I. Tiểu sử, tác phẩm, sự nghiệp thời đại của Adam Smith.
-Adam Smith (sinh ngày 5 tháng 6 năm 1723 qua đời ngày 17
tháng 7 năm 1790) một nhà kinh tế học người Scotland, nhà triết
học đạo đức một trong những người tiên phong trong lĩnh vực
kinh tế chính trị. Ông được biết đến như là Cha đẻ của Kinh tế học
hoặc Cha đẻ của Chủ nghĩa bản. Ông được sinh ra tại thị trấn
Kirkcaldy, thành phố Fife, Scotland, ông đã nghiên cứu triết học
hội tại Đại học Glasgow Cao đẳng Balliol, Oxford. Ông đã thực
hiện nhiều buổi thuyết trình công cộng rất thành công tại Đại học
Edinburgh hợp tác với David Hume trong thời kỳ Khai sáng
Scottish. Trong cuối đời, ông làm gia gặp nhiều nhà tri thức
hàng đầu trên khắp châu Âu. đến năm 1790 ông mất tại
Edinburgh, Scotland. Cả đời ông không kết hôn cũng không
con cái.
-Tác phẩm nổi tiếng của ông:
+ thuyết về Tình cảm Đạo đức (The Theory of Moral
Sentiments) (1759): Cuốn sách này nghiên cứu về đạo đức tình cảm, đặc
biệt về khả năng đồng cảm tương tác hội.
+Tìm hiểu về bản chất nguồn gốc của cải của các quốc gia (Inquiry
into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) (1776): Cuốn sách
này thường được gọi tắt “Sự Giàu của các Quốc gia”. Đây tác phẩm
hiện đại đầu tiên của kinh tế học đã đặt nền tảng cho thuyết kinh tế thị
trường tự do cổ điển.
II. Đặc điểm phương pháp luận của Adam Smith.
-Phương pháp luận của Adam Smith dựa trên trật tự tự do, thể hiện trong tưởng trật tự
tự nhiên, cho rằng một hội hợp với tự nhiên một hội tự do cạnh tảnh giao lư trao
đổi hàng hóa. Bằng những phương pháp trừu tượng ông đã cố gắng phân tích bản chất bên
trong của hội sản. Nhưng ông lại rằng nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế học cổ
điển tả bức tranh cụ thể của đời sống kinh tế để vạch ra các chính sách kinh tế. Điều
đó dẫn đến tính hai mặt trong phương pháp luận của Adam Smith. Mâu thuẫn này dẫn đến
mâu thuẫn trong luận kinh tế của ông.
-Ưu điểm của học thuyết:
+Ông đã đưa ra khái niệm “bàn tay hình” để tả chế tự cân bằng của thị trường
cạnh tranh. Theo ông, sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan một “trật tự tự
nhiên”, dẫn đến phúc lợi của nhân hiệu quả tăng trưởng kinh tế.
+Ông người đầu tiên đưa ra thuyết về lợi thế tuyệt đối trong hoạt động ngoại thương.
thuyết y giúp hiểu hơn về chế phân công lao động tăng trưởng kinh tế.
-Nhược điểm của học thuyết:
+Lý thuyết của Adam Smith dựa trên giả định về thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó
không thông tin không đối xứng, không chi phí giao dịch, không quyền thị
trường. Thực tế, thị trường không luôn đạt đến mức cạnh tranh hoàn hảo.
+Lý thuyết của ông tập trung vào vai trò của thị trường bỏ qua vai trò quan trọng của
nhà nước trong việc điều chỉnh hỗ trợ kinh tế.
III. Những luận kinh tế bản của Adam Smith.
1. Bàn tay hình
Bàn tay hình (Invisible hand) theo Adam Smith
quan niệm rằng trong môi trường kinh tế thị trường, các
nhân tham gia dựa vào khát vọng tối đa hóa lợi nhuận
nhân của họ. Tuy nhiên, thông qua cơ chế cạnh tranh
tương tác trên thị trường, hành động của mỗi nhân kết
hợp lại tạo ra lợi ích chung thúc đẩy sự phát triển
củng cố lợi ích cho toàn bộ cộng đồng.
Adam Smith đã đưa ra thuyết bàn tay hình vào những
năm cuối thế k 18, giá trị của vẫn được công nhận
đến ngày nay. Thuyết này tả khả năng điều chỉnh cung
cầu trên thị trường bằng cách khuyến khích các nhân
tham gia tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Qua đó, sức mạnh
của chế thị trường như bàn tay hình định hướng người n người mua, phân bố
nguồn lực kinh tế đạt được hiệu quả hội lớn nhất không cần sự can thiệp của chính
phủ
123
.
Theo quan điểm của Adam Smith, chính phủ chỉ nên gi chức năng quản để bàn
tay hình tự cân bằng c lợi ích của nhân hiệu quả kinh tế đạt tối đa. Bằng cách
này, con người phụng sự cho hội nhiều hơn anh ta chủ trương m điều đó.
thuyết bàn tay hình được s dụng để miêu tả cơ chế thị trường cạnh tranh sức
mạnh của trong việc đạt được lợi ích cho toàn hội. Adam Smith đã đề cập đến thuật
ngữ này trong tác phẩm nổi tiếng của ông, The Wealth of Nations (1776), để diễn t cách
thị trường tự điều chỉnh cung cầu khuyến khích các nhân sản xuất những thứ cần
thiết cho xã hội.
Một dụ dễ nhận thấy của "bàn tay hình" trong quy luật cung cầu của thị trường là
vấn đề kiểm soát giá của các loại hàng hóa. Khi giá cả không được tự do định đoạt bởi
quy luật cung cầu hoặc bị ngăn cản thực hiện mức thuận mua vừa bán thì mặc nhiên sẽ
hình thành nên một thị trường ngầm người ta quen gọi thị trường "chợ đen", ợt
hoàn toàn ra khỏi ý chí của bất cứ quan thẩm quyền nào.
Hiện nay, chỉ một quốc gia duy nhất trên thế giới áp dụng khái niệm bàn tay
hình, đó Hoa Kỳ. Tại đây, cơ chế thị trường tự điều chỉnh được coi là một yếu tố
quan trọng trong việc đạt được lợi ích cho toàn hội.
2. Phê phán chế độ phong kiến luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản.
Adam Smith phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến. Ông cho rằng các
đại biểu được kính trọng nhất trong hội như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu,…
cũng giống như những người tôi tớ, không sản xuất ra giá trị nào cả.
Ông phê phán chế độ thuế khóa độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ thuế
thân tính chất nh địa, chế độ thuế khắc ngăn cản việc tích lũy của nông dân.
Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó thể chế
“dã man” ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp.
Ông bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Ông vạch tính chất về mặt kinh tế của chế độ lao dịch chứng minh nh chất
ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
Bên cạnh đó ông đề cao vai trò của nhân ca ngợi chế tự điều tiết của kinh tế thị
trường. Ông ủng hộ sở hữu nhân cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh
tế. Ý tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của ông được gọi “bàn
tay hình .
Adam Smith cho rằng cần tôn trọng trật tự tự nhiên, để kinh tế phát triển trên s tự
do. Ông khuyến khích tự do cạnh tranh chủ nghĩa “Laissez-faire (tức Mặc kệ
nó”).
