















Preview text:
lOMoARcPSD|61096548
ngữ văn 12 (Trường Đại học Mở Hà Nội)
Sóng
( Xuân Quỳnh )
MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
2.1/ Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua nhu cầu tự nhận thức và khát vọng về một tình yêu thủy chung, bất diệt. 2.2/ Nắm được những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ ( kết cấu, xây dựng hình ảnh, nhịp điệu,…).
|
A. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ NỮ THI SĨ XUÂN QUỲNH
1. Tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh 1942, mất 1988.
-Quê ở làng La Khê, Hoài Đức, Hà Đông .
-Xuất thân từ một gia đình công chức - Mồ côi mẹ từ nhỏ, bố sớm đi bước nữa, ở với bà nội.
- Chỉ học đến lớp 6. Năm 13 tuổi, học làm diễn viên múa.
- Đã từng làm thư viện; hoạt động xã hội; biên tập viên báo Văn nghệ, Nhà xuất bản Tác phẩm mới; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
2.Ba yếu tố ảnh hưởng đến hồn thơ Xuân Quỳnh:
- Cảnh sắc thiên nhiên của một vùng quê nổi tiếng về the lụa Hà Đông.
- Bố là một nhà giáo yêu thích văn học. - Bà và chị thuộc nhiều ca dao dân ca.
- Cuộc đời Xuân Quỳnh có nhiều bất hạnh:
Mặc dù khuôn mặt rất đẹp, trẻ hơn tuổi, đôi mắt rất tinh anh, nhưng hai bàn tay thì lại quá Trương Chi :
“Bàn tay em ngón chẳng thon dài
Vệt chai cũ đường gân xanh vất vả
Em đánh chắc chơi chuyền tuổi nhỏ
Hái rau dền rau diệu nấu canh Tập vá may tết tóc cho mình Rồi ôm mặt hai bàn tay khóc mẹ”.
(Bàn tay em)
Bàn tay ấy báo trước một số phận luôn đánh đu với hạnh phúc:
- Thiếu hụt tình thương gia đình.
- Li hôn với chồng là một nhạc công của Đoàn Văn công Trung ương. Năm 1973, kết hôn lại với nhà thơ, nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ (nhỏ hơn Xuân Quỳnh 6 tuổi, cũng đă một lần li hôn với nghệ sĩ Tố Uyên). Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ tuy sống trong sự hạn hẹp về vật chất nhưng rất hạnh phúc, say mê sáng tác, sinh được cháu trai Lưu Quỳnh Thơ.
- Năm 1987, Xuân Quỳnh bị bệnh tim.
- Ngày 29/8/1988, trên đường từ Đồ Sơn về Hà Nội, bị tử nạn cùng Lưu Quang Vũ và con Lưu Quỳnh Thơ tại Hải Dương do một tai nạn giao thông khủng khiếp.
- Tác phẩm chính: thơ Tơ tằm- Chồi biếc (1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989), Bầu trời trong quả trứng (thơ viết cho thiếu nhi, 1982), truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn.
Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh:
Xuân Quỳnh viết nhiều đề tài khác nhau, nhưng Tình yêu vẫn là đề tài chính. Xuân Quỳnh được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau năm 1975.
Thơ Xuân Quỳnh mang tính tự truyện, là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn hậu, chân thành, vừa nồng nhiệt, hồn nhiên, táo bạo, giàu trực cảm, vừa dịu dàng, thiết tha, say đắm, lắng sâu những trải nghiệm, suy tư trong khát vọng về hạnh phúc đời thường, gắn liền với thiên chức làm vợ, làm mẹ.
Cái tôi thi sĩ trong thơ Xuân Quỳnh là cái tôi giàu vẻ đẹp nữ tính; rất thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Đó là cái tôi luôn thổn thức lo âu về sự tàn phai, đổ vỡ trên đường đời nhiều gieo neo, bất trắc(Lời yêu mỏng mảnh như màu khói - Ai biết lòng anh có đổi thay; Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn - Hôm nay yêu mai có thể xa rồi).
Đó là cái tôi coi tình yêu là cứu cánh (Đó tình yêu em muốn nói cùng anh - Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng - Lòng tốt để duy trì sự sống - Cho con người thực sự người hơn).
Chính vì thế mà cái tôi đó luôn thể hiện khát vọng vươn tới một tình yêu đích thực, vĩnh cửu, vượt lên trên sự hữu hạn của kiếp người (Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ).
