cực của giai cấp sản, nhà văn chưa tách giai cấp sản ra khỏi “đẳng cấp thứ ba”,
vẫn xem họ thành phần của mặt trận thống nhất chống phong kiến.
Về phương pháp sáng tác thì những năm này Balzac còn bị chủ nghĩa lãng mạn ràng
buộc. “Những người Chouans (1829) tác phẩm đầu tiên m cho tác giả nổi tiếng
đánh dấu chuyển biến từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ hai. Mặc người ủng
hộ phe bảo hoàng nhưng Balzac đã viết v những người cách mạng bằng ngòi bút của sự
cảm thông, đây là cuốn sách đầu tiên Balzac phát hành dưới tên của chính ông, đã
mang lại cái một nhà phê bình gọi “lối đi vào Miền đất hứa”. Nếu như lúc đầu
Balzac còn dành tình cảm ưu ái cho giai cấp sản thì đến đây ông hoàn toàn mất lòng
tin nó. Ông bắt đầu phê phán giai cấp đó không chút thiên vị. Lúc này khuynh hướng
hiện thực chủ nghĩa cũng chiếm ưu thế hơn so với lúc trước.
Đây được xem thời tìm đường của ông, Balzac đã phải lận đận, lần hàng
10 năm trời, vượt qua bao nhiêu khó khăn trở ngại.
2.1.2 Giai đoạn thứ hai (1830 1835)
Tác phẩm Những người Chouans đã làm tròn trách nhiệm mở đường của mình,
hàng loạt tác phẩm ưu tú của Balzac ạt xuất hiện chiếm chỗ đứng khá vững. từ
đầu năm 30, ông trở thành nhà văn tiếng tăm nhất nước Pháp. Nếu như những tác
phẩm giai đoạn trước chủ yếu chống giai cấp q tộc phong kiến thì những tác phẩm
giai đoạn này chủ yếu chống giai cấp sản. Chính những thay đổi quan trọng trong đời
sống chính trị của nước Pháp thời đầu của những năm 30 đã quy định đặc điểm
trong sáng tác của Balzac. Sau cách mạng tháng 07/1830, giới quý tộc tài chính lên cầm
quyền: đó bọn chủ ngân hàng, chủ hầm mỏ, chủ đường sắt đang ra sức bóp nghẹt đất
nước đời sống nhân dân. Những cuộc khởi nghĩa đã nổ ra làm rung chuyển toàn đất
nước. Bấy giờ, Balzac càng thấy bản chất xấu xa, hèn hạ của giai cấp sản. Ông đã
dùng tất cả sức lực để vạch mặt giai cấp sản phê phán một cách không thương xót.
Tiêu biểu các tác phẩm Gobseck (1830), Miếng da lừa (1831) đặc biệt
hai tác phẩm Eugénie Grandet” (1833), “Lão Goriot (1834). Thông qua các tác
phẩm đó, Balzac tố cáo, lên án thế lực của đồng tiền, thể hủy hoại con người, biến
họ thành những con người xấu xa hèn hạ nhất.
2.1.3 Giai đoạn thứ ba (1836 1848)
Nếu như lúc trước Balzac chỉ nêu lên sự xung đột của những người đại diện cho cả
một lực lượng hội thì giờ đây, giai đoạn này, ông nêu lên sự đấu tranh giữa các
nhóm người, giữa các giai cấp trong xã hội. Dường như Balzac đã phát hiện trong hội
ông đang sống không chỉ đơn giản hội của sản còn là hội của cả hai
loại người: người giàu người nghèo (vô sản). Chính thế, các sáng tác của Balzac
thời này, chú tâm một cách đặc biệt đối với những con người dưới đáy hội. n
cạnh đó nhà văn vẫn không sao nhãng việc vạch trần bộ mặt giới sản. Các tác phẩm
tiêu biểu về hình ảnh người nông dân nghèo khổ nhưng giàu danh dự nhân phẩm
“Faxinô Canê (1836), “Những người nông dân (1844). Viết về những người sản cản
trở sự phát triển hội Bước đường vinh nhục của c kỹ nữ (1837-1847), Người
chị họ Bét (1846), Vỡ mộng (1835- 1843)…
Đây giai đoạn cao nhất trong quá trình sáng tác của Balzac. cũng thời này
nhà văn xây dựng bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”. Tác giả dùng văn chương như một k
vạch trần sự liên minh giữa những sản quý tộc hay những k cấu kết với nhau để
chống lại quần chúng nhân dân. Vào những năm 40, giai cấp công nhân bắt đầu giữ địa vị
chủ yếu trong phong trào cách mạng trở thành mối nguy hại lớn cho giai cấp sản
hạng lớn đang nắm địa vị thống trị. Phong trào đấu tranh dẫn đến cuộc cách mạng năm
1848, “Sự va chạm đầu tiên lớn nhất giữa giai cấp sản bản”, chính sự đấu tranh
giữa hai lực lượng giai cấp sản tư sản trong những năm 40, xác định giai đoạn sáng
tác thứ ba của Balzac.. Đây tác phẩm để đời của Balzac thành tựu lớn nhất của
ông. Tấn trò đời tập hợp loạt tiểu thuyết truyện ngắn ảo tiểu luận được xuất bản
từ năm 1829 1850 của Balzac, được xem “một trong những công trình bát ngát mênh
mông nhất một con người dám đơn độc cấu tứ.”
2.1.4 Giai đoạn thứ (1848 1850)
Đây giai đoạn những năm cuối đời của Balzac. Những s kiện cách mạng năm
1848 sức ảnh hưởng rất lớn đến nhà văn. Lúc này Balzac càng nhận thấy được vai t
quan trọng của quần chúng nhân dân hơn hết trong ông có sự chuyển biến tưởng
khá rệt. Ông công khai đứng về phía cộng hòa, về phía nhân dân, ca ngợi giai cấp công
nhân tiến bộ.
những năm cuối cùng của cuộc đời nhưng Balzac vẫn lao động không hề mệt
mỏi xây dựng cho mình một tác phẩm liên hoàn gồm nhiều Vở kịch nhân dân”. Ông
còn cho ra đời bộ đôi tiểu thuyết Le Cousin Pons (1847) La Cousine Bettle (1848).
Vào thời điểm này, sức khỏe của Balzac ngày càng yếu đi, việc hoàn thành được bộ đôi
tiểu thuyết này cả 1 sự cố gắng của ông.
Tiểu kết về giai đoạn sáng c:
Xét các quá trình sáng tác của Balzac chúng ta thấy giai đoạn đầu, các sáng tác của
nhà văn chưa thật sự trở thành những tác phẩm bất hủ. Mãi đến các giai đoạn sau (từ giai
đoạn thứ 2) mới lần lượt xuất hiện các tác phẩm để đời như “Lão Goriot”, “Vỡ mộng”,
“Eugénie Grandet Không những thế các giai đoạn sau số lượng cũng tăng lên đáng kể
(trừ giai đoạn cuối đời). Đồng thời, chúng ta còn thấy được quá trình chuyển biến
tưởng khá rệt trong nhận thức tưởng của nhà văn. cuộc đời ngắn ngủi nhưng
Balzac đã đem đến cho đời vàn những hương thơm mật ngọt. Con người ấy là sự kết
tinh của tinh hoa t tuệ. Thật khó kể hết những công lao Balzac đã âm thầm góp
nhặt cho đời. Với bộ tiểu thuyết đồ sộ Balzac đã chứng minh cho một trí tuệ đầy nghị lực
bản lĩnh.
2.2 tưởng tài năng nghệ thuật:
lẽ, từ nhỏ Balzac đã được học cách sống tự lập chính vốn sống, vốn hiểu biết
của mình đã hình thành nhà văn một ý thức, một cánh nhìn toàn diện về cuộc sống.
Cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ nơi đó rất nhiều góc khuất đòi hỏi mỗi nhà
văn phải nhìn bằng lăng kính đa chiều. Chính thế, các tác phẩm của ông như một
chỉnh thể của hệ thống nghệ thuật. Đối với Balzac phải một công trình kiến trúc của
trụ. Hay nói rằng chính nhà văn đã tạo ra một “thế giới kiểu Balzac”, một “vũ trụ
Balzac”. Cái thế giới vũ trụ đó hoàn toàn sự sáng tạo của n văn chứ không phải s
phỏng máy móc. i công trình kiến trúc đồ sộ đại được nhắc đến “Tấn trò đời”
với muôn vàn tinh hoa trí tuệ của Balzac, được tỏa ra kết dính của gần 100 tác phẩm.
Từ đó, ta thể thấy rằng Balzac thể hiện hai cảm hứng nghệ thuật: “cảm hứng mô”
“cảm hứng vi mô”.
+ Cảm hứng : Được hiểu là những tác phẩm văn chương phản ánh hiện thực
thời đại của hội số phận của con người hội như sự tha hóa của con người trong
hội đồng tiền chi phối tất cả giá trị đạo đức và các mối quan hệ xã hội. Như những
nhân vật trong Lão Goriot (Le peré Goriot) sẵn sàng chạy theo đồng tiền quyền lực
chà đạp lên những giá trị đạo tình cảm thiêng liêng nhất.
+ Cảm hứng vi mô: Được hiểu những tác phẩm văn chương đi sâu vào thế giới
nội tâm của con người khi con người đứng những khó khăn thách thức của cuộc sống.
Cuộc đấu tranh đó cuộc tranh đấu thầm lặng gay gắt giữa cái thiện và cái ác, giữa
cái cao cả cái thấp hèn diễn ra trong nội tâm của con người.
Phê phán hay chất phủ định cao là khía cạnh được chú ý khi nói về tiểu thuyết
Balzac: qua sự nghiệp sáng tác của Balzac cả một hội con người dưới thể chế
sản bị phơi bày với tất cả xấu xa tiêu cực, cũng từ đây những nỗi khổ đau, những tấn bi
kịch xảy ra cho nhiều người, nhiều hoàn cảnh trong một hội đồng tiền chân lý.
sở trường của Balzac việc miêu tả cái xấu, cái ác trong hội sản một cách thấu
đáo sắc sảo qua hệ thống ngôn từ phong cách thích hợp, đây cũng chính
nguyên nhân gây ra mối ác cảm của giới phê bình đương thời đối với Balzac.
Cũng chính vì tư tưởng phê phán nên những nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất
thành công nhất của Balzac những nhân vật phản diện, thường được tác giả cho xuất
hiện nhiều lần trong nhiều tác phẩm để người đọc theo dõi chặng đường phát triển tính
cách, số phận, những bước thăng trầm trong cuộc chen chân trong thế giới đồng tiền, âm
mưu và tội ác. Ngược lại, khía cạnh khẳng định cái đẹp trong các tác phẩm của Balzac bị
cho yếu: "Những nhân vật đức hạnh trong tiểu thuyết Balzac khá mờ nhạt..."
tưởng hiện thực mở rộng: tiểu thuyết của Balzac phản ánh hiện thực hội
không mấy tốt đẹp, nhưng chính Balzac lại từng khẳng định:" hội đã tự tách ra hoặc
xích lại gần hơn với những quy tắc vĩnh cửu, với cái chân thực, cái đẹp, tiểu thuyết phải
một thế giới tốt lành hơn...". Như vậy, thế giới nghệ thuật của Tấn trò đời không đơn
thuần phản ánh i thiện, cái ác trong hội, điều Balzac mong mỏi chính cải
tạo hội ngày càng tốt đẹp hơn.
2.3 Một số điều thú vị về Balzac:
“Tình yêu trò chơi ai cũng gian lận” Balzac-
“Một ngày nào đó bạn sẽ nhận ra rằng, nhìn người khác hạnh phúc đôi khi còn
hạnh phúc hơn cả khi chính bản thân mình được hạnh phúc”- Balzac-
Cuộc đời tình duyên của Balzac không hề thuyện buồm xuôi gió! Vị t của người
phụ nữ đã chiếm một phần khá quan trọng trong đời sống cũng như trong sáng tác của
ông. Ông được mệnh danh là: Nhà văn đào hoa nhất nhì nước Pháp: các n tiểu sử
khẳng định rằng Balzac có từ 3 10 người con ngoài giá thú, số lượng phụ nữ ông
chinh phục nhiều không đếm xuể. Trong số đó 2 người đóng vai t rất đặc biệt trong
cuộc đời ông.