Cuối cùng ông kết luận: chế độ phong kiến một chế độ “không bình thường”: sản
phẩm của sự độc đoán, ngẫu nhiên dốt nát của con người, đó một chế độ trái với trật
tự ngẫu nhiên mẫu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nên
kinh tế nh thường nền kinh tế phát triển trên sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch.
3. P phán chủ nghĩa trọng thương.
Adam Smith đã chỉ trích chủ nghĩa trọng thương,
một hệ thống kinh tế trong đó quyền lực s
giàu của quốc gia được cho là tăng lên thông qua
việc xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Ông cho rằng
chủ nghĩa trọng thương hạn chế thương mại tự do
cản trở sự phát triển của sự giàu thực sự thông qua
việc ngăn cản sự phân công lao động quá trình thị
trường. Smith tin rằng sự giàu của một quốc gia
không phải số lượng kim loại quý họ có,
khả năng sản xuất hàng a dịch vụ thực sự thông
qua sự phân công lao động thương mại tự do.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ. Theo ông,
sự giàu có không phải ch tiền ch người ta thể mua được cái với tiền.
Ông cho rằng lưu thông hàng hoá chỉ thu hút được một số tiền nhất định không bao
giờ dung nạp quá số đó.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà ớc để cưỡng bức kinh tế, ông cho
rằng chức năng của nhà ớc đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù...nhà ớc thể
thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ nghiệp
riêng lẻ như xây dựng đường sá, ng ngòi các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát
triển kinh tế bình thường không cần sự can thiệp của nhà nước.
4. P phán chủ nghĩa trọng nông.
Adam Smith đã phê phán chủ nghĩa trọng
nông, hay còn gọi Physiocracy, một học
thuyết kinh tế cho rằng tất cả sự giàu đều
bắt nguồn từ đất đai nông nghiệp. Các
Physiocrats (Những người theo học thuyết
trọng nông) tin rằng chỉ nông nghiệp mới
ngành sản xuất thực sự, trong khi thương
mại công nghiệp được coi không sinh
lợi. Smith không đồng ý với quan điểm này
cho rằng thương mại và công nghiệp
cũng những hoạt động giá trị, tạo ra sự giàu lợi ích cho hội.
Ông phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường
giai cấp không sản xuất.
Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp một ngành sản xuất
vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ bản...
5. Lý luận về thuế khóa.
Adam Smith người đầu tiên luận chứng ơng lĩnh thuế khoá của giai cấp sản,
chuyển nh nặng thuế khoá cho địa chủ tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của
nhà nước thể từ hai nguồn: một từ quỹ đặc biệt của nhà ớc, bản đem lại lợi
nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai lấy từ thu nhập của nhân bắt nguồn từ địa tô. lợi
nhuận, tiền công.
Adam Smith đã đề xuất bốn nguyên tắc bản về thuế khóa trong c phẩm nổi tiếng
của ông, “The Wealth of Nations”. Các nguyên tắc này thường được gọi “bốn nguyên
tắc thuế khóa của Adam Smith”, bao gồm:
1. Công bằng (Equity): Thuế nên được đánh theo tỷ lệ thu nhập, nghĩa người
thu nhập cao hơn n trả nhiều thuế hơn và ngược lại.
2. Chắc chắn (Certainty): Thuế nên ràng minh bạch, mọi người nên biết hoặc
thể dễ dàng tìm hiểu số tiền phải trả, thời gian phương thức nộp thuế.
3. Tiện lợi (Convenience): Thời gian phương thức nộp thuế nên thuận tiện cho
người nộp thuế.
4. Kinh tế (Economy): Chi phí thu thuế nên được gi mức thấp nhất thể.
Ông tin rằng một hệ thống thuế khóa tốt nên tuân thủ các nguyên tắc trên để đảm bảo sự
công bằng và hiệu quả, đồng thời giảm thiểu gánh nặng cho người n nền kinh tế.
Bên cạnh đó trong tác phẩm “The Wealth of Nations” ông cũng đề cập tới hai loại thuế:
1. Thuế trực thu thuế đánh trực tiếp vào thu nhập
không thể chuyển gánh nặng thuế cho người khác
như: địa tô, lợi nhuận, tiền công, tài sản kế thừa
thuế thu nhập nhân.
2. Thuế gián thu loại thuế mà người nộp thuế
thể chuyển gánh nặng thuế cho người khác, thường người tiêu dùng, như thuế
giá trị gia tăng (VAT) hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt.
6. luận v phân công lao động.
Adam Smith đã đưa ra một bằng chứng về sự phân công lao động làm tăng vượt
bậc năng suất lao động của một nghiệp nhỏ gồm 10 công nhân làm đinh ghim
như sau:
“Một người chuyên kéo dây thép, một người khác nắn cho thẳng, người thứ ba
cắt dây thành những đoạn nhỏ, người thứ mài nhọn dây thép, người thứ năm tán
đầu đoạn dây để lắp đầu đinh ghim, để làm được đầu đinh ghim đòi hỏi phải thực
hiện hai hoặc ba thao tác; để lắm đầu đinh ghim một việc khác hẳn, làm cho đinh
ghim trở thành trắng bóng lại một việc khác nữa; thậm chí đóng gói đinh ghim
cũng một nghề, muốn làm thành một cái đinh ghim, người ta phải tiến hành
18 thao tác khác nhau... Một nghiệp chỉ 10 công nhân nhưng với máy móc
cần thiết được trang bị, khi bắt tay vào sản xuất với tất cả sự nổ lực của mình, họ
thể cùng nhau làm ra vào khoảng 12 pao đinh ghim một ngày. Một pao
khoảng hơn 4000 đinh ghim c trung bình. Như vậy 10 người công nhân thể
cùng nhau làm được tới 48000 đinh ghim chỉ trong một ngày công. Nếu đem chia
cho 10 người, thì một người làm được 4800 đinh ghim mỗi ngày. Nhưng nếu họ
làm ăn riêng lẻ không kết hợp với nhau, hơn nữa nếu họ không được huấn
luyện về nghề này, t chắc chắn mỗi người trong số họ không thể làm nổi được 20
hoặc thậm chí một đinh ghim trong một ngày công”.
Bài học này cho thấy: sự phân công lao động sự phân chia quá trình lao động
sản xuất thành những thao tác cho từng người thực hiện. Sự phân công lao động đã
biến những thao tác của quá trình sản xuất thành những nghề nghiệp chuyên môn
của người lao động, nhờ vậy làm tăng năng suất lao động của mỗi người lên
gấp bội so với lao động không sự phân công của từng người riêng lẻ thực hiện.
Adam Smith cho rằng sự phân công lao động thể làm tăng năng suất lao động
nhờ ba yếu tố kháu nhau, đó là:
-
sự phân công lao động làm tăng kỹ năng, kỹ xảo của từng công nhân.
-
sự phân công lao động làm giảm thời gian chuyển từ loại ng việc này sang loại
công việc khác.
-
sự phân công lao động phát minh ra các loại máy chuyên dùng làm cho lao động
nhẹ nhàng hơn một người thể làm việc của nhiều người.