B. NHỮNG KIẾN THỨC CHUNG VỀ BÀI THƠ “SÓNG”
SÓNG
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên ?
Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu ?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.
Biển Diêm Điền, 29-12-1967
(Hoa dọc chiến hào, NXB Văn học, Hà Nội, 1968)
- Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1967, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong “Hoa dọc chiến hào” (1968). Ở thời điểm này, tuy mới 25 tuổi, nhưng Xuân Quỳnh đã nếm trải vị buồn của tình yêu.
- Kết cấu:
2.1/ Sóng là hình tượng bao trùm toàn bài thơ :
- Sóng là một hiện tượng tự nhiên, có hai đặc điểm:
+ Không ngừng hoạt động và hoạt động mạnh mẽ.
+ Tồn tại vĩnh hằng ở hai trạng thái: sóng nổi trên bề mặt của nước, sóng chìm dưới lòng sâu của nước.
Với hai đặc điểm ấy, sóng có khả năng thể đạt tình yêu- một phạm trù đầy biến ảo nhưng rất thực.
- Vì thế mà không riêng Xuân Quỳnh, nhiều thi nhân từ xưa đến nay đã chọn sóng để thể đạt tình yêu:
+ Ca dao: Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em.
+ Nguyễn Du: Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có ciều lả lơi.
(Truyện Kiều)
+ Xuân Diệu: Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
( Biển)
+Chế Lan Viên: Anh xa em như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em
( Chùm nhỏ thơ yêu)
. – Xưa nay, nam giới thường giành quyền chủ động trong yêu thông qua hình tượng sóng (Sóng ở trạng thái động, bờ ở trạng thái tĩnh). Chọn sóng làm hình tượng để biểu đạt tình yêu của mình, Xuân Quỳnh đã sống thực với chính mình, đã vượt qua lối mòn để giành quyền chủ động trong yêu. Cứ mỗi lần hình tượng sóng xuất hiện là mỗi lần nữ sĩ bộc bạch những cung bậc khác nhau của một trái tim yêu thiết tha, nồng cháy.
2.2/ Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, sự hòa hợp giữa hai nhân vật trữ tình Sóng và Em .
Sóng trong quan hệ với Bờ là sóng biển.
Em trong quan hệ với Anh là sóng lòng.
- Lúc “Sóng giống như Em” là lúc chủ thể trữ tình phân thân để chiêm nghiệm về sóng, về mình trong yêu. Trong cái nhìn và cảm nhận của Em, Sóng là sóng nước, là nỗi khát khao của biển, sóng ngàn năm ru vỗ bến bờ để biển - bờ hòa nhập.
- Còn lúc “Sóng cũng là Em” chính là lúc chủ thể trữ tình hóa thân để nói lên tiếng nói của mình trong khát vọng tình yêu của một tâm hồn giàu nữ tính. Trong trường hợp này, sóng và em cộng hưởng, hòa nhập: sóng là em, em là sóng. Sóng luôn thao thức, xao động, tự biểu hiện mình để hiểu mình hơn.
Trên cách hiểu đó, bài thơ được kết cấu bởi ba phần với các ý thơ cụ thể như sau:
- Phần 1(khổ 1 - khổ 2): sóng trước cái nhìn và cảm nhận của em (em và sóng có khoảng cách):
+ Khổ 1: Sóng tồn tại hai thái cực đối nghịch nhưng thống nhất: dữ dội, ồn ào và dịu êm, lặng lẽ; Sóng từ bỏ dòng sông cạn hẹp, tìm ra tận biển để tự do vẫy vùng giữa mênh mông đại dương. Cũng như tâm hồn em, tâm hồn người con gái đang yêu: khi nồng nàn, mạnh bạo, sôi nổi, lúc rạo rực, dịu dàng, kín đáo; không chịu chấp nhận sự nhỏ hẹp, tầm thường, luôn vươn tới cái lớn lao, cao thượng để đồng cảm, đồng điệu.
+ Khổ 2: Sóng là nỗi khát khao của biển, ngàn năm ru vỗ bến bờ để sóng bờ hòa nhập. Cũng như nỗi khát vọng tình yêu luôn bồi hồi trong ngực trẻ, trong trái tim em để em anh chung hợp.
- Phần 2(khổ 3 - khổ 8): sóng đồng hành cùng em, sóng và em hô ứng cho nhau (em và sóng tương hợp nhau):
+ Khổ 3-4: Cội nguồn bí ẩn của tình yêu.
+ Khổ 5: Nỗi nhớ vượt thời gian.
+ Khổ 6: Nỗi nhớ vượt không gian.