Trong giai đoạn đầu mới vào nghề, Balzac làm thợ văn, xuất bản tới cả chục cuốn
tiểu thuyết nhưng vẫn không sao thoát khỏi cảnh sống túng thiếu. Từ Paris thi thoảng trở
về thành phố ngoại ô sống cùng cha mẹ, ông đã dịp làm quen với Laure de Berny,
một phụ nữ tuổi 45. Sau này Balzac thừa nhận Laure vừa mẹ, vừa bạn gái, vừa
khách đồng hành, vừa gia đình, c vấn, tri âm tri kỷ. Mối quan hệ giữa 2 người kéo dài
từ năm 1822 1833, khi đó các dự án in ấn của Balzac thất bại, chính Laure đã giúp đỡ
ông.
Nữ tước người Ba Lan Evelina Hanska là cái tên thứ 2 ảnh hưởng lớn đến
nhà văn, Evelina Hanska 1 người yêu thích tiểu thuyết của Balzac từng gửi chi đại
văn hào những bức thư trao đổi về văn học. Giữa 2 người đã nảy sinh s q mến,
ngưỡng mộ. Họ chính thức gặp mặt vào năm 1833, lúc này Evelina Hanska đang một
mệnh phụ phu nhân. Năm 1841, chồng của Evelina qua đời nhưng do sự phản đối từ phái
gia đình người chồng quá cố con gái của nên phải đến 1850, Balzac và Evelina
mới kết hôn. 5 tháng sau ngày cưới, Balzac ra đi mãi mãi vào ngày 18/08/1850.
Nhìn lại cả cuộc đời của nhà văn ta thể thấy cả đời Balzac hầu như lận đận. Giai
đoạn đầu sáng tác văn chương gặp nhiều khó khăn, kinh doanh lại p sản, Balzac đã hai
lần ứng cử vào viện Hàn lâm nhưng đều thất bại. Thậm chí, tài năng của Balzac chỉ thật
sự được nước Pháp công nhận sau khi ông mất. Thế nhưng cái thật sự giá trị, thật
sự linh hồn thì mãi mãi còn lại với thời gian. Dường n Balzac đã đi sâu vào tiềm
thức của con người hơn hết đã trở thành một nếp trong người dân Pháp nói riêng
tất c ai yêu Balzac nói chung. Như Gorki đã từng nói, chúng ta hãy yêu quý Balzac
một cách nồng nhiệt, lẽ như người ta vẫn thường yêu quý một người thầy, một người
bạn”.
3. Tiểu thuyết “Tấn trò đời”
Tấn trò đời tiếng Pháp “La Comédie Humaine”. Tấn trò đời dịch sát nghĩa
“Hài kịch nhân gian”. tập hợp loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kỳ ảo và tiểu luận được
xuất bản từ năm 1829-1850 của đại văn hào Honoré de Balzac.
- Phác thảo là: 137 tác phẩm đến 143 tác phẩm; đã hoàn thành 91-97 tác phẩm
- Nhân vật: d định xây dựng t 3000 4000 nhân vật; đã hoàn thành 2000
nhân vật
- Những nhân vật tái xuất hiện trong nhiều tác phẩm: 460-567 nhân vật
Với 97 tác phẩm đã được hoàn thiện, Tấn trò đời được nhiều người như “Một
nghìn lẻ một đêm của phương Tây”. Do cách tính không thống nhất nên trong c sách
viết về Balzac, số lượng tác phẩm được xác định 97, 95, 91 hay 87, 85… tùy cách tính.
những tiểu thuyết gồm 3 cuốn, 2 cuốn được tính riêng hay tính gộp
Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa thể tồn tại độc lập.
Người ta thể hiểu một tác phẩm không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu
chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. dụ
trong chuyện này, nhân vật A có thể nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta
lại nhân vật phụ, một người liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm
hội một chỉnh thể, tất cả các s kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một
cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả
ấn tượng như đang sống trong một hội thực. Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn
trò đời một khối thống nhất tất cả cùng vẽ nên bức tranh hội Pháp nửa đầu thế kỷ
19.
Đồng ý rằng, trong tác phẩm của Balzac phần lớn tả những thứ xấu xa, độc ác
nhưng đó chính bản chất thật sự của hội Pháp nửa đầu thế kỉ XIX thành phố
Paris một điển hình. Nếu như chỉ sống trong những cái lãng mạn, xa vời, tốt đẹp thì
con người dễ tự mãn không phấn đấu. Cuộc sống này đã rất đẹp, rất hoàn thì cần
chi vun đắp. Chính nhà thư của thời đại Balzac đã thành thực ghi nhận phản ánh
nó. Chính Balzac đã rung lên một hồi chuông báo động cho toàn xã hội Pháp với tình
trạng phẩm chất con người đang xuống cấp, hội thượng lưu tốt đẹp chỉ cái bề ngoài
hào nhoáng giả tạo. Balzac đang dùng văn chương của mình “tẩy rửa” hội Pháp, để
càng tốt đẹp hơn. vậy, chúng ta phải “Cảm ơn Balzac, người đầu tiên của Pháp đã
xác định được với chi tiết cực chính xác, với sự minh mẫn cực sắc sảo, căn bệnh
chúng ta vẫn đang đau”. Bởi bộ máy xã hội, đặc biệt bộ máy tiền tài không hề thay
hội Pháp từ Balzac đến nay”.
Để rồi, bằng tất cả bút lực Balzac đã chứng t văn chương của mình đẹp chứ không
hề ô uế, đen tối như bao lời nhận xét. Với bộ tiểu thuyết “Tấn t đời” nhà văn đã làm
cho cả văn đàn phải xôn xao, lòng người phải rung động.
3.1 Quá trình hình thành
Tấn trò đời tính chất đặc biệt đó Balzac không phải đã vạch ra ngay từ trước
buổi đầu kế hoạch sẵn sàng toàn vẹn rồi cứ theo đó làm, với những bổ sung cần
thiết về sau. ràng ý kiến tập hợp của các tác phẩm ông dưới một nhan đề chung kết
quả của cả quá trình suy nghĩ thử nghiệm lâu dài tỏng hơn mười năm tời của n văn.
Tuy nghiên thể khẳng định rằng muốn tả không phải chỉ một số mặt nào đó của
hội toàn bộ hội, toàn bộ cuộc sống đương thời đã nảy nở trong đầu óc của
Balzac ngay t những năm 1830-1831.
Năm 1830, ông cho xuất bản hai tập truyện với tiêu đề chung là Những cảnh đời
tư”, với ý muốn làm cho độc giả hiểu rằng những tác phẩm của ông bề ngoài vẻ tản
mạn về phong cách cững như về đề tài, thật ra sự thống nhất về nội dung ý nghĩa
Năm 1833, Balzac ngân lên tiếng reo vui đắc thắng khi trong đầu ông vụt lên ý nghĩ
táo bạo về dự án công trình đồ sộ này “Hãy chào tôi đi, bởi tôi đang thành một thiên
tài”.
Năm 1834, ông phác họa ra nội dung phần đầu quan trọng nhất của Tấn trò đời với
nhan đề Khảo cứu phong tục.
Năm 1837, Balzac dùng tên chung Khảo cứu hội để tập hợp 50 tác phẩm đã viết,
mãi tới 1841, ông mới dứt khoát dùng cái tên Tấn trò đời, với ngụ ý liên hệ tác phẩm
của ông với tác phẩm của thi hào Dante Alighieri của nước Ý, nhan đ Tấn trò thần
thánh (Hài kịch thần thánh) (dịch Thần khúc), t cảnh địa ngục thần thánh tưởng
tượng, còn Balzac thì tả cảnh địa ngục thật sự giữa trần gian.
Năm 1842, Balzac viết lời tựa cho Tấn trò đời
Năm 1845, Balzac lập danh mục toàn bộ công trình, bao gồm ba phần:
* Phần I: Khảo luận phong tục.
Dự kiến: 111 tác phẩm .
Hoàn thành: 74 tác phẩm.
Phần 1: Khảo luận phong tục
1. Những cảnh đời
- 1830: Goopxêch Nhà con mèo chơi bóng
- 1831: Người đàn tuổi 30
- 1832: Đại sabe
- 1834: Lão Gônô 1
- 1835: Lão Gônô 2
- 1836: Lễ cầu hồn của kẻ thần
- 1839: Bêatrix
- 1841: Nàng nhân tình h
- 1842: sự của đôi vợ chồng tr
- 1843: Ơnổin
- 1844: Môdexiơ Minhông
2. Những cảnh đời tỉnh lẻ
Bông huệ trong thung, Ursule Mirouet; Eugenige Grandet, Những người độc thân,
Pierrette, Cha xứ Tour, gái xua cá, Người Paris tỉnh lẻ, Gaudissart trứ danh,
Những người nhăn nheo, Nàng thơ của quận, Một nữ diễn viên trên đường du hành,
Người phụ nữ ưu việt, Những sự đối địch, Kẻ độc đáo, Những người thừa kế họ
Boirouge, gái già, Người tỉnh lẻ Paris, Phòng cổ vật, ảo mộng tiêu tân 1 gái
giả,căn phòng chứa đồ cổ 2,ảo mộng tiêu tan 2, gái khua cá, ảo mộng tiêu tan 3
3. Những cảnh đời Pari
Truyện mười ba người, Ferragus (đoạn thứ nhất), Nữ công tước De Langeais (đoạn
thứ hai), gái mắt vàng (đoạn thứ ba), Những viên chức, Sarrasine, Câu chuyện hưng
vong của César Birotteau, Nhà ngân hàng Nucingen, Facino Cane, mật của nữ vương
tước De Cadignan, Bước thăng trầm của kỹ nữ, Hóa thân cuối cùng của Vautrin(1), Các
bậc quyền quý, bệnh viện dân chúng, Một ông hoàng của giới lưu đãng, Những diễn
viên không tự biết, Mẫu trò chuyện Pháp, Cảnh tòa án, Những người tiểu sản, Giữa các
nhà thông thái, Hiện trạng kịch trường, Mặt trái của lịch sử hiện đại.
4. Những cảnh đời chính tr
Một mẩu chuyện dưới thời Khủng bố, Lịch sử tiểu thuyết, Một vụ mờ ám, Hai kẻ
tham vọng, Tùy viên sứ quán, Tạo ra một Nội các như thế nào, Nghị viên miền Arcis,
Marcas.
5. Những cảnh đời n binh
Những người lính của nền Cộng hòa, Bước vào chiến dịch, Người x Vandée,
Những người Chouan, Người Pháp Ai Cập, Nhà tiên tri (đoạn một), Quan tổng đốc
(đoạn hai), Một mối đam nơi sa mạc (đoạn ba), Đạo quân lưu động, Tổng tài vệ binh,
Thời Vienne: Một trận đánh (Phần một), Đạo quân bị bao vây (Phần hai), Đồng bằng
Wagram (Phần ba), Chủ quán, Người Anh Tây Ban Nha, Mạc Khoa, Giao chiến
Dresde, Những người rớt lại phía sau, Những người ủng hộ, Một chuyến tuần tra, Cầu
nổi, Chiến dịch Pháp, Chiến trường cuối cùng, trưởng, Pénissière, Tên cướp biển
người Algérie.
6. Những cảnh đời nông thôn
Người thầy thuốc nông thôn, người cha xứ nông thôn 1, người cha sứ nông thôn 2,
người nông dân 1, người nông dân 2
Phần 2: Khảo luận triết học
Phédon thời nay, Miếng da lừa, Jésus-Christ Flandre, Melmoth quy thiện,
Massimila Doni, Kiệt tác không người biết, Gambara, Đi tìm tuyệt đối, Chủ tịch Fritot,
Nhà bác ái, Đứa con b nguyền rủa, Vĩnh biệt, Họ Marana, Người trưng binh, El
Verdugo, Thảm kịch bên bờ biển, Tiên sinh Cornélius, Quán đỏ, Người tuẫn nạn thuộc
giáo phái Calvin, Lời bộc bạch của anh em Ruggieri(3), . Hai giấc mộng(4), Chàng
Abeilard mới, Thuốc trường sinh, Cuộc đời sự phiêu lưu của một tưởng, Những kẻ
bị lưu đày, Louis Lambert, Séraphita.
Phần 3: Khảo luận phân tích
Giải phẫu học giáo giới, Sinh học hôn nhân, Bệnh học đời sống hội, Chuyên
luận về đức hạnh, Đàm thoại triết học chính trị về những điều hoàn thiện của thế kỷ
XIX.