Theo Adam Smith, sự phân công lao động kết quả của nhu cầu trao đổi, thị
trường chỉ “một hậu quả tất yếu của thiên hướng thuộc bản chất con người... đó
thiên hướng muốn đổi chác hoặc trao đổi vật này lấy vật khác”.
Sự phân công lao động phụ thuộc vào mức độ trao đổi quy mô, tính chất của thị
trường, điều kiện để thực hiện phân công mật độ dân số cao sự phát triển của
giao thông liên lạc. Trong một thị trường nhỏ bé, đơn giản thì sự phân công lao
động cũng đơn giản, tức không ai muốn chuyên tâm vào một công việc
không khả năng trao đổi sản phẩm thừa do sức lao động của mình làm ra để
lấy sản phẩm của người khác.
Cũng theo Adam Smith phân công lao động 3 ưu điểm: một tay nghề kỹ
thuật sản xuất của người công nhân tăng lên; hai tiết kiệm thời gian chuyển từ
dạng lao động này sang dạng lao động khác; ba khả năng áp dụng các phương
pháo sản xuất mới điều kiện cho máy móc ra đời.
7. luận về tiền t.
Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của
lịch sử trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ông đã nhìn thấy sự
phát triển của hình thái giá trị. Ông đã chỉ ra bản chất của tiền hàng hóa đặc biệt
làm chức năng phương tiện lưu thông đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền
tệ. phương tiện để khắc phục khó khăn của trao đổi hàng hóa trực tiếp,
“chiếc bánh xa đại của lưu thông”. Ông người đầu tiên khuyên nên dùng tiền
giấy.
Smith người nhiều đóng góp khi nghiên cứu nguồn gốc và cách sử dụng tiền
tệ của các dân tộc trên thế giới. Chẳng hạn vỏ được sử dụng như tiền tệ Ấn
Độ, tuyết khô (Newfoundland), thuốc (Virginia), đồng (La cổ đại), vàng
bạc được sử dụng các quốc gia giàu có.
Ông đã quan điểm đúng về số lượng tiền cần thiết trong lĩnh vực u thông do
giá cả quy định.
Trong luận của Adam Smith còn hạn chế là: không hiểu đầy đủ bản chất của
tiền, còn nhầm lẫn giá trị tiền với số lượng tiền, không thấy hết các chức năng của
tiền.
8. luận v giá trị - lao động.
Adam Smith cho rằng giá trị được tạo ra từ lao động sản xuất giản đơn, lao động
chính thước đo cuối cùng để kiểm tra giá trị, còn trong chủ nghĩa bản thì giá
trị chính thu nhập. Adam Smith đã phân biệt được sự khác nhau giữa hai cách
dùng từ “giá trị”: giá trị sử dụng giá trị trao đổi với giá cả. Ông cho rằng giá trị
hai nghĩa khác nhau, lúc giá trị do lao động trong các ngành sản xuất vật chất
tạo ra (giá trị chính chi phí lao động), lúc giá trị hàng hóa bằng số lượng lao
động người ta thể mua được nhờ hàng hóa đó (giá trị chính tiền công của
lao động). Việc phân biệt sự khác nhau giữa hai cách dùng từ g trị sử dụng giá
trị trao đổi này nhằm giải thích thêm giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không liên
quan đến giá trị sử dụng. Đồng thời, Adam Smith còn chứng minh mối quan hệ
giữa giá trị sử dụng giá trị trao đổi. Khi phân tích giá trị hàng hóa, ông đặt giá
trị hai vị trí khác nhau: trong quan hệ với số lượng hàng hóa khác thì giá trị được
biểu hiện giá trị trao đổi của hàng hóa; trong nền sản xuất phát triển thì giá trị
được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Hạn chế của Adam Smith khi cho rằng những thứ không giá trị sử dụng
thể giá trị trao đổi; giá trị hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập: “tiền
lương, lợi nhuận, địa ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như của
bất giá trị trao đổi nào”. Những người theo trường phái Marx cho rằng A.Smith
đã lẫn lộn giữa giá trị thu nhập. Bên cạnh đó, ông cũng chưa phân biệt được lao
động sức lao động, vậy ông không thể giải thích lao động làm thế nào thể
tạo ra lợi nhuận. tưởng này xa rời thuyết giá trị lao động “giá trị do lao
động hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định, lao động thước đo thực tế của
mọi giá trị”.
Bên cạnh các hạn chế vừa nêu, những luận giá trị lao động của A.Smith cũng
những đóng góp quan trọng về mặt khoa học, ông người đầu tiên trình bày
một cách hệ thống luận giá trị lao động, đồng thời về bản ông đã kiên trì
dùng luận giá trị lao động để nghiên cứu vẫn đề lợi nhuận địa tô. Đó đóng
góp chủ yếu của ông về mặt khoa học. Với những đóng p như thế K.Marx đã gọi
A.Smith nhà kinh tế học tổng hợp của công trường thủ công.
9. luận phân phối của Adam Smith.
Adam Smith đã thực hiện một bước tiến so với phái Trọng Nông khi phân chia
các giai cấp trong hội sản nhằm phân tích các thu nhập của các giai cấp. Ông
phân chia thành 3 giai cấp bản gắn với quyền sở hữu liệu sản xuất thu
nhập:
-
giai cấp công nhân: thu nhập là tiền lương.
-
giai cấp các nhà bản (bao gồm bản công nghiệp, nông nghiệp thương
nghiệp) : thu nhập lợi nhuận.
-
giai cấp chủ đất: thu nhập là địa tô.
Ông cũng người đầu tiên phân biệt sự khác nhau giữa các tầng lớp trong hội
khẳng định những giai cấp bản gắn với sản xuất vật chất nhận được cái gọi
thu nhập ban đầu các tầng lớp còn lại nhận thu nhập do phân phối lại gọi thu
nhập thứ hai. luận phân phối của A.Smith chủ yếu đề cập đến thu nhập lần đầu
của các giai cấp bản.
*
Về tiền lương:
Tiền lương thu nhập của công nhân, gắn với lao động của họ. sự bồi hoàn
nhờ công lao động. Như vậy, tiền lương thu nhập lao động, gắn liền với
lao động.
Smith tiếp tục đưa ra thuyết tiền lương “hợp đồng’ cho rằng người lao động
muốn lương cao, trong khi người chủ muốn trả lương càng ít càng tốt. ràng
một giới hạn thấp hơn tiền lương con người luôn sống bằng công việc của
mình, tiền lương ít ra cũng đủ để nuôi sống bản thân. Thậm chí trong hầu hết
trường hợp tiền lương phần nhiều hơn, nếu không thì người lao động không thể
nuôi sống gia đình cuộc chạy đua của những người lao động như thế không thể
kéo dài vượt qua thế hệ thứ nhất. Về lâu dài, Smith xem mức lương được xác định
bằng chi p nuôi sống tái sản xuất của công nhân. Tóm lại, lao động cũng được
tạo ra bằng chi phí không đổi, đến mức đường cong cung kao động dài hạn nằm
ngang bất cứ đồng lương nào chăng nữa luôn nhất quán với khái niệm của
A.Smith.