+ Khổ 7: Niềm tin tương phùng hội ngộ.
+ Khổ 8: Sức mạnh của tình yêu; cũng là dự cảm lo âu trước cái mỏng manh, hữu hạn của tình yêu (có hai cách hiểu về khổ thơ này).
- Phần 3 (khổ 9): em hóa thân thành sóng để vĩnh hằng trong biển cả tình yêu (em và sóng thống nhất).
3. Âm điệu của bài thơ:
Âm điệu của bài thơ “Sóng” là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa hơn, chính là nhịp của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc trong trái tim của nữ sĩ tình yêu. Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh.
Thể thơ năm chữ cùng với sự luân phiên đắp đổi bằng trắc, tạo ra sự linh hoạt, phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biển, cũng là nhịp sóng lòng. Từng cặp câu là từng đợt sóng. Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống thì con sóng khác đã trào lên. Sóng muôn màu muôn dáng, khi bổng khi trầm, khi lên khi xuống nối tiếp nhau, và cứ thế mà khi thì dịu êm, khoan thai, khi thì dồn dập, dữ dội. Điều đó rất hợp với những trạng huống tình cảm không dứt trong tình yêu.
C. PHÂN TÍCH KẾT HỢP BÌNH GIẢNG BÀI THƠ “SÓNG”
(CẢM NHẬN BÀI THƠ “SÓNG”)
I/ Mở bài:
Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh (1942-1988) sinh ra ở Hà Tây, lớn lên giữa đô thành Hà Nội. Ngót một chục tập thơ đã xuất bản của chị đều da diết, phấp phỏm với mọi buồn vui của dân tộc trong những ngày đánh Mĩ cũng như trong cuộc sống đời thường. Bên cạnh đó, Xuân Quỳnh còn là một nhà thơ của tình yêu. Nếu Xuân Diệu được xưng tụng là “Ông hoàng của thơ tình” thì Xuân Quỳnh cũng được tôn vinh là “Nữ sĩ của tình yêu”. Nét đặc sắc của thơ tình Xuân Quỳnh đã làm cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại có được tiếng nói trực tiếp bày tỏ khát vọng tình yêu của một người phụ nữ mãnh liệt mà chân thành. Cùng với bài thơ “Thuyền và biển”, bài thơ “Sóng” được sáng tác ngày 29/12/1967 tại vùng biển Diêm Điền, rút từ tập thơ “Hoa dọc chiến hào”(1968) được xem là hai bài thơ thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và của thơ Việt Nam hiện đại nói chung.
II/ Thân bài:
1/ Cảm nhận chung về bài thơ:
1.1/ Sóng là trái tim dữ dội và dịu êm của Xuân Quỳnh. Sức mạnh và vẻ đẹp tâm hồn của Xuân Quỳnh dồn vào những tìm tòi, khám phá xoay quanh hình tượng sóng. Ở đó, hình tượng sóng là một ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. “Sóng và em” là một cặp hình tượng quấn quýt, song hành, hô ứng cho nhau trong suốt bài thơ. Có lúc, sóng và em được phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật sự tương đồng. Có lúc sóng và em lại hòa nhập vào nhau để tạo nên một sự âm vang , cộng hưởng. Và có thể khẳng định rằng: qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tự bạch những bí ẩn và mãnh liệt của tình yêu - một phạm trù rất thực nhưng vô cùng biến ảo, trường cửu, muôn thuở muôn nơi, không có gì xa lạ với con người.
1.2/ Bài thơ có âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi ra nhịp sóng dồn dập, liên tiếp vỗ bờ, lúc sôi nổi, mạnh mẽ, lúc lắng dịu, nhẹ êm. Âm hưởng này được tạo nên bằng những dòng thơ năm chữ liền mạch, đi theo từng cặp, tràn từ câu này sang câu khác với nhịp thơ linh hoạt, phóng túng, được nối vần qua các khổ thơ liên tiếp. Nhịp sóng đó chính là nhịp lòng, là điệu hồn Xuân Quỳnh đang chất chứa những khát khao, rạo rực, chảy trôi giữa dòng đời mênh mang, vô hạn.
2/ Cảm nhận các khổ thơ:
2.1/ Khổ thơ 1-2:
2.1a/ Mở đầu bài thơ, hình ảnh con sóng được gợi lên với những trạng thái đối nghịch
nhau:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
- Xưa nay, tình yêu bao giờ cũng có nhu cầu chất chứa và giãi bày. Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng làm phương tiện để chiêm nghiệm chính mình, để san sẻ nỗi niềm.