Năm xuất
bản
Phần I
Khảo luận phong tc
Phần
II Khảo
luận triết
học
Ph
n
III Khả
o luận
phân
tích
Những
cảnh
đời
Những
cảnh đời
tỉnh lẻ
Những
cảnh đời
Paris
Những
cảnh đời
chính tr
Những
cảnh
đời
ng
thôn
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(7)
(8)
(9)
1829
Sinh
n
nhân
1830
Gobse
ck
Nhà
con
mèo
chơi
Một giai
đoạn
của thời
khủng
b
Thuốc
trường
sinh
ng
1831
Người
đàn
tuổi
ba
mươi
Xaraxin
Miếng da
lừa
Kiệt tác
chưa ai
biết đến
Quán đỏ
1832
Đại
Sabe
Cha xứ
Tour
Gia đình
Marana
1833
Eugénie
Grandet
Người
thầy
thuốc
ng
thôn
Lui Lambe
(1)
(
2)
(3)
(4)
(5)
(7)
(8)
(9)
1834
o
Goriot
I
Nữ công
tước Đơ
Langgie
Đi m cái
tuyệt đối
1835
o
Goriot
II
Bông huệ
nơi thung
ng
Con
gái mắt
ng
Menmôt
quy thiện
1836
Lễ cầu
hồn
của k
vô
thần
n
phòng
chứa đồ
cổ I
Fanxinô
Can
Đứa con bị
nguyền rủa
1837
Vỡ mộng
I
ra
Birôtô
Những
viên chức
1838
n
phòng
chứa đổ
cổ II
Nhà ngân
ng
Nucingen
Người
cha xứ
ng
thôn I
1839
Bêatri
x
n
phòng
Vinh
nhục của
Người
cha xứ
Maxi
chứa đổ
cổ III
Vỡ mộng
II
người
nữ I
ng
thôn II
milia Đôni
1841
ng
nhân
nh
h
Uếcxuyn
Miruôt
Macca
Về
Catơrin đơ
Mêđixix
1842
s
của
đôi vợ
chồng
tr
gái
khua
Mặt trái
của lịch
sử hiện
đại I
(1)
(
2)
(3)
(4)
(5)
(7)
(8)
(9)
1843
Onôri
n
Vỡ mộng
III
1844
Môđex
tơ
Minhô
ng
Những
người
ng
dân I
1845
Một tay
buôn bán
Những
nỗi
phiền
của
cuộc
sống vợ
chồng
1846
Chị Bette
1847
Ông anh
họ ng
Vinh
nhục của
người
nữ II
Đại
biểu
Acxi
Sau khi
mất
Vinh
nhục của
người
Những
người
ng
nữ III
Mặt trái
của lịch
sử hiện
đại II
Những
người
tiểu
sản
dân II
Bảng thống danh mục các tác phẩm tiêu biểu của “Tấn trò đời” dựa vào
“Giáo trình Văn học phương Tây”
Trong bài viết của mình về “Hô-nô-rô Đơ Banzac in trong cuốn Văn học lãng
mạn văn học hiện thực phương Tây thế kỷ XIX” tác giả Hồng Sâm cho rằng “Tấn
trò đời một tổng thể toàn vẹn duy nhất”, các tác phẩm “hợp thành công trình một
đơn vị hoàn chỉnh, độc lập”, “thống nhất bởi một chủ đề bản, trong đó hai chủ đề
nổi bật đồng tiền tham vọng nhân, hai động lực của hội con người sản”.
Thật vậy, đồng tiền huyết mạch của Tấn trò đời”. cụ thể huyết mạch của con
người, những con người đang vật lộn cùng cuộc sống
“Tấn trò đời” quả kho biên niên sử nước Pháp cùng quý báu. Nếu như ai đó
chưa từng đặt chân đến Pháp hay chưa từng hiểu về hội Pháp thế k XIX thì hãy tìm
đến bộ tiểu thuyết này. Đó một sản phẩm tinh vi của con người tài hoa, trí tuệ. Balzac
không chỉ viết nên một cuốn sách c thế giới. Chính n văn “cung cấp một bộ lịch
sử hiện thực tuyệt vời của hội Pháp, đặc biệt hội thượng lưu Paris”
3.2 Ý nghĩa nội dung:
"Tấn trò đời" của Balzac mang ý nghĩa nội dung sâu sắc phản ánh nhiều khía
cạnh của hội con người. Điển hình là:
S mất mát sự thật: "Tấn trò đời": tức sự mất mát các ảo tưởng hi
vọng. Tác phẩm phản ánh sự thật khắc nghiệt của cuộc sống những ảo tưởng bị p
hủy dưới ánh sáng của hội.
Nạn mất nhân tính: Một trong những ý tưởng chính của tác phẩm nhân vật
chính Lucien de Rubempré mất đi ý chí cái nhân tính của mình dưới áp lực của quyền
lực, thành công và tiền bạc. Sự thành công luôn đến với sự đổ máu của nhân cách
niềm tin, gợi lên câu hỏi về giá trị thật sự của thành công vật chất.
Xung đột giai cấp quyền lực: "Tấn trò đời" ảnh hưởng từ thời kỳ cổ điển
Pháp phản ánh xung đột giai cấp quyền lực trong hội. Tác phẩm cho thấy hệ
thống hội không công bằng thể hiện các s trái ngược giữa những người giàu
những người nghèo hơn.
Quyền lực tình yêu: Tác phẩm thể hiện một cuộc sống hội đầy tham
vọng lòng tham, trong đó quyền lực tiền bạc tạo nên sự thay đổi không khỏe mạnh.
cũng tương tác với ý tưởng v tình yêu sự phản bội trong mối quan hệ con người.
S đấu tranh nhân tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống: "Tấn trò đời" khám phá
sự đấu tranh nhân của chính nhân vật chính trong việc tìm kiếm ý nghĩa định vị của
mình trong xã hội. Tác phẩm đưa ra câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, giá trị đích thực
quyền tự do.
=> "Tấn trò đời" của Balzac vốn một tác phẩm phức tạp mang nhiều ý nghĩa
khác nhau. Nó thể hiện hiện thực của cuộc sống nhấn mạnh về s mất mát c hoài
bão ảo tưởng. Tác phẩm cũng tìm cách phản ánh hội con người trong một thời
đại khắc nghiệt nhưng vẫn hi vọng tìm kiếm ý nghĩa niềm tin.
3.3 Ý nghĩa nghệ thuật:
"Tấn trò đời" một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Honoré de Balzac. Tác phẩm
này được coi một kiệt tác văn học của Balzac, những nét đặc trưng về nghệ thuật
như sau:
S chi tiết chân thực: Balzac được biết đến là một trong những tác giả sắc
sảo, tách biệt nhất trong việc miêu tả đời sống thường ngày môi trường hội. "Tấn
trò đời" không chỉ tường minh chi tiết miêu tả cuộc sống Paris thời đại đầu XIX,
còn tập trung vào những tương tác phức tạp giữa các nhân vật, thể hiện ràng sâu sắc
tính cách hành động của họ.
Đa dạng nhân vật phức tạp: Tác phẩm này chứa đựng một loạt nhân vật cùng
với sự phát triển tương đối khéo léo. Balzac không chỉ tạo ra những nhân vật chính
ràng đa chiều, còn xây dựng một hệ thống nhân vật phụ đa dạng phức tạp, đồng
thời tạo nên những mối quan hệ, xung đột, tương tác giữa các nhân vật này.
S phân tích sâu sắc về hội con người: "Tấn trò đời" không chỉ câu
chuyện riêng của các nhân vật, còn một tác phẩm phản ánh sự thay đổi hội, xung
đột giai cấp những khó khăn con người phải đối mặt trong việc theo đuổi thành
công. Balzac phân tích hội nhân cách một cách tinh tế, thậm chí những yếu tố
tiên đoán triết về cuộc sống nhân loại.
S kết hợp giữa truyền thống sáng tạo: Balzac đã lấy ý tưởng t những thể
loại truyền thống như tiểu thuyết hài kịch, tiểu thuyết đồ sộ tiểu thuyết nhân, nhưng
đồng thời cũng thể hiện s đột phá sáng tạo với cách tiếp cận của mình. Ông đã xây
dựng một thế giới phức tạp, vừa thực tế vừa tưởng tượng, tạo nên một tác phẩm đặc biệt,
góp phần làm nên tên tuổi của Balzac trong văn học thế giới.
=> Tóm lại, "Tấn trò đời" của Balzac nghệ thuật sắc sảo phân tích sâu sắc về
hội con người, kết hợp giữa truyền thống sáng tạo, và mang đậm tính chân thực
chi tiết. Tác phẩm này đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong văn học thế giới một dụ
mẫu về nghệ thuật của Balzac.
4. Tiểu thuyết Eugenie Grandet- cuộc chia tay lưu luyến với chủ nghĩa ng
mạn
Tiểu thuyết “Eugénie Grandet”- ra đời năm 1833. Tiểu thuyết hiện thực được xem
kiệt tác giai đoạn đầu khi nhà văn thật sự “trở thành Balzac”. thiên tiểu thuyết này
được nhà phê bình Langson nhận xét “một chân dung vẽ hỏng của chủ nghĩa lãng
mạn”.
Nghiên cứu số trang
viết (thời gian kể chuyện)
sự không phù hợp với nh
cách, lúc này thời gian kể
chuyện đã trở thành “thời
gian nghệ thuật”, người đọc
tìm hiểu quá trình xây dựng
nhân vật Eugenie nhận thấy
tác giả đã tỏ ra bối rối. Những trang viết về đời sống lãng mạn của Eugenie (116 trang +
58 trang) dài hơn những trang nói về cuộc sống chấp nhận hiện thực (72 +3 trang)…
Điều đó thêm một bằng chứng cho thấy nhà văn rất “lưu luyến” chủ nghĩa lãng mạn
nhưng cuối cùng đành phải viết theo tinh thần tôn trọng hiện thực. trong tiểu thuyết
chủ yếu tập trung vào Eugénie, gái ấp một tình yêu lãng mạn. Qua đó ta thấy Balzac
đã sự kế thừa tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn của các nhà văn trước tiêu biểu là Hugo.
Nhân vật chính của tiểu thuyết này khác xa với nhân vật chính của nhiều tác phẩm
khác trong bộ “Tấn t đời” (La Commedie humaine): duy nhất nàng Eugenie Grandet
nhân vật chính diện (các nhân vật chính khác của Balzac đều nhân vật phản diện). Bên
cạnh cha, mới nhìn, Eugenie quả một hình ảnh tương phản. Nhiều nhà phê bình đã căn
cứ vào việc một nhân vật chính diện, một gái ấp một tình yêu lãng mạn để coi
đây dấu vết của chủ nghĩa lãng mạn.
Tiểu thuyết đã xây dựng một điển hình tiểu biểu của giai cấp tư sản–lão Grandet, tác
giả cũng nhằm mục đích vẽ nên chân dung một con người tiêu biểu cho những ham muốn
những thói xấu xa của hội sản. Tác phẩm phơi bày sức mạnh nghiệt ngã của
đồng tiền đã hủy hoại tâm hồn con người, đã giết chết những tình cảm thân thiết nhất
biến con người thành một kẻ tâm.
Cùng lắng nghe bản tóm tắt để hiểu thêm chi tiết nội dung câu chuyện:
4.1 Tóm tắt Tác phẩm Eugenie Grandet
Lão Grande (Grăng-đê) nguyên thợ đóng thùng đựng rượu một thị trấn nhỏ
của nước Pháp, ông đã lợi dụng cách mạng 1789 để làm giàu. Với vốn có được kha
khá, lão dần dần biết cách làm cho đồng tiền của lão ngày càng sinh sôi nảy nở. Lão mua
“giá rẻ như cho” những cánh đồng nho những tài sản bán đấu giá, buôn vàng, đầu
tích trữ rượu vang trở thành một tay sản giàu nhất thị trấn Saumur. Tuy lắm tiền
nhiều của nhưng lão rất keo kiệt, bủn xỉn độc đoán.
Grande (Grăng-đê) vợ lão một người phụ nữ hiền lành, ngoan đạo, hết lòng
nghe lời chồng
Eugenie (Ơ-giê-ni) - con gái độc nhất của lão, một thiếu nữ đức hạnh và xinh đẹp.
Họ phải chịu đựng những thiếu thốn đủ từ thói ti tiện, xấu xa của lão Grande.
Mụ Nanong người giúp việc tâm đắt bị lão bóc lột, chèn ép tàn nhẫn. nơi để
thực hành chính sách tiết kiệm đến keo kiệt của lão Grandet.