Smith đã hoàn thiện mở rộng vấn đề “sự bình đẳng của tiền lương lợi nhuận
phát sinh từ tính chất của công việc” gồm những đặc điểm chính sau đây:
-
tiền lương thay đổi tỷ lệ nghịch với sự dễ chịu của công việc.
-
tiền lương thay đổi tỷ lệ thuận với phí tổn học nghề.
-
tiền lương thay đổi tỷ lệ nghịch với tính không đổi của công việc
-
tiền lương thay đổi tỷ lệ thuận với sự tin tưởng đặt vào người lao động.
-
tiền lương thay đổi với xác suất thành ng.
Tuy nhiên, A.Smith không hiểu được bản chất của tiền lương. Ông chỉ thấy được
sự khác nhau về số lượng giữa tiền lương trong sản xuất hàng hóa giản đơn
trong chủ nghĩa bản. Ông quan niệm tiền lương giá cả của lao động, bởi
ông không hiểu phạm trù sức lao động. Đây một hạn chế lớn của ông.
*
Về lợi nhuận:
luận lợi nhuận của ông đầy mâu thuẫn. Theo ông, người công nhân tạo ra giá
trị vật chất chia làm hai phần: tiền lương của anh ta lợi nhuận của nhà bản.
nghĩa, ông thấy được bản chất của sự bóc lột. Mặt khác, ông phủ nhận bản chất
bóc lột của lợi nhuận khi quan niệm lợi nhuận được sinh ra bởi toàn bộ bản ứng
trước. Ông còn cho lợi nhuận khoản bồi hoàn cho việc mạo hiểm của nhà bản.
Ông khẳng định: mục đích của sản xuất bản chủ nghĩa lợi nhuận phù
hợp với lợi ích hội.
Adam Smith công khi tìm ra xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận trong
các ngành khác nhau trên sở của tự do cạnh tranh mối quan hệ giữa tỷ suất
lợi nhuận khối lượng bản đầu tư. bản đầu càng nhiều thì tỷ suất lợi
nhuận càng giảm. Như vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, bản càng được đầu
thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm. Đây xu hướng tính quy luật trong chủ
nghĩa bản, nhưng cách giải nguyên nhân của A.Smith chưa thỏa đáng. Theo
K.Marx, do cấu tạo hữu của bản xu hướng tăng lên nên tỷ suất lợi nhuận
mới xu hướng giảm xuống.
*
Về địa :
luận địa của A. Smith cũng nhiều mâu thuẫn như luận về lợi nhuận
còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Trọng nông. Địa 1 phần của sản phẩm
lao động, giống như lợi nhuận. Theo ông, địa khoản khấu trừ đầu tiên vào sản
phẩm của lao động lợi nhuận khoản khấu trừ thứ 2. Như vậy, ông đã thấy
được bản chất bóc lột của địa tô. Nhưng khi giả thích sao địa thì ông cho
rằng trong nông nghiệp địa nông nghiệp năng suất cao hơn trong các
ngành khác. Thu nhập trong công nghiệp được chia thành tiền lương lợi nhuận
còn trong nông nghiệp thì bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. A. Smith cho
rằng sản phẩm nông nghiệp được bán ra không theo giá cả thị trường theo giá
cả lũng đoạn do cầu lớn hơn cung.
Đồng thời, ông lại cho rằng địa kết quả tác động của tự nhiên, khoản trả cho
sự phục vụ đất. Với quan niệm này, bản chất của địa không bóc lột. Điều này
cho thấy ông muốn nói về địa chênh lệch I mặc chưa phân tích một cách chi
tiết về nó. Adam Smith đã sai lầm khi phủ định địa tuyệt đối, tức địa
người kinh doanh trên bất cứ loại ruộng đất nào cũng phải trả cho chủ đất. Theo
ông, kinh doanh trên ruộng đất phải nộp địa trái với quy luật giá trị. Do
Smith chưa thấy được sự khác nhau giữa giá trị giá cả sản xuất nên dẫn đến sai
lầm này.
10. luận về tái sản xuất tư bản hội.
luận về tái sản xuất của Adam Smith được xây dựng trên quan điểm của giá
trị hàng hóa bao gồm: tiền lương, lợi nhuận, địa tô. Trong quá trình phân tích, ông
đã trình bày các khái niệm: tổng thu nhập, thu nhập thuần túy, nhưng ông không
lấy tổng thu nhập làm điểm xuất phát lấy thu nhập thuần túy làm điểm xuất
phát toàn bộ luận tái sản xuất chỉ xoay quanh thu nhập thuần túy.
Mặt khác ông phân chia bản hội làm hai bộ phận: liệu sản xuất
liệu tiêu dùng, nhưng sự phân chia này chưa rành mạch, ông đã đồng nhất bản
với của cải hội, chứ không phải bộ phận dự trữ.
Hạn chế lớn nhất của a.Smith chỗ: Cho rằng sản phẩm hội chỉ thể hiện
hai phần tiền công (v) giá trị thặng (m), loại bỏ phần giá trị bản bất biến
(c), đồng nhất thu nhập quốc dân toàn bộ tổn sản phẩm hội. Theo ông giá trị
tổng sản phẩm gồm: tiền công, lợi nhuận địa tô. Từ đó dẫn đến sai lầm tiếp theo:
cho rằng tích luỹ chỉ biến giá trị thặng thành bản khả biến phụ thêm
không bản bất biến phụ thêm. Tức bỏ qua giá trị bản bất biến trong
phân tích tái sản xuất không tính đến bản bất biến phụ thêm trong phân tích
tái sản xuất mở rộng.
11. luận về lợi thế so sánh.
Adam Smith người đưa thuyết về “lợi thế tuyệt đối”. Ông cho rằng, việc
buôn bán giữa các nước diễn ra trên sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc
gia này lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược
lại quốc gia khác lại lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến
hành trao đổi cả hai nước đều lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết
chuyên môn hoá sản xuất loại hàng hoá họ lợi thế hơn.
Nhưng trong thực tế hiện tượng này không nhiều, bởi vậy thuyết này của
Adam Smith những điểm hạn chế, về sau chính Ricardo người phát triển lý
thuyết về lợi thế tuyệt đối, xây dựng thuyết về lợi thế so sánh.
IV.Đóng góp của học thuyết.
A.Smith (1723 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của
kinh tế chính trị sản, ông bậc tiền bối lớn nhất của Marx. Tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông “Nghiên cứu về bản chất nguồn gốc sự giàu của các dân tộc”.
Về thế giới quan phương pháp luận của A.Smith bản thế giới quan duy vật
nhưng còn mang tính tự phát máy móc, trong phương pháp còn song song tồn
tại cả hai phương pháp khoa học tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến
các học thuyết kinh tế sản sau này. (Tiểu Luận: Học Thuyết Kinh Tế Của Adam
Smith)
Học thuyết của A.Smith một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, nó trình
bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế
khách quan. Học thuyết kinh tế của ông cương lĩnh ràng về chính sách kinh
tế, lợi cho giai cấp sản trong nhiều năm. Xứng đáng với danh hiệu “cha đẻ
của kinh tế học hiện đại”.

Preview text:

I. Tiểu sử, tác phẩm, sự nghiệp và thời đại của Adam Smith.
-Adam Smith (sinh ngày 5 tháng 6 năm 1723 và qua đời ngày 17
tháng 7 năm 1790) là một nhà kinh tế học người Scotland, nhà triết
học đạo đức và một trong những người tiên phong trong lĩnh vực
kinh tế chính trị. Ông được biết đến như là Cha đẻ của Kinh tế học
hoặc Cha đẻ của Chủ nghĩa tư bản. Ông được sinh ra tại thị trấn
Kirkcaldy, thành phố Fife, Scotland, ông đã nghiên cứu triết học xã
hội tại Đại học Glasgow và Cao đẳng Balliol, Oxford. Ông đã thực
hiện nhiều buổi thuyết trình công cộng và rất thành công tại Đại học
Edinburgh và hợp tác với David Hume trong thời kỳ Khai sáng
Scottish. Trong cuối đời, ông làm gia sư và gặp nhiều nhà tri thức
hàng đầu trên khắp châu Âu. Và đến năm 1790 ông mất tại
Edinburgh, Scotland. Cả đời ông không kết hôn và cũng không có con cái.
-Tác phẩm nổi tiếng của ông:
+Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức (The Theory of Moral
Sentiments) (1759): Cuốn sách này nghiên cứu về đạo đức và tình cảm, đặc
biệt về khả năng đồng cảm và tương tác xã hội.
+Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia (Inquiry
into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) (1776): Cuốn sách
này thường được gọi tắt là “Sự Giàu có của các Quốc gia”. Đây là tác phẩm
hiện đại đầu tiên của kinh tế học và đã đặt nền tảng cho lý thuyết kinh tế thị
trường tự do cổ điển.
II. Đặc điểm phương pháp luận của Adam Smith.
-Phương pháp luận của Adam Smith dựa trên trật tự tự do, thể hiện trong tư tưởng trật tự
tự nhiên, cho rằng một xã hội hợp với tự nhiên là một xã hội tự do cạnh tảnh giao lư trao
đổi hàng hóa. Bằng những phương pháp trừu tượng ông đã cố gắng phân tích bản chất bên
trong của xã hội tư sản. Nhưng ông lại rằng nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế học cổ
điển là mô tả bức tranh cụ thể của đời sống kinh tế để vạch ra các chính sách kinh tế. Điều
đó dẫn đến tính hai mặt trong phương pháp luận của Adam Smith. Mâu thuẫn này dẫn đến
mâu thuẫn trong lý luận kinh tế của ông.
-Ưu điểm của học thuyết:
+Ông đã đưa ra khái niệm “bàn tay vô hình” để mô tả cơ chế tự cân bằng của thị trường
cạnh tranh. Theo ông, sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự
nhiên”, dẫn đến phúc lợi của cá nhân và hiệu quả tăng trưởng kinh tế.
+Ông là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối trong hoạt động ngoại thương.
Lý thuyết này giúp hiểu rõ hơn về cơ chế phân công lao động và tăng trưởng kinh tế.
-Nhược điểm của học thuyết:
+Lý thuyết của Adam Smith dựa trên giả định về thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó
không có thông tin không đối xứng, không có chi phí giao dịch, và không có quyền thị
trường. Thực tế, thị trường không luôn đạt đến mức cạnh tranh hoàn hảo.
+Lý thuyết của ông tập trung vào vai trò của thị trường và bỏ qua vai trò quan trọng của
nhà nước trong việc điều chỉnh và hỗ trợ kinh tế.
III. Những lý luận kinh tế cơ bản của Adam Smith. 1. Bàn tay vô hình
Bàn tay vô hình (Invisible hand) theo Adam Smith là
quan niệm rằng trong môi trường kinh tế thị trường, các cá
nhân tham gia dựa vào khát vọng tối đa hóa lợi nhuận cá
nhân của họ. Tuy nhiên, thông qua cơ chế cạnh tranh và
tương tác trên thị trường, hành động của mỗi cá nhân kết
hợp lại tạo ra lợi ích chung và thúc đẩy sự phát triển và
củng cố lợi ích cho toàn bộ cộng đồng.
Adam Smith đã đưa ra thuyết bàn tay vô hình vào những
năm cuối thế kỉ 18, và giá trị của nó vẫn được công nhận
đến ngày nay. Thuyết này mô tả khả năng điều chỉnh cung
cầu trên thị trường bằng cách khuyến khích các cá nhân
tham gia tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Qua đó, sức mạnh
của cơ chế thị trường như bàn tay vô hình định hướng người bán và người mua, phân bố
nguồn lực kinh tế đạt được hiệu quả xã hội lớn nhất mà không cần sự can thiệp của chính phủ 123.
Theo quan điểm của Adam Smith, chính phủ chỉ nên giữ chức năng quản lý và để bàn
tay vô hình tự cân bằng các lợi ích của cá nhân và hiệu quả kinh tế đạt tối đa. Bằng cách
này, con người phụng sự cho xã hội nhiều hơn anh ta chủ trương làm điều đó.
Lý thuyết bàn tay vô hình được sử dụng để miêu tả cơ chế thị trường cạnh tranh và sức
mạnh của nó trong việc đạt được lợi ích cho toàn xã hội. Adam Smith đã đề cập đến thuật
ngữ này trong tác phẩm nổi tiếng của ông, The Wealth of Nations (1776), để diễn tả cách
thị trường tự điều chỉnh cung cầu và khuyến khích các cá nhân sản xuất những thứ cần thiết cho xã hội.
Một ví dụ dễ nhận thấy của "bàn tay vô hình" trong quy luật cung cầu của thị trường là
vấn đề kiểm soát giá của các loại hàng hóa. Khi giá cả không được tự do định đoạt bởi
quy luật cung cầu hoặc bị ngăn cản thực hiện ở mức thuận mua vừa bán thì mặc nhiên sẽ
hình thành nên một thị trường ngầm mà người ta quen gọi là thị trường "chợ đen", vượt
hoàn toàn ra khỏi ý chí của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào.
Hiện nay, chỉ có một quốc gia duy nhất trên thế giới áp dụng khái niệm bàn tay vô
hình, và đó là Hoa Kỳ. Tại đây, cơ chế thị trường tự điều chỉnh được coi là một yếu tố
quan trọng trong việc đạt được lợi ích cho toàn xã hội.
2. Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản.
Adam Smith phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến. Ông cho rằng các
đại biểu được kính trọng nhất trong xã hội như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu,…
cũng giống như những người tôi tớ, không sản xuất ra giá trị nào cả.
Ông phê phán chế độ thuế khóa độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ thuế
thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích lũy của nông dân.
Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là thể chế
“dã man” ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp.
Ông bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mì vì nó gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Ông vạch rõ tính chất vô lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính chất
ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
Bên cạnh đó ông đề cao vai trò của cá nhân và ca ngợi cơ chế tự điều tiết của kinh tế thị
trường. Ông ủng hộ sở hữu tư nhân và cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh
tế. Ý tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của ông và được gọi là “bàn tay vô hình” .