Bản thân lão Grande nắm giữ hết tay hòm chìa khóa, hằng ngày lão phân phát từng
mẫu bánh, từng miếng đường, miếng mỡ cho vợ con.
thị trấn Xomuya hai họ lớn nhất là Gruyso và Đe Graxanh, hai gia đình
tiếng thế lực thường lui tới nhà lão hòng giành nhau thừa kế triệu phú Eugenie. họ
Cruyso t nắm những trọng trách trong tỉnh như cha sứ, quản văn khố, chánh án, còn
lão Đe Graxanh thì làm chủ ngân hàng. Nhưng lão Grande chưa bao giờ lo tính chuyện
hạnh phúc của con gái. Lão chỉ lo nghĩ đến những phúc lợi về nh
Em trai lão Grande Paris bị phá sản, trước khi tự tử ông gửi con Charles (Sác-lơ)
về Saumur nhờ cưu mang giúp đỡ. Nhưng Grande đã âm mưu tống khứ cháu trai đi sang
Ấn Độ để làm ăn để trốn tránh trách nhiệm nuôi cháu. Chính sự xuất hiện của một chàng
thanh niên trẻ trung, đẹp trai, hào hoa hơn hết Charles đã mang theo trong mình tất
cả hương vị phóng khoáng thanh lịch của Paris đã gây cho Eugenie một xúc động sâu
xa, một sự thức tỉnh về nhu cầu đối với cái đẹp, cái tưởng tình yêu...
Trong mấy ngày ngắn ngủi sống Saumur, Charles đã làm bừng sáng lên cuộc sống
của Eugenie, đã rung động, sự rung động làm cho thay đổi cách nhìn, cách nghĩ.
chính nhờ cuộc sống giản dị, nhờ tình cảm tuần khiết của cô chị họ đã làm Charles từ một
người chốn Paris phồn hoa, phóng khoáng phải thay đổi cách nhìn. đã phải lòng yêu
thương sau khi đọc được 2 bức t của Charles, Eugenie đã giấu cha tặng người yêu
số tiền vàng dành dụm được từ nhỏ để chàng thêm vốn kinh doanh nơi đất khách quê
người. Charles đã trao cho chiếc hộp gỗ - di vật của mẹ cậu để lại. Một mùa xuân yêu
thương bắt đầu với Eugenie. Từ hôm trong cảnh đêm vắng lặng, nàng trao cái túi vàng
cho Charles thì nàng cũng trao luôn quả tim nàng. Cùng giữ chung một mật, Charles
Eugenie thường đưa mắt nhìn nhau hội ý, sự đồng tình đồng lõa ấy làm cho mối cảm
tình đối với nhau càng nặng, càng sâu. Dần dần họ ng tâm đầu ý hợp, càng đưa nhau

Preview text:

Honore de Balzac
“Nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”. (Balzac) 1.
Hoàn cảnh hình thành và phát triển của văn học
hiện thực phê phán pháp vào cuối thể kỉ XIX
1.1 Tiền đề lịch sử xã hội cho sự ra đời của văn học hiện thực phê phán Pháp
Sự hình thành và thống trị của chủ nghĩa tư bản trên các nước Tây Âu phát triển
như Anh, Pháp. Hậu quả là sự thay đổi sâu sắc bộ mặt xã hội do phân hóa đẳng cấp, do sự
xuất hiện của các tầng lớp thống trị và bị trị mới(tư bản và vô sản). Sự thay đổi về kinh tế
xã hội kéo theo sự thay đổi về văn hóa tinh thần, sự khủng hoảng về tư tưởng xã hội, đạo đức.
Sự ra đời của nhiều học thuyết chống tư bản trong thời kỳ đầu như chủ nghĩa xã hội
không tưởng của Owen, Saint Simon và Fourrier, chủ nghĩa cơ đốc xã hội của Lamenais.
Sự xuất hiện của phép biện chứng của Hégel. Sau đó là biện chứng duy vật làm nền
cho chủ nghĩa cộng sản của Marx. Tuyên ngôn cộng sản ra đời năm 1848.
=> Tất cả những tiền đề trên tác động sâu sắc đến sự hình thành của cảm hứng phê
phán xã hội và con người trong cơ chế tư sản, tác hại của lợi nhuận, của đồng tiền trên
mối quan hệ giữa người và người trong cuộc sống, làm tha hóa con người do dục vọng và đồng tiền.
1.2 Tiền đề văn hóa tinh thần
Với sự lùi dần của mỹ học lãng mạn trong hoàn cảnh xã hội mới vì khhông đáp ứng
được những đổi thay của thời đại mới, tâm tư mới, xu hướng "tôn trọng thực tế" xuất hiện
thay cho sưü tưởng tượng, mơ mộng và tính chủ quan cực đoan trong sáng tạo văn chương
lãng mạn. "Sự phản ứng hiện thực” phủ định tư duy siêu hình, đòi hỏi nhà văn phải có khả
năng quan sát, tiếp nhận và phán xét thế giới bên ngoài .
Các quan niệm mới xuất hiện như "nghệ thuật là tấm gương trrên đường, phản ánh
khi thì trời xanh, khi thì bùn lầy"(Stendhal); "lý tưởng của một nhà văn vô ngã là khả năng
biến hóa đa dạng : vừa là nạn nhân vừa là đao phủ, quan tòa và bị cáo, lần lượt diễn các
vai của mục sư và người lính, cái cày của nông phu, sự ngây thơ của quấn chúng và sự
ngu xuẩn tiểu tư sản"(Balzac). Nhà văn muốn nhấn mạnh đến khả năng biến hóa và hội
nhập vào các tầng lớp xã hội để thể hiện cho đúng bản chất của nhiều loại con người, chứ
không đặt nặng việc thể hiện cái tôi cá nhân. Hiện thực khách quan ở nhiều mặt như lịch
sử, xã hội, tâm tình của các tầng lớp xã hội phải là cảm hứng chính cho sáng tạo văn chương. 1.3 Giai đoạn ra đời:
Văn học hiện thực Pháp xuất hiện sau năm 1820 dưới thời Trung hưng, phát triển
mạnh mẽ cho đến những năm 60, có thể chia ra hai giai đoạn: trước và sau năm 1848.
1.4 Ðặc điểm về nội dung và nghệ thuật của văn học hiện thực phê phán Về
nội dung : phê phán xã hội tư bản và các tiêu cực của nó đã làm tha hóa con
người trong mối quan hệ trục giả dối, tố cáo sự nô lệ của con người trước danh vọng, vật
chất tiền tài, biến con người thành lạnh lùng tàn nhẫn dưới sự chỉ huy của đồng tiền.
Chủ nghĩa hiện thực là một trong những phương pháp sáng tác được đánh giá cao
trong sáng tác văn chương. Không mang màu sắc lãng mạn, huyền ảo với những gam màu
tình yêu cháy bỏng như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực đi sâu vào khai thác hiện
thực cuộc sống với bao ngổn ngang hỗn tạp. Nếu chủ nghĩa lãng mạn giương cao ngọn cờ
giành lấy tự do yêu đương thì chủ nghĩa hiện thực lúc nào cũng đấu tranh cho quyền sống
con người. Quyền sống đó không chỉ đơn giản là quyền được yêu, được sống mà hơn hết
là quyền được “LÀM NGƯỜI”, một con người thực sự đúng nghĩa của nó. Đó cũng là
những suy tư trăn trở của các nhà văn, nhà thơ.
Nội dung đó đã gây ấn tượng về văn học hiện thực phê phán như là một trào lưu sở
trường về việc mô tả cái xấu, cái ác. Trong văn học hiện thực phê phán, nhân vật chính
thường không phải là nhân vật chính diện. Các nhân vật anh hùng, nhân vật tích cực bị mờ
nhạt. Nhà văn hiện thực phê phán thường không thành công với loại nhân vật này. Các
nhân vật nổi tiếng của họ thường là nhân vật phản diện, nhân vật tha hóa. Do đó sự thể
hiện các quan điểm tiến bộ, nhân đạo của nhà văn hiện thực phê phán thường là gián tiếp chứ không trực tiếp.
Về nghệ thuật : Trong tác phẩm hiện thực phê phán, các yếu tố đề tài, chủ đề, nhân
vật, bút pháp cũng rất phong phú . Chủ nghĩa hiện thực phê phán Tây Âu đã để lại nhiêù
tác phẩm nổi tiếng, nhiều đóng góp có ý nghĩa vào việc hoàn chỉnh thể loại tiểu thuyết hiện đại.
1.5 Các tên tuổi tiêu biểu:
Có thể nói đỉnh cao của chiếc nôi hiện thực ấy là ở Tây Âu với hàng loạt tên tuổi
như Stendhal, Honore de Balzac, Charles Dickens, WilliamThackeray…
2. Tiểu sử của H. de Balzac:
Honoré de Balzac (1799 – 1850) là nhà tiểu thuyết lớn thế kỉ XIX là “một bậc thầy
của chủ nghĩa hiện thực”, là nhà văn hiện thực phê phán lớn nhất của nước Pháp và cả
văn học thế giới. Thật khó hình dung diện mạo văn học thế giới nếu như thiếu đi khuôn
mặt của “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” này.
Balzac sinh ở tỉnh Tour, thuộc miền Touraine nổi tiếng giàu đẹp, ở giữa nước Pháp.
Ông là con trai của Bernard-François Balssa Anne-Charlotte-Laure Sal ambier.
Cha ông là một nông dân phất lên nhờ cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 khi mua bán đất
đai quý tộc bị tịch thu trong cuộc cách mạng, và sau đó trở thành trợ lý cho thị trưởng
(thành phố Tours). Từ nhỏ, Balzac thừa hưởng được rất nhiều đức tốt đẹp từ bố. Đó là
niềm say mê lao động kết hợp với một sức khỏe và khả năng chịu đựng phi thường. Đó là
sự hăng say, cần cù và niềm lạc quan mãnh liệt. Mẹ ông xuất thân trong gia đình tư sản
buôn bán, bà là một phụ nữ có học thức, kém hơn chồng tới 32 tuổi. Ông Bernard đôi khi
nửa đùa nửa thật rằng mình là hậu duệ của dòng dõi quý tộc Balzac, đó là lí do về sau
ông đã đổi họ thành Balzac để nghe cao quý hơn.
Được bao bọc bởi một gia đình thương gia, tuổi thơ và thời niên thiếu của ông thật
khó khăn. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã được gửi cho vú nuôi, khi trở về nhà, Balzac cảm
thấy cha mẹ đối xử với mình rất lạnh lùng, điều này đã ảnh hưởng khá tiêu cực đến ông.
Hơn nữa, từ lúc bắt đầu đi học tới năm 11 tuổi, Balzac đã phải đổi trường khá nhiều lần,
có lẽ vì thiếu vắng tình yêu thương của cha mẹ nên ngay từ nhỏ, Balzac đã nổi tiếng là 1
đứa trẻ có tính tình u uẩn. Trong hoàn cảnh sống như thế, ông đã sớm tìm tới sách vở,
Balzac thường ngồi lì trong thư viện của trường, mày mò tự đọc tự viết khiến đám bạn
cùng lứa chế giễu và mỉa mai, đặt cho ông biệt danh “thi sĩ”.
Những ngày tháng u ám nhất trong tuổi thơ của Balzac là 7 năm sống trong
trường Vendome (1807-1813), một học giá khá kín nằm dưới quyền điều hành của các tu
sĩ. Ông đã phải tuân theo kỉ luật khắc nghiệt của các tu sĩ, khi phạm bất cứ lỗi lầm nào dù
nhỏ đến mấy cũng bị phạt nặng bằng roi vọt hay bị giam trong phòng kín. Ông đã từng
phải chịu một hình phạt như “quần gỗ”. Họ đặt miếng đệm lên người, khiến bị suy nhược thần kinh.
Khi Balzac 15 tuổi, người cha được chuyển về Paris làm việc và ông tiếp tục học
nội trú, đó là năm 1814 khi đế chế của Napoleon vừa sụp đổ. Cuộc sống ở những trường
nội trú đã tạo cho Balzac một cá tính độc lập. Dù trong bất kì hoàn cảnh khó khăn nào,
Balzac vẫn không hề lay động, không hề bị khuất phục. Đây là chìa khóa thành công đưa
Balzac đứng vững trên con đường nghệ thuật của mình sau này
Tuy nhiên, cha mẹ của ông muốn thay đổi cuộc sống của mình, chuyển đến một
khu vực khác của Pháp và buộc ông phải theo học luật. Vì vậy năm 1816, sau khi học hết
bậc Trung học ông vào học ở trường Luật theo như ý muốn của gia đình. Trong quá trình
học luật ông giấu gia đình vừa thực hành tập sự trong văn phòng của các viên công
chứng, vừa đi dự giảng những tiết Văn, Triết, Sử ở trường Sorbonne.