Adam Smith cho rằng cần tôn trọng trật tự tự nhiên, để kinh tế phát triển trên cơ sở tự
do. Ông khuyến khích tự do cạnh tranh và chủ nghĩa “Laissez-faire” (tức là “Mặc kệ nó”).
Cuối cùng ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ “không bình thường”: là sản
phẩm của sự độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một chế độ trái với trật
tự ngẫu nhiên và mẫu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nên
kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch.
3. Phê phán chủ nghĩa trọng thương.
Adam Smith đã chỉ trích chủ nghĩa trọng thương,
một hệ thống kinh tế mà trong đó quyền lực và sự
giàu có của quốc gia được cho là tăng lên thông qua
việc xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Ông cho rằng
chủ nghĩa trọng thương hạn chế thương mại tự do và
cản trở sự phát triển của sự giàu có thực sự thông qua
việc ngăn cản sự phân công lao động và quá trình thị
trường. Smith tin rằng sự giàu có của một quốc gia
không phải là số lượng kim loại quý mà họ có, mà là
khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ thực sự thông
qua sự phân công lao động và thương mại tự do.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ. Theo ông,
sự giàu có không phải ở chỗ có tiền mà là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì với tiền.
Ông cho rằng lưu thông hàng hoá chỉ thu hút được một số tiền nhất định và không bao
giờ dung nạp quá số đó.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông cho
rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù. .nhà nước có thể
thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp
riêng lẻ như xây dựng đường sá, sông ngòi và các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát
triển kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước.
4. Phê phán chủ nghĩa trọng nông.
Adam Smith đã phê phán chủ nghĩa trọng
nông, hay còn gọi là Physiocracy, một học
thuyết kinh tế cho rằng tất cả sự giàu có đều
bắt nguồn từ đất đai và nông nghiệp. Các
Physiocrats (Những người theo học thuyết
trọng nông) tin rằng chỉ có nông nghiệp mới
là ngành sản xuất thực sự, trong khi thương
mại và công nghiệp được coi là không sinh
lợi. Smith không đồng ý với quan điểm này
và cho rằng thương mại và công nghiệp
cũng là những hoạt động có giá trị, tạo ra sự giàu có và lợi ích cho xã hội.
Ông phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường là
giai cấp không sản xuất.
Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản xuất
vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ tư bản. .
5. Lý luận về thuế khóa.
Adam Smith là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khoá của giai cấp tư sản,
chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của
nhà nước có thể từ hai nguồn: một là từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản đem lại lợi
nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt nguồn từ địa tô. lợi nhuận, tiền công.
Adam Smith đã đề xuất bốn nguyên tắc cơ bản về thuế khóa trong tác phẩm nổi tiếng
của ông, “The Wealth of Nations”. Các nguyên tắc này thường được gọi là “bốn nguyên
tắc thuế khóa của Adam Smith”, bao gồm:
1. Công bằng (Equity): Thuế nên được đánh theo tỷ lệ thu nhập, nghĩa là người có
thu nhập cao hơn nên trả nhiều thuế hơn và ngược lại.
2. Chắc chắn (Certainty): Thuế nên rõ ràng và minh bạch, mọi người nên biết hoặc
có thể dễ dàng tìm hiểu số tiền phải trả, thời gian và phương thức nộp thuế.
3. Tiện lợi (Convenience): Thời gian và phương thức nộp thuế nên thuận tiện cho người nộp thuế.
4. Kinh tế (Economy): Chi phí thu thuế nên được giữ ở mức thấp nhất có thể.
Ông tin rằng một hệ thống thuế khóa tốt nên tuân thủ các nguyên tắc trên để đảm bảo sự
công bằng và hiệu quả, đồng thời giảm thiểu gánh nặng cho người dân và nền kinh tế.
Bên cạnh đó trong tác phẩm “The Wealth of Nations” ông cũng đề cập tới hai loại thuế:
1. Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập và
không thể chuyển gánh nặng thuế cho người khác
như: địa tô, lợi nhuận, tiền công, tài sản kế thừa và thuế thu nhập cá nhân.
2. Thuế gián thu là loại thuế mà người nộp thuế có
thể chuyển gánh nặng thuế cho người khác, thường là người tiêu dùng, như thuế
giá trị gia tăng (VAT) hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt.
6. Lý luận về phân công lao động.
Adam Smith đã đưa ra một bằng chứng về sự phân công lao động làm tăng vượt
bậc năng suất lao động của một xí nghiệp nhỏ gồm 10 công nhân làm đinh ghim như sau:
“Một người chuyên kéo dây thép, một người khác nắn cho thẳng, người thứ ba
cắt dây thành những đoạn nhỏ, người thứ tư mài nhọn dây thép, người thứ năm tán
đầu đoạn dây để lắp đầu đinh ghim, để làm được đầu đinh ghim đòi hỏi phải thực
hiện hai hoặc ba thao tác; để lắm đầu đinh ghim là một việc khác hẳn, làm cho đinh
ghim trở thành trắng bóng lại là một việc khác nữa; thậm chí đóng gói đinh ghim
cũng là một nghề, và muốn làm thành một cái đinh ghim, người ta phải tiến hành
18 thao tác khác nhau. . Một xí nghiệp chỉ có 10 công nhân nhưng với máy móc
cần thiết được trang bị, khi bắt tay vào sản xuất với tất cả sự nổ lực của mình, họ
có thể cùng nhau làm ra vào khoảng 12 pao đinh ghim một ngày. Một pao có
khoảng hơn 4000 đinh ghim cỡ trung bình. Như vậy 10 người công nhân có thể
cùng nhau làm được tới 48000 đinh ghim chỉ trong một ngày công. Nếu đem chia
cho 10 người, thì một người làm được 4800 đinh ghim mỗi ngày. Nhưng nếu họ
làm ăn riêng lẻ và không kết hợp với nhau, và hơn nữa nếu họ không được huấn
luyện về nghề này, thì chắc chắn mỗi người trong số họ không thể làm nổi được 20
hoặc thậm chí một đinh ghim trong một ngày công”.
Bài học này cho thấy: sự phân công lao động là sự phân chia quá trình lao động
sản xuất thành những thao tác cho từng người thực hiện. Sự phân công lao động đã
biến những thao tác của quá trình sản xuất thành những nghề nghiệp chuyên môn
của người lao động, nhờ vậy mà làm tăng năng suất lao động của mỗi người lên
gấp bội so với lao động không có sự phân công của từng người riêng lẻ thực hiện.
Adam Smith cho rằng sự phân công lao động có thể làm tăng năng suất lao động
nhờ ba yếu tố kháu nhau, đó là:
- sự phân công lao động làm tăng kỹ năng, kỹ xảo của từng công nhân.
- sự phân công lao động làm giảm thời gian chuyển từ loại công việc này sang loại công việc khác.
- sự phân công lao động phát minh ra các loại máy chuyên dùng làm cho lao động
nhẹ nhàng hơn và một người có thể làm việc của nhiều người.
Theo Adam Smith, sự phân công lao động là kết quả của nhu cầu trao đổi, thị
trường chỉ là “một hậu quả tất yếu của thiên hướng thuộc bản chất con người. . đó
là thiên hướng muốn đổi chác hoặc trao đổi vật này lấy vật khác”.