Sau 1819, tốt nghiệp trường Luật, Balzac bỏ nghề luật vốn được quan niệm là béo
bở, hái ra tiền để đi vào con đường văn chương trong sự phản đối quyết liệt của gia đình.
Tuy nhiên, gia đình vẫn không hề thuyết phục được Balzac nên đã chấp thuận bằng cách
nhượng bộ với điều kiện sau hai năm nếu không thể thực hiện được khả năng sáng tạo
nghệ thuật, ông sẽ phải trở về với ngành Luật. Nhưng rất may là những ngày tập sự tại
văn phòng tố tụng, ông được chứng kiến nhiều bi kịch gia đình cùng với những hành
động phạm tội mà không hề bị trừng phạt… đã tạo cho nhà văn một kho tư liệu sáng tác
quý báu. Trong thời gian học luật, ông đã bắt đầu hiểu được những thay đổi trong bản chất của con người.
Trong cuốn tiểu thuyết năm 1840, Balzac kể lại: “Ai ai cũng quay cuồng trước
những gia tài để lại, sự phẫn nộ ghê tởm của những người thừa kế trước những xác chết
chưa nguội, trái tim con người đang vật lộn với bộ luật hình sự”. Có lẽ đây chính là
nguyên nhân khiến Balzac không muốn theo nghề luật. Việc này đã gây ra mối bất hòa
nghiêm trọng trong gia đình.
Khi cha ông đã về hưu, cả gia đình chuyển tới một thành phố nhỏ gần thủ đô.
Cuối cùng để thực hiện hoài bão, ước mơ của mình, Balzac quyết định rời gia đình, một
mình ở lại Paris tá túc ở một căn phòng áp mái nhỏ. Ở đó, Balzac “vùi đầu vào thế giới
của sách vở và tư tưởng, thế giới của lao động và yên lặng, – giữa Paris ồn ào náo nhiệt,
giống như một con nhộng tự xây mồ để rồi sẽ tái sinh vinh quang và rực rỡ”. Chính nơi
đây Balzac càng có điều kiện tiếp xúc với những người lao động, những người nghèo khổ
tận cùng của đáy xã hội Paris. Đây là nguồn tư liệu quý giá cho sự nghiệp sáng tác của ông.
Trong một bức thư gửi cho em gái, Honoré de Balzac viết rằng “Anh đã nhìn thấy
rõ định mệnh của anh. Định mệnh chỉ có thể đạt được sau khi vượt qua những trở ngại
khó khăn nhất bằng sự mạnh mẽ của chính mình. Anh sẽ tạo nên kỷ nguyên của anh”.
Những năm tháng đó, Honoré de Balzac thường đến các hàng quán cà phê – nơi
diễn ra những buổi hội đàm văn học, đắm mình trong hơi thở thời đại, quan sát diễn biến
xã hội đương thời thông qua những cuộc bình luận bên trong quán cà phê. Chiêm nghiệm,
suy tư và sáng tạo nên những câu chuyện bất tận. Balzac giữ cho sức sáng tạo liên tục
không ngừng và sự tỉnh táo thăng hoa bằng những ly cà phê được pha chế theo phong
cách Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc sống của ông dường như chỉ bao quanh ngôn ngữ văn học, sách
và cà phê. Balzac uống tới 50 tách cà phê mỗi ngày. Trong tiểu luận “The Pleasures and
Pains of Coffee”, đại văn hào người Pháp viết rằng ông không thể sống nổi nếu thiếu
cà phê. Balzac khẳng định, cà phê là nguồn năng lượng sáng tạo đầy huyền thoại, thưởng
thức cà phê là một điều cần thiết tuyệt đối để trí tưởng tượng tạo ra những điều kỳ diệu:
“Khi tôi uống cà phê, các ý tưởng xuất hiện như đi diễu hành trong quân đội”.
Giai đoạn đầu con đường sáng tác văn chương Balzac còn gặp nhiều khó khăn,
các sáng tác của ông hầu như không được đánh giá cao. Dù thất bại nhưng Balzac không hề thất vọng.
Năm 1825-1828 ông làm công việc xuất bản sách, mở nhà in, đúc chữ in vv…
nhằm cải thiện đời sống thì nợ nần chồng chất và sắp phá sản, suốt đời mới trả hết nợ.
Sau đó, ông từ bỏ hẳn kinh doanh chuyển sang con đường nghệ thuật mà bấy lâu mơ ước.
Dường như Balzac sinh ra không phải là một doanh nhân thành đạt mà ông có duyên
nhiều hơn với lĩnh vực văn chương. Với sự nỗ lực vươn lên của chính bản thân Balzac đã
gặt hái được nhiều thành công đáng nể.
Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết
chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến giai đoạn này. Ông chỉ thật
sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn
sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường
chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép.
Năm 1832 rất quan trọng đối với Balzac. Ông ấy đã nổi tiếng rồi. Những cuốn tiểu
thuyết được tạo ra đã mang lại sự nổi tiếng cho ông. Các nhà xuất bản hào phóng và trả
tiền ứng trước cho các tác phẩm chưa hoàn thành
Năm 1846, bệnh tái phát và vào năm 1849, tình trạng của ông ngày càng trở nên yếu
đi, bạn bè đã đến thăm ông, bao gồm cả Victor Hugo, người đã để lại những ghi chép rất bi thảm
Nhà văn đã chết trong đau đớn trong vòng tay của mẹ mình vào năm ông chỉ mới 51
tuổi. Cái chết của Balzac xảy ra vào đêm 18-19 tháng 8 năm 1850. Đám tang ông được tổ
chức trong một ngày mưa và lơ thơ người đưa tiễn. Tường thuật tang lễ của Balzac, một
nhà văn - trên tạp chí Thời trang số ra ngày 24/8/1850 - đã viết: "Cái chết của ông thực
sự là một thảm họa trí tuệ".
Sự nghiệp vĩ đại mà ông để lại đã nói lên rằng ông đã sử dụng những năm tháng
cuộc đời ngắn ngủi của mình đến mức tối đa với hiệu suất phi thường
Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ,
và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời
2.1Sự nghiệp văn chương:
Sự nghiệp văn chương của Honore de Balzac được tập trung ở bộ Tấn trò đời còn
gọi là Hài kịch nhân loại gồm gần 100 tiểu thuyết, truyện vừa và truyện ngắn chính của
nhà văn được tập hơp lại. Có thể khẳng đinh rằng sự nghiệp văn chương của ông gắn chặt
với bộ tác phẩm này. Ngoài Tấn trò đời ra, Balzac còn thừa nhận một số các sáng tác
khác. Cuối Lời nói đầu cho Tấn trò đời viết tháng 7 năm 1842, Balzac khẳng định:
“Ngoài Tấn trò đời, tôi chỉ có trăm tuyện cười, hai vở kịch và những bài riêng lẻ cũng có
ký tên tôi. Tôi sử dụng ở đây một quyền không thể chối cãi”.
2.1.1 Giai đoạn thứ nhất (1821 -1829)
Mặc dù nhà văn chỉ thừa nhận những tác phẩm được viết từ sau khi tác phẩm Những
người Choaun ra đời (3/1829). Sự thực lịch sử từ trước đến nay, Balzac đã viết khá nhiều
từ ngày ông tấp tểnh nuôi mộng văn chương sau tốt nghiệp trường luật cho đến ngày trở
lại nghề giấy bút sau khi kinh doanh thất bại thảm hại. Ngoài vở kịch đầu tay Cromwell
được viết vào cuối năm 1819 - một vở kịch năm hồi bằng thơ và vở kịch đã thất bại.
Ở những năm đầu của giai đoạn này, Balzac thiên về những loại tiểu thuyết phiêu
lưu và lịch sử. So với những tác phẩm ở giai đoạn sau thì những quyển tiểu thuyết này rất
yếu. Sau này, chính tác giả cũng đã phủ nhận nó, không đưa nó vào bộ “Tấn trò đời” và
gọi là “văn chương con lợn”. Tuy nhiên, qua những tiểu thuyết đầu tay ấy, chúng ta thấy
tác giả chống lại mưu đồ hòng khôi phục lại trật tự trước Cách mạng của giai cấp quý tộc
dưới thời Trung hưng. Trong các tiểu thuyết ở thời kì đầu, Balzac còn nói đến tính tích
cực của giai cấp tư sản, vì nhà văn chưa tách giai cấp tư sản ra khỏi “đẳng cấp thứ ba”,
vẫn xem họ là thành phần của mặt trận thống nhất chống phong kiến.
Về phương pháp sáng tác thì những năm này Balzac còn bị chủ nghĩa lãng mạn ràng
buộc. “Những người Chouans” (1829) là tác phẩm đầu tiên làm cho tác giả nổi tiếng và
đánh dấu chuyển biến từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ hai. Mặc dù là người ủng
hộ phe bảo hoàng nhưng Balzac đã viết về những người cách mạng bằng ngòi bút của sự
cảm thông, đây là cuốn sách đầu tiên Balzac phát hành dưới tên của chính ông, và nó đã
mang lại cái mà một nhà phê bình gọi là “lối đi vào Miền đất hứa”. Nếu như lúc đầu
Balzac còn dành tình cảm ưu ái cho giai cấp tư sản thì đến đây ông hoàn toàn mất lòng
tin ở nó. Ông bắt đầu phê phán giai cấp đó không chút thiên vị. Lúc này khuynh hướng
hiện thực chủ nghĩa cũng chiếm ưu thế hơn so với lúc trước.
Đây được xem là thời kì tìm đường của ông, Balzac đã phải lận đận, lần mò hàng
10 năm trời, vượt qua bao nhiêu khó khăn trở ngại.
2.1.2 Giai đoạn thứ hai (1830 – 1835)
Tác phẩm “Những người Chouans” đã làm tròn trách nhiệm mở đường của mình,
hàng loạt tác phẩm ưu tú của Balzac ồ ạt xuất hiện và chiếm chỗ đứng khá vững. Và từ
đầu năm 30, ông trở thành nhà văn có tiếng tăm nhất nước Pháp. Nếu như những tác
phẩm ở giai đoạn trước chủ yếu là chống giai cấp quý tộc phong kiến thì những tác phẩm
giai đoạn này chủ yếu chống giai cấp tư sản. Chính những thay đổi quan trọng trong đời
sống chính trị của nước Pháp và thời kì đầu của những năm 30 đã quy định đặc điểm
trong sáng tác của Balzac. Sau cách mạng tháng 07/1830, giới quý tộc tài chính lên cầm
quyền: đó là bọn chủ ngân hàng, chủ hầm mỏ, chủ đường sắt đang ra sức bóp nghẹt đất
nước và đời sống nhân dân. Những cuộc khởi nghĩa đã nổ ra làm rung chuyển toàn đất
nước. Bấy giờ, Balzac càng thấy rõ bản chất xấu xa, hèn hạ của giai cấp tư sản. Ông đã
dùng tất cả sức lực để vạch mặt giai cấp tư sản và phê phán một cách không thương xót.
Tiêu biểu là các tác phẩm “Gobseck” (1830), “Miếng da lừa” (1831) và đặc biệt là
hai tác phẩm “Eugénie Grandet” (1833), và “Lão Goriot” (1834). Thông qua các tác
phẩm đó, Balzac tố cáo, lên án thế lực của đồng tiền, nó có thể hủy hoại con người, biến
họ thành những con người xấu xa và hèn hạ nhất.