Sự phân công lao động phụ thuộc vào mức độ trao đổi và quy mô, tính chất của thị
trường, điều kiện để thực hiện phân công là mật độ dân số cao và sự phát triển của
giao thông liên lạc. Trong một thị trường nhỏ bé, đơn giản thì sự phân công lao
động cũng đơn giản, tức là không ai muốn chuyên tâm vào một công việc gì vì
không có khả năng trao đổi sản phẩm dư thừa do sức lao động của mình làm ra để
lấy sản phẩm của người khác.
Cũng theo Adam Smith phân công lao động có 3 ưu điểm: một là tay nghề và kỹ
thuật sản xuất của người công nhân tăng lên; hai là tiết kiệm thời gian chuyển từ
dạng lao động này sang dạng lao động khác; ba là có khả năng áp dụng các phương
pháo sản xuất mới và điều kiện cho máy móc ra đời.
7. Lý luận về tiền tệ.
Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của
lịch sử trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ông đã nhìn thấy sự
phát triển của hình thái giá trị. Ông đã chỉ ra bản chất của tiền là hàng hóa đặc biệt
làm chức năng phương tiện lưu thông và đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền
tệ. Nó là phương tiện để khắc phục khó khăn của trao đổi hàng hóa trực tiếp, là
“chiếc bánh xa vĩ đại của lưu thông”. Ông là người đầu tiên khuyên nên dùng tiền giấy.
Smith là người có nhiều đóng góp khi nghiên cứu nguồn gốc và cách sử dụng tiền
tệ của các dân tộc trên thế giới. Chẳng hạn vỏ sò được sử dụng như tiền tệ ở Ấn
Độ, cá tuyết khô (Newfoundland), thuốc lá (Virginia), đồng (La Mã cổ đại), vàng
và bạc được sử dụng ở các quốc gia giàu có.
Ông đã có quan điểm đúng về số lượng tiền cần thiết trong lĩnh vực lưu thông là do giá cả quy định.
Trong lý luận của Adam Smith còn có hạn chế là: không hiểu đầy đủ bản chất của
tiền, còn nhầm lẫn giá trị tiền với số lượng tiền, không thấy hết các chức năng của tiền.
8. Lý luận về giá trị - lao động.
Adam Smith cho rằng giá trị được tạo ra từ lao động sản xuất giản đơn, lao động
chính là thước đo cuối cùng để kiểm tra giá trị, còn trong chủ nghĩa tư bản thì giá
trị chính là thu nhập. Adam Smith đã phân biệt được sự khác nhau giữa hai cách
dùng từ “giá trị”: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi với giá cả. Ông cho rằng giá trị
có hai nghĩa khác nhau, có lúc giá trị do lao động trong các ngành sản xuất vật chất
tạo ra (giá trị chính là chi phí lao động), có lúc giá trị hàng hóa bằng số lượng lao
động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hóa đó (giá trị chính là tiền công của
lao động). Việc phân biệt sự khác nhau giữa hai cách dùng từ giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi này nhằm giải thích rõ thêm là giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không có liên
quan gì đến giá trị sử dụng. Đồng thời, Adam Smith còn chứng minh mối quan hệ
giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Khi phân tích giá trị hàng hóa, ông đặt giá
trị ở hai vị trí khác nhau: trong quan hệ với số lượng hàng hóa khác thì giá trị được
biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hóa; trong nền sản xuất phát triển thì giá trị
được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Hạn chế của Adam Smith khi cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có
thể có giá trị trao đổi; giá trị hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập: “tiền
lương, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của
bất kì giá trị trao đổi nào”. Những người theo trường phái Marx cho rằng A.Smith
đã lẫn lộn giữa giá trị và thu nhập. Bên cạnh đó, ông cũng chưa phân biệt được lao
động và sức lao động, vì vậy ông không thể giải thích lao động làm thế nào có thể
tạo ra lợi nhuận. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị lao động “giá trị là do lao
động hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị”.
Bên cạnh các hạn chế vừa nêu, những lý luận giá trị lao động của A.Smith cũng
có những đóng góp quan trọng về mặt khoa học, ông là người đầu tiên trình bày
một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động, đồng thời về cơ bản ông đã kiên trì
dùng lý luận giá trị lao động để nghiên cứu vẫn đề lợi nhuận và địa tô. Đó là đóng
góp chủ yếu của ông về mặt khoa học. Với những đóng góp như thế K.Marx đã gọi
A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của công trường thủ công.
9. Lý luận phân phối của Adam Smith.
Adam Smith đã thực hiện một bước tiến so với phái Trọng Nông khi phân chia
các giai cấp trong xã hội tư sản nhằm phân tích các thu nhập của các giai cấp. Ông
phân chia thành 3 giai cấp cơ bản gắn với quyền sở hữu tư liệu sản xuất và thu nhập:
- giai cấp công nhân: thu nhập là tiền lương.
- giai cấp các nhà tư bản (bao gồm tư bản công nghiệp, nông nghiệp và thương
nghiệp) : thu nhập là lợi nhuận.
- giai cấp chủ đất: thu nhập là địa tô.
Ông cũng là người đầu tiên phân biệt sự khác nhau giữa các tầng lớp trong xã hội
và khẳng định những giai cấp cơ bản gắn với sản xuất vật chất nhận được cái gọi là
thu nhập ban đầu và các tầng lớp còn lại nhận thu nhập do phân phối lại gọi là thu
nhập thứ hai. Lý luận phân phối của A.Smith chủ yếu đề cập đến thu nhập lần đầu
của các giai cấp cơ bản. * Về tiền lương:
Tiền lương là thu nhập của công nhân, gắn với lao động của họ. Nó là sự bồi hoàn
nhờ công lao động. Như vậy, tiền lương là thu nhập có lao động, nó gắn liền với lao động.
Smith tiếp tục đưa ra thuyết tiền lương “hợp đồng’ và cho rằng người lao động
muốn có lương cao, trong khi người chủ muốn trả lương càng ít càng tốt. Rõ ràng
có một giới hạn thấp hơn tiền lương vì con người luôn sống bằng công việc của
mình, tiền lương ít ra cũng đủ để nuôi sống bản thân. Thậm chí trong hầu hết
trường hợp tiền lương có phần nhiều hơn, nếu không thì người lao động không thể
nuôi sống gia đình và cuộc chạy đua của những người lao động như thế không thể
kéo dài vượt qua thế hệ thứ nhất. Về lâu dài, Smith xem mức lương được xác định
bằng chi phí nuôi sống và tái sản xuất của công nhân. Tóm lại, lao động cũng được
tạo ra bằng chi phí không đổi, đến mức đường cong cung kao động dài hạn nằm
ngang ở bất cứ đồng lương nào chăng nữa luôn nhất quán với khái niệm của A.Smith.
Smith đã hoàn thiện và mở rộng vấn đề “sự bình đẳng của tiền lương và lợi nhuận
phát sinh từ tính chất của công việc” gồm những đặc điểm chính sau đây:
- tiền lương thay đổi tỷ lệ nghịch với sự dễ chịu của công việc.