2.1.3 Giai đoạn thứ ba (1836 – 1848)
Nếu như lúc trước Balzac chỉ nêu lên sự xung đột của những người đại diện cho cả
một lực lượng xã hội thì giờ đây, ở giai đoạn này, ông nêu lên sự đấu tranh giữa các
nhóm người, giữa các giai cấp trong xã hội. Dường như Balzac đã phát hiện trong xã hội
mà ông đang sống không chỉ đơn giản là xã hội của tư sản mà còn là xã hội của cả hai
loại người: người giàu và người nghèo (vô sản). Chính vì thế, các sáng tác của Balzac
thời kì này, chú tâm một cách đặc biệt đối với những con người dưới đáy xã hội. Bên
cạnh đó nhà văn vẫn không sao nhãng việc vạch trần bộ mặt giới tư sản. Các tác phẩm
tiêu biểu về hình ảnh người nông dân nghèo khổ nhưng giàu danh dự và nhân phẩm có
“Faxinô Canê” (1836), “Những người nông dân” (1844). Viết về những người tư sản cản
trở sự phát triển xã hội có “Bước đường vinh nhục của các kỹ nữ” (1837-1847), “Người
chị họ Bét” (1846), “Vỡ mộng” (1835- 1843)…
Đây là giai đoạn cao nhất trong quá trình sáng tác của Balzac. Và cũng thời kì này
nhà văn xây dựng bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”. Tác giả dùng văn chương như một vũ khí
vạch trần sự liên minh giữa những tư sản và quý tộc hay những kẻ cấu kết với nhau để
chống lại quần chúng nhân dân. Vào những năm 40, giai cấp công nhân bắt đầu giữ địa vị
chủ yếu trong phong trào cách mạng và trở thành mối nguy hại lớn cho giai cấp tư sản
hạng lớn đang nắm địa vị thống trị. Phong trào đấu tranh dẫn đến cuộc cách mạng năm
1848, “Sự va chạm đầu tiên lớn nhất giữa giai cấp vô sản và tư bản”, chính sự đấu tranh
giữa hai lực lượng giai cấp vô sản và tư sản trong những năm 40, xác định giai đoạn sáng
tác thứ ba của Balzac. Đây là tác phẩm để đời của Balzac và là thành tựu lớn nhất của
ông. Tấn trò đời là tập hợp loạt tiểu thuyết truyện ngắn kì ảo và tiểu luận được xuất bản
từ năm 1829 – 1850 của Balzac, được xem là “một trong những công trình bát ngát mênh
mông nhất mà một con người dám đơn độc cấu tứ.” 2.1.4
Giai đoạn thứ tư (1848 – 1850)
Đây là giai đoạn những năm cuối đời của Balzac. Những sự kiện cách mạng năm
1848 có sức ảnh hưởng rất lớn đến nhà văn. Lúc này Balzac càng nhận thấy được vai trò
quan trọng của quần chúng nhân dân và hơn hết trong ông có sự chuyển biến tư tưởng
khá rõ rệt. Ông công khai đứng về phía cộng hòa, về phía nhân dân, ca ngợi giai cấp công nhân tiến bộ.
Dù là những năm cuối cùng của cuộc đời nhưng Balzac vẫn lao động không hề mệt
mỏi và xây dựng cho mình một tác phẩm liên hoàn gồm nhiều “Vở kịch nhân dân”. Ông
còn cho ra đời bộ đôi tiểu thuyết Le Cousin Pons (1847) và La Cousine Bettle (1848).
Vào thời điểm này, sức khỏe của Balzac ngày càng yếu đi, việc hoàn thành được bộ đôi
tiểu thuyết này là cả 1 sự cố gắng của ông.
Tiểu kết về giai đoạn sáng tác:
Xét các quá trình sáng tác của Balzac chúng ta thấy giai đoạn đầu, các sáng tác của
nhà văn chưa thật sự trở thành những tác phẩm bất hủ. Mãi đến các giai đoạn sau (từ giai
đoạn thứ 2) mới lần lượt xuất hiện các tác phẩm để đời như “Lão Goriot”, “Vỡ mộng”,
“Eugénie Grandet … Không những thế các giai đoạn sau số lượng cũng tăng lên đáng kể
(trừ giai đoạn cuối đời). Đồng thời, chúng ta còn thấy được quá trình chuyển biến tư
tưởng khá rõ rệt trong nhận thức và tư tưởng của nhà văn. Dù cuộc đời ngắn ngủi nhưng
Balzac đã đem đến cho đời vô vàn những hương thơm mật ngọt. Con người ấy là sự kết
tinh của tinh hoa và trí tuệ. Thật khó mà kể hết những công lao Balzac đã âm thầm góp
nhặt cho đời. Với bộ tiểu thuyết đồ sộ Balzac đã chứng minh cho một trí tuệ đầy nghị lực và bản lĩnh.
2.2 Tư tưởng và tài năng nghệ thuật:
Có lẽ, từ nhỏ Balzac đã được học cách sống tự lập và chính vốn sống, vốn hiểu biết
của mình đã hình thành ở nhà văn một ý thức, một cánh nhìn toàn diện về cuộc sống.
Cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ và ở nơi đó có rất nhiều góc khuất đòi hỏi mỗi nhà
văn phải nhìn bằng lăng kính đa chiều. Chính vì thế, các tác phẩm của ông như là một
chỉnh thể của hệ thống nghệ thuật. Đối với Balzac nó phải là một công trình kiến trúc của
vũ trụ. Hay nói rằng chính nhà văn đã tạo ra một “thế giới kiểu Balzac”, một “vũ trụ
Balzac”. Cái thế giới vũ trụ đó hoàn toàn là sự sáng tạo của nhà văn chứ không phải là sự
mô phỏng máy móc. Cái công trình kiến trúc đồ sộ vĩ đại được nhắc đến là “Tấn trò đời”
với muôn vàn tinh hoa trí tuệ của Balzac, được tỏa ra và kết dính của gần 100 tác phẩm.
Từ đó, ta có thể thấy rằng ở Balzac thể hiện hai cảm hứng nghệ thuật: “cảm hứng vĩ mô” và “cảm hứng vi mô”.
+ Cảm hứng vĩ mô: Được hiểu là những tác phẩm văn chương phản ánh hiện thực
thời đại của xã hội và số phận của con người xã hội như sự tha hóa của con người trong
xã hội mà đồng tiền chi phối tất cả giá trị đạo đức và các mối quan hệ xã hội. Như những
nhân vật trong Lão Goriot (Le peré Goriot) sẵn sàng chạy theo đồng tiền và quyền lực
chà đạp lên những giá trị đạo và tình cảm thiêng liêng nhất.
+ Cảm hứng vi mô: Được hiểu là những tác phẩm văn chương đi sâu vào thế giới
nội tâm của con người khi con người đứng những khó khăn thách thức của cuộc sống.
Cuộc đấu tranh đó là cuộc tranh đấu thầm lặng và gay gắt giữa cái thiện và cái ác, giữa
cái cao cả và cái thấp hèn diễn ra trong nội tâm của con người.
Phê phán hay chất phủ định cao là khía cạnh được chú ý khi nói về tiểu thuyết
Balzac: qua sự nghiệp sáng tác của Balzac cả một xã hội và con người dưới thể chế tư
sản bị phơi bày với tất cả xấu xa tiêu cực, cũng từ đây những nỗi khổ đau, những tấn bi
kịch xảy ra cho nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh trong một xã hội mà đồng tiền là chân lý.
Vì sở trường của Balzac là việc miêu tả cái xấu, cái ác trong xã hội tư sản một cách thấu
đáo và sắc sảo qua hệ thống ngôn từ và phong cách thích hợp, và đây cũng chính là
nguyên nhân gây ra mối ác cảm của giới phê bình đương thời đối với Balzac.
Cũng chính vì tư tưởng phê phán nên những nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất và
thành công nhất của Balzac là những nhân vật phản diện, thường được tác giả cho xuất
hiện nhiều lần trong nhiều tác phẩm để người đọc theo dõi chặng đường phát triển tính
cách, số phận, những bước thăng trầm trong cuộc chen chân trong thế giới đồng tiền, âm
mưu và tội ác. Ngược lại, khía cạnh khẳng định cái đẹp trong các tác phẩm của Balzac bị
cho là yếu: "Những nhân vật đức hạnh trong tiểu thuyết Balzac khá mờ nhạt. ."
Tư tưởng hiện thực mở rộng: Dù tiểu thuyết của Balzac phản ánh hiện thực xã hội
không mấy tốt đẹp, nhưng chính Balzac lại từng khẳng định:" Xã hội đã tự tách ra hoặc
xích lại gần hơn với những quy tắc vĩnh cửu, với cái chân thực, cái đẹp, tiểu thuyết phải
là một thế giới tốt lành hơn. .". Như vậy, thế giới nghệ thuật của Tấn trò đời không đơn
thuần là phản ánh cái thiện, cái ác trong xã hội, mà điều Balzac mong mỏi chính là cải
tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
2.3 Một số điều thú vị về Balzac:
“Tình yêu là trò chơi mà ai cũng gian lận” – Balzac-
“Một ngày nào đó bạn sẽ nhận ra rằng, nhìn người khác hạnh phúc đôi khi còn
hạnh phúc hơn cả khi chính bản thân mình được hạnh phúc”- Balzac-
Cuộc đời tình duyên của Balzac không hề thuyện buồm xuôi gió! Vị trí của người
phụ nữ đã chiếm một phần khá quan trọng trong đời sống cũng như trong sáng tác của
ông. Ông được mệnh danh là: Nhà văn đào hoa nhất nhì nước Pháp: các nhà tiểu sử
khẳng định rằng Balzac có từ 3 – 10 người con ngoài giá thú, số lượng phụ nữ mà ông
chinh phục nhiều không đếm xuể. Trong số đó có 2 người đóng vai trò rất đặc biệt trong cuộc đời ông.
Trong giai đoạn đầu mới vào nghề, Balzac làm thợ văn, xuất bản tới cả chục cuốn
tiểu thuyết nhưng vẫn không sao thoát khỏi cảnh sống túng thiếu. Từ Paris thi thoảng trở
về thành phố ngoại ô sống cùng cha mẹ, ông đã có dịp làm quen với Laure de Berny,
một phụ nữ ở tuổi 45. Sau này Balzac thừa nhận Laure vừa là mẹ, vừa là bạn gái, vừa là
khách đồng hành, vừa là gia đình, cố vấn, tri âm tri kỷ. Mối quan hệ giữa 2 người kéo dài
từ năm 1822 – 1833, khi đó các dự án in ấn của Balzac thất bại, chính Laure đã giúp đỡ ông.
Nữ bá tước người Ba Lan – Evelina Hanska là cái tên thứ 2 có ảnh hưởng lớn đến
nhà văn, Evelina Hanska là 1 người yêu thích tiểu thuyết của Balzac và từng gửi chi đại
văn hào những bức thư trao đổi về văn học. Giữa 2 người đã nảy sinh sự quý mến,
ngưỡng mộ. Họ chính thức gặp mặt vào năm 1833, lúc này Evelina Hanska đang là một
mệnh phụ phu nhân. Năm 1841, chồng của Evelina qua đời nhưng do sự phản đối từ phái
gia đình người chồng quá cố và con gái của cô nên phải đến 1850, Balzac Evelina
mới kết hôn. 5 tháng sau ngày cưới, Balzac ra đi mãi mãi vào ngày 18/08/1850.
Nhìn lại cả cuộc đời của nhà văn ta có thể thấy cả đời Balzac hầu như lận đận. Giai
đoạn đầu sáng tác văn chương gặp nhiều khó khăn, kinh doanh lại phá sản, Balzac đã hai
lần ứng cử vào viện Hàn lâm nhưng đều thất bại. Thậm chí, tài năng của Balzac chỉ thật
sự được nước Pháp công nhận sau khi ông mất. Thế nhưng cái gì thật sự có giá trị, thật
sự có linh hồn thì mãi mãi còn lại với thời gian. Dường như Balzac đã đi sâu vào tiềm
thức của con người và hơn hết nó đã trở thành một nếp trong người dân Pháp nói riêng và
tất cả ai yêu Balzac nói chung. Như Gorki đã từng nói, chúng ta hãy “yêu quý Balzac
một cách nồng nhiệt, có lẽ như người ta vẫn thường yêu quý một người thầy, một người bạn”.
3. Tiểu thuyết “Tấn trò đời”
Tấn trò đời” tiếng Pháp là “La Comédie Humaine”. “Tấn trò đời” dịch sát nghĩa là
“Hài kịch nhân gian”. Là tập hợp loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kỳ ảo và tiểu luận được
xuất bản từ năm 1829-1850 của đại văn hào Honoré de Balzac. -
Phác thảo là: 137 tác phẩm đến 143 tác phẩm; đã hoàn thành 91-97 tác phẩm -
Nhân vật: dự định xây dựng từ 3000 – 4000 nhân vật; đã hoàn thành 2000 nhân vật -
Những nhân vật tái xuất hiện trong nhiều tác phẩm: 460-567 nhân vật
Với 97 tác phẩm đã được hoàn thiện, “Tấn trò đời” được nhiều người ví như “Một
nghìn lẻ một đêm của phương Tây”. Do cách tính không thống nhất nên trong các sách
viết về Balzac, số lượng tác phẩm được xác định là 97, 95, 91 hay 87, 85… tùy cách tính.
Có những tiểu thuyết gồm 3 cuốn, 2 cuốn được tính riêng hay tính gộp
Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập.
Người ta có thể hiểu một tác phẩm mà không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu
chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. Ví dụ
trong chuyện này, nhân vật A có thể là nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta
lại là nhân vật phụ, là một người có liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm xã
hội là một chỉnh thể, tất cả các sự kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một
cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả
ấn tượng như đang sống trong một xã hội có thực. Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn
trò đời là một khối thống nhất vì tất cả cùng vẽ nên bức tranh xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ
19. Đồngýrằng,trongtácphẩmcủaBalzacphầnlớnlàmôtảnhữngthứxấuxa,độcác
nhưng đó chính là bản chất thật sự của xã hội Pháp nửa đầu thế kỉ XIX mà thành phố
Paris là một điển hình. Nếu như chỉ sống trong những cái lãng mạn, xa vời, tốt đẹp thì
con người dễ tự mãn và không phấn đấu. Cuộc sống này đã rất đẹp, rất hoàn mĩ thì cần
chi vun đắp. Chính nhà thư kí của thời đại – Balzac đã thành thực ghi nhận và phản ánh
nó. Chính Balzac đã rung lên một hồi chuông báo động cho toàn xã hội Pháp với tình
trạng phẩm chất con người đang xuống cấp, xã hội thượng lưu tốt đẹp chỉ là cái bề ngoài
hào nhoáng giả tạo. Balzac đang dùng văn chương của mình “tẩy rửa” xã hội Pháp, để nó
càng tốt đẹp hơn. Vì vậy, chúng ta phải “Cảm ơn Balzac, người đầu tiên của Pháp đã
xác định được với chi tiết cực kì chính xác, với sự minh mẫn cực kì sắc sảo, căn bệnh
chúng ta vẫn đang đau”. Bởi vì “bộ máy xã hội, đặc biệt là bộ máy tiền tài không hề thay
ở xã hội Pháp từ Balzac đến nay”.
Để rồi, bằng tất cả bút lực Balzac đã chứng tỏ văn chương của mình đẹp chứ không
hề ô uế, đen tối như bao lời nhận xét. Với bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” nhà văn đã làm
cho cả văn đàn phải xôn xao, lòng người phải rung động.
3.1 Quá trình hình thành
Tấn trò đời có tính chất đặc biệt đó là vì Balzac không phải đã vạch ra ngay từ trước
buổi đầu kế hoạch sẵn sàng và toàn vẹn rồi cứ theo đó mà làm, với những bổ sung cần
thiết về sau. Rõ ràng ý kiến tập hợp của các tác phẩm ông dưới một nhan đề chung là kết
quả của cả quá trình suy nghĩ và thử nghiệm lâu dài tỏng hơn mười năm tời của nhà văn.
Tuy nghiên có thể khẳng định rằng muốn mô tả không phải chỉ một số mặt nào đó của xã
hội mà là toàn bộ xã hội, toàn bộ cuộc sống đương thời đã nảy nở trong đầu óc của
Balzac ngay từ những năm 1830-1831.
Năm 1830, ông cho xuất bản hai tập truyện với tiêu đề chung là “Những cảnh đời
tư”, với ý muốn làm cho độc giả hiểu rằng những tác phẩm của ông bề ngoài có vẻ tản
mạn về phong cách cững như về đề tài, thật ra có sự thống nhất về nội dung và ý nghĩa
Năm 1833, Balzac ngân lên tiếng reo vui đắc thắng khi trong đầu ông vụt lên ý nghĩ
táo bạo về dự án công trình đồ sộ này “Hãy chào tôi đi, bởi tôi đang thành một thiên
tài”.Năm1834,ôngpháchọaranộidungphầnđầuquantrọngnhấtcủaTấntròđờivới
nhan đề là Khảo cứu phong tục.
Năm 1837, Balzac dùng tên chung Khảo cứu xã hội để tập hợp 50 tác phẩm đã viết,
và mãi tới 1841, ông mới dứt khoát dùng cái tên Tấn trò đời, với ngụ ý liên hệ tác phẩm
của ông với tác phẩm của thi hào Dante Alighieri của nước Ý, nhan đề là Tấn trò thần
thánh (Hài kịch thần thánh) (dịch là Thần khúc), mô tả cảnh địa ngục thần thánh tưởng
tượng, còn Balzac thì mô tả cảnh địa ngục thật sự giữa trần gian.
Năm 1842, Balzac viết lời tựa cho Tấn trò đời
Năm 1845, Balzac lập danh mục toàn bộ công trình, bao gồm ba phần:
* Phần I: Khảo luận phong tục. Dự kiến: 111 tác phẩm . Hoàn thành: 74 tác phẩm.
Phần 1: Khảo luận phong tục 1.
Những cảnh đời tư -
1830: Goopxêch Nhà con mèo chơi bóng -
1831: Người đàn bà ở tuổi 30 - 1832: Đại tá sabe - 1834: Lão Gônô 1 - 1835: Lão Gônô 2 -
1836: Lễ cầu hồn của kẻ vô thần - 1839: Bêatrix - 1841: Nàng nhân tình hờ -
1842: kí sự của đôi vợ chồng trẻ - 1843: Ơnổin - 1844: Môdexiơ Minhông 2.
Những cảnh đời tỉnh lẻ
Bông huệ trong thung, Ursule Mirouet; Eugenige Grandet, Những người độc thân,
Pierrette, Cha xứ ở Tour, Cô gái xua cá, Người Paris ở tỉnh lẻ, Gaudissart trứ danh,
Những người nhăn nheo, Nàng thơ của quận, Một nữ diễn viên trên đường du hành,
Người phụ nữ ưu việt, Những sự đối địch, Kẻ độc đáo, Những người thừa kế họ
Boirouge, Cô gái già, Người tỉnh lẻ ở Paris, Phòng cổ vật, ảo mộng tiêu tân 1 cô gái
giả,căn phòng chứa đồ cổ 2,ảo mộng tiêu tan 2, cô gái khua cá, ảo mộng tiêu tan 3 3.
Những cảnh đời Pari
Truyện mười ba người, Ferragus (đoạn thứ nhất), Nữ công tước De Langeais (đoạn
thứ hai), Cô gái mắt vàng (đoạn thứ ba), Những viên chức, Sarrasine, Câu chuyện hưng
vong của César Birotteau, Nhà ngân hàng Nucingen, Facino Cane, Bí mật của nữ vương
tước De Cadignan, Bước thăng trầm của kỹ nữ, Hóa thân cuối cùng của Vautrin(1), Các
bậc quyền quý, bệnh viện và dân chúng, Một ông hoàng của giới lưu đãng, Những diễn
viên không tự biết, Mẫu trò chuyện Pháp, Cảnh tòa án, Những người tiểu tư sản, Giữa các
nhà thông thái, Hiện trạng kịch trường, Mặt trái của lịch sử hiện đại. 4.
Những cảnh đời chính trị
Một mẩu chuyện dưới thời Khủng bố, Lịch sử và tiểu thuyết, Một vụ mờ ám, Hai kẻ
tham vọng, Tùy viên sứ quán, Tạo ra một Nội các như thế nào, Nghị viên miền Arcis, Marcas. 5.
Những cảnh đời nhà binh
Những người lính của nền Cộng hòa, Bước vào chiến dịch, Người xứ Vandée,
Những người Chouan, Người Pháp ở Ai Cập, Nhà tiên tri (đoạn một), Quan tổng đốc
(đoạn hai), Một mối đam mê nơi sa mạc (đoạn ba), Đạo quân lưu động, Tổng tài vệ binh,
Thời Vienne: Một trận đánh (Phần một), Đạo quân bị bao vây (Phần hai), Đồng bằng
Wagram (Phần ba), Chủ quán, Người Anh ở Tây Ban Nha, Mạc Tư Khoa, Giao chiến ở
Dresde, Những người rớt lại phía sau, Những người ủng hộ, Một chuyến tuần tra, Cầu
nổi, Chiến dịch Pháp, Chiến trường cuối cùng, Tù trưởng, Pénissière, Tên cướp biển người Algérie. 6.
Những cảnh đời nông thôn
Người thầy thuốc nông thôn, người cha xứ nông thôn 1, người cha sứ nông thôn 2,
người nông dân 1, người nông dân 2
Phần 2: Khảo luận triết học
Phédon thời nay, Miếng da lừa, Jésus-Christ ở Flandre, Melmoth quy thiện,
Massimila Doni, Kiệt tác không người biết, Gambara, Đi tìm tuyệt đối, Chủ tịch Fritot,
Nhà bác ái, Đứa con bị nguyền rủa, Vĩnh biệt, Họ Marana, Người trưng binh, El
Verdugo, Thảm kịch bên bờ biển, Tiên sinh Cornélius, Quán đỏ, Người tuẫn nạn thuộc
giáo phái Calvin, Lời bộc bạch của anh em Ruggieri(3), . Hai giấc mộng(4), Chàng
Abeilard mới, Thuốc trường sinh, Cuộc đời và sự phiêu lưu của một tư tưởng, Những kẻ
bị lưu đày, Louis Lambert, Séraphita.
Phần 3: Khảo luận phân tích
Giải phẫu học giáo giới, Sinh lý học hôn nhân, Bệnh lý học đời sống xã hội, Chuyên
luận về đức hạnh, Đàm thoại triết học và chính trị về những điều hoàn thiện của thế kỷ XIX. Ph Phần ần Phần I II Khảo III Khả
Khảo luận phong tục luận triết o luận học phân Năm xuất tích bản Những Những Những Những Những Những cảnh cảnh cảnh đời cảnh đời cảnh đời cảnh đời đời tư tỉnh lẻ Paris
chính trị đời nhà binh nông thôn (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Những Sinh lí 1829 người Chouan hôn s nhân 1830 Gobse Một giai Mối Thuốc ck đoạn đam mê trường Nhà của thời nơi sa sinh con kì khủng mạc mèo bố chơi bóng Miếng da Người lừa đàn bà 1831 ở tuổi Kiệt tác ba chưa ai mươi Xaraxin biết đến Quán đỏ 1832 Đại tá Cha xứ ở Gia đình Sabe Tour Marana Người thầy 1833 Eugénie Grandet thuốc Lui Lambe nông thôn (1) ( 2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Lão Nữ công 1834 Goriot tước Đơ Đi tìm cái I Langgie tuyệt đối Lão Bông huệ Con 1835
Goriot nơi thung gái mắt Menmôt II lũng vàng quy thiện Lễ cầu hồn Căn 1836 của kẻ phòng Fanxinô Đứa con bị chứa đồ Can nguyền rủa thần cổ I Xêra Birôtô 1837 Vỡ mộng I Những viên chức Căn Nhà ngân Người 1838 phòng cha xứ chứa đổ hàng nông cổ II Nucingen thôn I 1839 Bêatri Căn Vinh và Người Maxi x phòng nhục của cha xứ chứa đổ cổ III người kĩ nông Vỡ mộng nữ I thôn II milia Đôni II Nàng Về 1841 nhân Uếcxuyn tình Miruôt Macca Catơrin đơ hờ Mêđixix Kí sự của Mặt trái 1842 đôi vợ Cô gái của lịch chồng khua cá sử hiện trẻ đại I (1) ( 2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) 1843 Onôri Vỡ mộng n III Môđex Những 1844 người Minhô nông ng dân I Những nỗi phiền 1845 Một tay buôn bán hà của cuộc sống vợ chồng 1846 Chị Bette Ông anh họ Pông Đại 1847 Vinh và biểu ở nhục của Acxi người kĩ nữ II Sau khi Vinh và Những mất nhục của người người kĩ nông nữ III Mặt trái của lịch sử hiện đại II dân II Những người tiểu tư sản
Bảng thống kê danh mục các tác phẩm tiêu biểu của “Tấn trò đời” dựa vào
“Giáo trình Văn học phương Tây”
Trong bài viết của mình về “Hô-nô-rô Đơ Banzac” in trong cuốn “Văn học lãng
mạn và văn học hiện thực phương Tây thế kỷ XIX” tác giả Lê Hồng Sâm cho rằng “Tấn
trò đời là một tổng thể toàn vẹn duy nhất”, các tác phẩm “hợp thành công trình là một
đơn vị hoàn chỉnh, độc lập”, và “thống nhất bởi một chủ đề cơ bản, trong đó hai chủ đề
nổi bật là đồng tiền và tham vọng cá nhân, hai động lực của xã hội và con người tư sản”.