- tiền lương thay đổi tỷ lệ thuận với phí tổn học nghề.
- tiền lương thay đổi tỷ lệ nghịch với tính không đổi của công việc
- tiền lương thay đổi tỷ lệ thuận với sự tin tưởng đặt vào người lao động.
- tiền lương thay đổi với xác suất thành công.
Tuy nhiên, A.Smith không hiểu được bản chất của tiền lương. Ông chỉ thấy được
sự khác nhau về số lượng giữa tiền lương trong sản xuất hàng hóa giản đơn và
trong chủ nghĩa tư bản. Ông quan niệm tiền lương là giá cả của lao động, bởi vì
ông không hiểu phạm trù sức lao động. Đây là một hạn chế lớn của ông. * Về lợi nhuận:
Lý luận lợi nhuận của ông đầy mâu thuẫn. Theo ông, người công nhân tạo ra giá
trị vật chất chia làm hai phần: tiền lương của anh ta và lợi nhuận của nhà tư bản.
Có nghĩa, ông thấy được bản chất của sự bóc lột. Mặt khác, ông phủ nhận bản chất
bóc lột của lợi nhuận khi quan niệm lợi nhuận được sinh ra bởi toàn bộ tư bản ứng
trước. Ông còn cho lợi nhuận là khoản bồi hoàn cho việc mạo hiểm của nhà tư bản.
Ông khẳng định: mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận và nó phù
hợp với lợi ích xã hội.
Adam Smith có công khi tìm ra xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận trong
các ngành khác nhau trên cơ sở của tự do cạnh tranh và mối quan hệ giữa tỷ suất
lợi nhuận và khối lượng tư bản đầu tư. Tư bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi
nhuận càng giảm. Như vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tư bản càng được đầu
tư thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm. Đây là xu hướng có tính quy luật trong chủ
nghĩa tư bản, nhưng cách lý giải nguyên nhân của A.Smith chưa thỏa đáng. Theo
K.Marx, do cấu tạo hữu cơ của tư bản có xu hướng tăng lên nên tỷ suất lợi nhuận
mới có xu hướng giảm xuống. * Về địa tô:
Lý luận địa tô của A. Smith cũng có nhiều mâu thuẫn như lý luận về lợi nhuận
và còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Trọng nông. Địa tô là 1 phần của sản phẩm
lao động, giống như lợi nhuận. Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản
phẩm của lao động và lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ 2. Như vậy, ông đã thấy
được bản chất bóc lột của địa tô. Nhưng khi giả thích vì sao có địa tô thì ông cho
rằng trong nông nghiệp có địa tô vì nông nghiệp có năng suất cao hơn trong các
ngành khác. Thu nhập trong công nghiệp được chia thành tiền lương và lợi nhuận
còn trong nông nghiệp thì bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. A. Smith cho
rằng sản phẩm nông nghiệp được bán ra không theo giá cả thị trường mà theo giá
cả lũng đoạn do cầu lớn hơn cung.
Đồng thời, ông lại cho rằng địa tô là kết quả tác động của tự nhiên, là khoản trả cho
sự phục vụ đất. Với quan niệm này, bản chất của địa tô là không bóc lột. Điều này
cho thấy ông muốn nói về địa tô chênh lệch I mặc dù chưa phân tích một cách chi
tiết về nó. Adam Smith đã sai lầm khi phủ định địa tô tuyệt đối, tức địa tô mà
người kinh doanh trên bất cứ loại ruộng đất nào cũng phải trả cho chủ đất. Theo
ông, kinh doanh trên ruộng đất mà phải nộp địa tô là trái với quy luật giá trị. Do
Smith chưa thấy được sự khác nhau giữa giá trị và giá cả sản xuất nên dẫn đến sai lầm này.
10. Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội.
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith được xây dựng trên quan điểm của giá
trị hàng hóa bao gồm: tiền lương, lợi nhuận, địa tô. Trong quá trình phân tích, ông
đã trình bày các khái niệm: tổng thu nhập, thu nhập thuần túy, nhưng ông không
lấy tổng thu nhập làm điểm xuất phát mà lấy thu nhập thuần túy làm điểm xuất
phát và toàn bộ lý luận tái sản xuất chỉ xoay quanh thu nhập thuần túy.
Mặt khác ông phân chia tư bản xã hội làm hai bộ phận: tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng, nhưng sự phân chia này chưa rành mạch, ông đã đồng nhất tư bản
với của cải xã hội, chứ không phải là bộ phận dự trữ.
Hạn chế lớn nhất của a.Smith là ở chỗ: Cho rằng sản phẩm xã hội chỉ thể hiện ở
hai phần là tiền công (v) và giá trị thặng dư (m), loại bỏ phần giá trị tư bản bất biến
(c), đồng nhất thu nhập quốc dân và toàn bộ tổn sản phẩm xã hội. Theo ông giá trị
tổng sản phẩm gồm: tiền công, lợi nhuận và địa tô. Từ đó dẫn đến sai lầm tiếp theo:
cho rằng tích luỹ chỉ là biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm mà
không có tư bản bất biến phụ thêm. Tức là bỏ qua giá trị tư bản bất biến trong
phân tích tái sản xuất và không tính đến tư bản bất biến phụ thêm trong phân tích tái sản xuất mở rộng.
11. Lý luận về lợi thế so sánh.
Adam Smith là người đưa lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối”. Ông cho rằng, việc
buôn bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc
gia này có lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược
lại quốc gia khác lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến
hành trao đổi cả hai nước đều có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết
chuyên môn hoá sản xuất loại hàng hoá mà họ có lợi thế hơn.
Nhưng trong thực tế hiện tượng này không nhiều, bởi vậy lý thuyết này của
Adam Smith có những điểm hạn chế, về sau chính Ricardo là người phát triển lý
thuyết về lợi thế tuyệt đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh.
IV.Đóng góp của học thuyết.
A.Smith (1723 – 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của
kinh tế chính trị tư sản, ông là bậc tiền bối lớn nhất của Marx. Tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông là “Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc”.
Về thế giới quan và phương pháp luận của A.Smith cơ bản là thế giới quan duy vật
nhưng còn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp còn song song tồn
tại cả hai phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến
các học thuyết kinh tế tư sản sau này. (Tiểu Luận: Học Thuyết Kinh Tế Của Adam Smith)
Học thuyết của A.Smith là một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, nó trình
bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế
khách quan. Học thuyết kinh tế của ông có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh
tế, có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều năm. Xứng đáng với danh hiệu “cha đẻ
của kinh tế học hiện đại”.
Document Outline

  • I.Tiểu sử, tác phẩm, sự nghiệp và thời đại của Adam
  • II.Đặc điểm phương pháp luận của Adam Smith.
  • III.Những lý luận kinh tế cơ bản của Adam Smith.
    • 6.Lý luận về phân công lao động.
    • 7.Lý luận về tiền tệ.
    • 8.Lý luận về giá trị - lao động.
    • 9.Lý luận phân phối của Adam Smith.
    • 10.Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội.
    • 11.Lý luận về lợi thế so sánh.
    • IV.Đóng góp của học thuyết.