Thật vậy, đồng tiền là huyết mạch của “Tấn trò đời”. Mà cụ thể là huyết mạch của con
người, những con người đang vật lộn cùng cuộc sống
“Tấn trò đời” quả là kho biên niên sử nước Pháp vô cùng quý báu. Nếu như ai đó
chưa từng đặt chân đến Pháp hay chưa từng hiểu gì về xã hội Pháp thế kỉ XIX thì hãy tìm
đến bộ tiểu thuyết này. Đó là một sản phẩm tinh vi của con người tài hoa, trí tuệ. Balzac
không chỉ viết nên một cuốn sách mà là cả thế giới. Chính nhà văn “cung cấp một bộ lịch
sử hiện thực tuyệt vời của xã hội Pháp, đặc biệt là xã hội thượng lưu Paris”
3.2 Ý nghĩa nội dung:
"Tấn trò đời" của Balzac mang ý nghĩa nội dung sâu sắc và phản ánh nhiều khía
cạnh của xã hội và con người. Điển hình là: •
Sự mất mát và sự thật: "Tấn trò đời": tức là sự mất mát các ảo tưởng và hi
vọng. Tác phẩm phản ánh sự thật khắc nghiệt của cuộc sống và những ảo tưởng bị phá
hủy dưới ánh sáng của xã hội. •
Nạn mất nhân tính: Một trong những ý tưởng chính của tác phẩm là nhân vật
chính Lucien de Rubempré mất đi ý chí và cái nhân tính của mình dưới áp lực của quyền
lực, thành công và tiền bạc. Sự thành công luôn đến với sự đổ máu của nhân cách và
niềm tin, gợi lên câu hỏi về giá trị thật sự của thành công vật chất. •
Xung đột giai cấp và quyền lực: "Tấn trò đời" ảnh hưởng từ thời kỳ cổ điển
Pháp và phản ánh xung đột giai cấp và quyền lực trong xã hội. Tác phẩm cho thấy hệ
thống xã hội không công bằng và thể hiện các sự trái ngược giữa những người giàu có và những người nghèo hơn. •
Quyền lực và tình yêu: Tác phẩm thể hiện một cuộc sống xã hội đầy tham
vọng và lòng tham, trong đó quyền lực và tiền bạc tạo nên sự thay đổi không khỏe mạnh.
Nó cũng tương tác với ý tưởng về tình yêu và sự phản bội trong mối quan hệ con người. •
Sự đấu tranh cá nhân và tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống: "Tấn trò đời" khám phá
sự đấu tranh cá nhân của chính nhân vật chính trong việc tìm kiếm ý nghĩa và định vị của
mình trong xã hội. Tác phẩm đưa ra câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, giá trị đích thực và quyền tự do.
=> "Tấn trò đời" của Balzac vốn là một tác phẩm phức tạp và mang nhiều ý nghĩa
khác nhau. Nó thể hiện hiện thực của cuộc sống và nhấn mạnh về sự mất mát các hoài
bão và ảo tưởng. Tác phẩm cũng tìm cách phản ánh xã hội và con người trong một thời
đại khắc nghiệt và nhưng vẫn hi vọng tìm kiếm ý nghĩa và niềm tin.
3.3 Ý nghĩa nghệ thuật:
"Tấn trò đời" là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Honoré de Balzac. Tác phẩm
này được coi là một kiệt tác văn học của Balzac, nó có những nét đặc trưng về nghệ thuật như sau: •
Sự chi tiết và chân thực: Balzac được biết đến là một trong những tác giả sắc
sảo, tách biệt nhất trong việc miêu tả đời sống thường ngày và môi trường xã hội. "Tấn
trò đời" không chỉ tường minh và chi tiết miêu tả cuộc sống ở Paris thời đại đầu XIX, mà
còn tập trung vào những tương tác phức tạp giữa các nhân vật, thể hiện rõ ràng và sâu sắc
tính cách và hành động của họ. •
Đa dạng nhân vật phức tạp: Tác phẩm này chứa đựng một loạt nhân vật cùng
với sự phát triển tương đối khéo léo. Balzac không chỉ tạo ra những nhân vật chính rõ
ràng và đa chiều, mà còn xây dựng một hệ thống nhân vật phụ đa dạng và phức tạp, đồng
thời tạo nên những mối quan hệ, xung đột, và tương tác giữa các nhân vật này. •
Sự phân tích sâu sắc về xã hội và con người: "Tấn trò đời" không chỉ là câu
chuyện riêng của các nhân vật, mà còn là một tác phẩm phản ánh sự thay đổi xã hội, xung
đột giai cấp và những khó khăn mà con người phải đối mặt trong việc theo đuổi thành
công. Balzac phân tích xã hội và nhân cách một cách tinh tế, thậm chí có những yếu tố
tiên đoán và triết lý về cuộc sống và nhân loại. •
Sự kết hợp giữa truyền thống và sáng tạo: Balzac đã lấy ý tưởng từ những thể
loại truyền thống như tiểu thuyết hài kịch, tiểu thuyết đồ sộ và tiểu thuyết cá nhân, nhưng
đồng thời cũng thể hiện sự đột phá và sáng tạo với cách tiếp cận của mình. Ông đã xây
dựng một thế giới phức tạp, vừa thực tế vừa tưởng tượng, tạo nên một tác phẩm đặc biệt,
góp phần làm nên tên tuổi của Balzac trong văn học thế giới.
=> Tóm lại, "Tấn trò đời" của Balzac có nghệ thuật sắc sảo và phân tích sâu sắc về
xã hội và con người, kết hợp giữa truyền thống và sáng tạo, và mang đậm tính chân thực
và chi tiết. Tác phẩm này đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong văn học thế giới và là một ví dụ
mẫu về nghệ thuật của Balzac.
4. Tiểu thuyết Eugenie Grandet- cuộc chia tay lưu luyến với chủ nghĩa lãng
mạnTiểuthuyết“EugénieGrandet”-rađờinăm1833.Tiểuthuyếthiệnthựcđượcxemlà
kiệt tác ở giai đoạn đầu khi nhà văn thật sự “trở thành Balzac”. Và thiên tiểu thuyết này
được nhà phê bình Langson nhận xét là “một chân dung vẽ hỏng của chủ nghĩa lãng mạn”. Nghiên cứu số trang
viết (thời gian kể chuyện) có
sự không phù hợp với tính
cách, lúc này thời gian kể
chuyện đã trở thành “thời
gian nghệ thuật”, người đọc
tìm hiểu quá trình xây dựng
nhân vật Eugenie nhận thấy
tác giả đã tỏ ra bối rối. Những trang viết về đời sống lãng mạn của Eugenie (116 trang +
58 trang) dài hơn những trang nói về cuộc sống chấp nhận hiện thực (72 +3 trang)…
Điều đó thêm một bằng chứng cho thấy nhà văn rất “lưu luyến” chủ nghĩa lãng mạn
nhưng cuối cùng đành phải viết theo tinh thần tôn trọng hiện thực. Vì trong tiểu thuyết
chủ yếu tập trung vào Eugénie, cô gái ấp ủ một tình yêu lãng mạn. Qua đó ta thấy Balzac
đã có sự kế thừa tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn của các nhà văn trước mà tiêu biểu là Hugo.
Nhân vật chính của tiểu thuyết này khác xa với nhân vật chính của nhiều tác phẩm
khác trong bộ “Tấn trò đời” (La Commedie humaine): duy nhất nàng Eugenie Grandet là
nhân vật chính diện (các nhân vật chính khác của Balzac đều là nhân vật phản diện). Bên
cạnh cha, mới nhìn, Eugenie quả là một hình ảnh tương phản. Nhiều nhà phê bình đã căn
cứ vào việc cô là một nhân vật chính diện, một cô gái ấp ủ một tình yêu lãng mạn để coi
đây là dấu vết của chủ nghĩa lãng mạn.
Tiểu thuyết đã xây dựng một điển hình tiểu biểu của giai cấp tư sản–lão Grandet, tác
giả cũng nhằm mục đích vẽ nên chân dung một con người tiêu biểu cho những ham muốn
và những thói xấu xa của xã hội tư sản. Tác phẩm phơi bày sức mạnh nghiệt ngã của
đồng tiền đã hủy hoại tâm hồn con người, đã giết chết những tình cảm thân thiết nhất và
biến con người thành một kẻ vô tâm.
Cùng lắng nghe bản tóm tắt để hiểu thêm chi tiết nội dung câu chuyện:
4.1 Tóm tắt Tác phẩm “ Eugenie Grandet ”
Lão Grande (Grăng-đê) nguyên là thợ đóng thùng đựng rượu ở một thị trấn nhỏ
của nước Pháp, ông đã lợi dụng cách mạng 1789 để làm giàu. Với sô vốn có được kha
khá, lão dần dần biết cách làm cho đồng tiền của lão ngày càng sinh sôi nảy nở. Lão mua
“giá rẻ như cho” những cánh đồng nho và những tài sản bán đấu giá, buôn vàng, đầu cơ
tích trữ rượu vang và trở thành một tay tư sản giàu có nhất thị trấn Saumur. Tuy lắm tiền
nhiều của nhưng lão rất keo kiệt, bủn xỉn và độc đoán.
Bà Grande (Grăng-đê) – vợ lão là một người phụ nữ hiền lành, ngoan đạo, hết lòng nghe lời chồng
Eugenie (Ơ-giê-ni) - con gái độc nhất của lão, là một thiếu nữ đức hạnh và xinh đẹp.
Họ phải chịu đựng những thiếu thốn đủ bè từ thói ti tiện, xấu xa của lão Grande.
Mụ Nanong là người giúp việc tâm đắt là bị lão bóc lột, chèn ép tàn nhẫn. Là nơi để
thực hành chính sách tiết kiệm đến keo kiệt của lão Grandet.
Bản thân lão Grande nắm giữ hết tay hòm chìa khóa, hằng ngày lão phân phát từng
mẫu bánh, từng miếng đường, miếng mỡ cho vợ con.
Ở thị trấn Xomuya có hai họ lớn nhất là Gruyso và Đe Graxanh, là hai gia đình có
tiếng thế lực thường lui tới nhà lão hòng giành nhau cô thừa kế triệu phú Eugenie. Ở họ
Cruyso thì nắm những trọng trách ở trong tỉnh như cha sứ, quản lí văn khố, chánh án, còn
lão Đe Graxanh thì làm chủ ngân hàng. Nhưng lão Grande chưa bao giờ lo tính chuyện
hạnh phúc của con gái. Lão chỉ lo nghĩ đến những phúc lợi về mình
Em trai lão Grande ở Paris bị phá sản, trước khi tự tử ông gửi con là Charles (Sác-lơ)
về Saumur nhờ cưu mang giúp đỡ. Nhưng Grande đã âm mưu tống khứ cháu trai đi sang
Ấn Độ để làm ăn để trốn tránh trách nhiệm nuôi cháu. Chính sự xuất hiện của một chàng
thanh niên trẻ trung, đẹp trai, hào hoa và hơn hết là Charles đã mang theo trong mình tất
cả hương vị phóng khoáng và thanh lịch của Paris đã gây cho Eugenie một xúc động sâu
xa, một sự thức tỉnh về nhu cầu đối với cái đẹp, cái lý tưởng và tình yêu. .
Trong mấy ngày ngắn ngủi sống ở Saumur, Charles đã làm bừng sáng lên cuộc sống
của Eugenie, cô đã rung động, sự rung động làm cho cô thay đổi cách nhìn, cách nghĩ. Và
chính nhờ cuộc sống giản dị, nhờ tình cảm tuần khiết của cô chị họ đã làm Charles từ một
người ở chốn Paris phồn hoa, phóng khoáng phải thay đổi cách nhìn. Vì đã phải lòng yêu
thương và sau khi đọc được 2 bức thư của Charles, Eugenie đã giấu cha tặng người yêu
số tiền vàng dành dụm được từ nhỏ để chàng thêm vốn kinh doanh nơi đất khách quê
người. Charles đã trao cho cô chiếc hộp gỗ - di vật của mẹ cậu để lại. Một mùa xuân yêu
thương bắt đầu với Eugenie. Từ hôm trong cảnh đêm vắng lặng, nàng trao cái túi vàng
cho Charles thì nàng cũng trao luôn quả tim nàng. Cùng giữ chung một bí mật, Charles
và Eugenie thường đưa mắt nhìn nhau hội ý, sự đồng tình đồng lõa ấy làm cho mối cảm
tình đối với nhau càng nặng, càng sâu. Dần dần họ càng tâm đầu ý hợp, và càng đưa nhau