Thi sĩ đã khám phá hai phạm trù đối lập của con sóng muôn đời: dữ dội - ồn ào, dịu êm - lặng lẽ. Con sóng đó đã là biểu tượng con tim người con gái đang yêu - bao giờ cũng tồn tại hai thái cực. Đây là hai câu thơ mang tính tự bạch, tự thú, chân thành, vừa táo bạo, vừa êm đềm.
Táo bạo vì nó quá mãnh liệt, đến độ không giấu diếm theo kiểu rất ồn ào, dữ dội:
“Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Chờ mai trời sáng ra đường gặp anh”
(Ca dao)
Êm đềm vì sau những dữ dội, ồn ào, tình yêu vẫn lắng về phía dịu êm, lặng lẽ mà ca dao cũng đã từng thể hiện:
“Thò tay bứt một cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ”
(Ca dao)
- Điều này rất phù hợp với cách sắp xếp chữ nghĩa. Xuân Quỳnh đã để cho “dữ dội”, “ồn ào” đứng ở đầu dòng thơ; còn “dịu êm”, “lặng lẽ” thì đặt cuối dòng thơ. Vì là phái yếu, phái đẹp, nên con sóng nữ tính phải đỗ về “dịu êm”, “lặng lẽ”. Đó là điều cố hữu mang tính phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.
2.1b/ Dẫu sao con sóng quen thuộc cũng đã trở nên lạ lùng, khó lí giải. Sự mâu thuẫn từ hai phía đối cực của sóng đã buộc sóng phải từ bỏ dòng sông cạn hẹp để tìm ra tận biển, để được tự do, vùng vẫy suốt đời. Nghĩa là Xuân Quỳnh cũng đã thấy được chính mình khi để sóng xưng mình” một cách rất dễ thương: “Sông không hiểu nổi mình - Sóng tìm ra tận bể”. Từ đó mà ví mình như con sóng, phải chối bỏ cái nhỏ hẹp, tầm thường, không nhẫn nhục, cam chịu, phải vươn tới cái lớn lao, tốt lành để được đồng cảm, đồng điệu trong một tình yêu đích thực. Có như vậy thì mới được “toàn tâm, toàn trí, toàn thân, toàn hồn”(Xuân Diệu) trong yêu.
2.1c/ Chính vì thế mà ở khổ thơ thứ hai, sóng đã chuyển sang người vừa đột ngột, vừa dễ hiểu:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
- Từ “ngày xưa” liên kết với từ “ngày sau” đã làm cho cái muôn đời được khẳng định. Sóng trường tồn - Tâm hồn và Tình yêu của người con gái mãi mãi vĩnh hằng.
- Mỗi con sóng là mỗi niềm khát khao của biển. Mỗi cung bậc bồi hồi là mỗi nỗi khát vọng tình yêu trong ngực trẻ. Quả là thú vị khi Xuân quỳnh so sánh giữa sóng với nỗi khát vọng tình yêu, giữa biển cả mênh mông với trái tim trong ngực trẻ. Từ đó, mới thấy rằng, câu nói của Thomas Moore là rất đúng: “Trên đời chẳng có gì ngọt ngào bằng nửa ngọt ngào của giấc mộng tình yêu thời tuổi trẻ”; hoặc Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng đã rất cùng hội cùng thuyền với Xuân Quỳnh khi ông viết: “Hãy để cho trẻ con nói cái ngon của kẹo, hãy để cho tuổi trẻ nói hộ tình yêu”.
- Xuân Quỳnh cũng đã lựa chọn từ ngữ thật chính xác để chuyển tải trọn vẹn nỗi lòng mình. Ở đây, thi sĩ nói đến “khát vọng tình yêu” chứ không nói đến “ước vọng tình yêu”. “Ước vọng” chỉ mới là ước và mong. Còn “khát vọng” thì đã là sự đam mê, cháy bỏng, cuồng nhiệt, không giới hạn. Đây cũng là một nét đặc trưng nhất của tình yêu. Tình yêu thật sự bao giờ cũng mãnh liệt, nồng nàn. Điều đó, văn học dân gian, thơ ca trung đại, thơ ca hiện đại đã chứng minh rất rõ. Và Xuân Quỳnh thì cũng chẳng kém gì khi cái nữ tính rụt rè của chị quyện hòa với khát vọng tình yêu trong “Thuyền và biển”:
“…Một đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Cũng có lúc vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền Vì tình yêu muôn thuở Có bao giờ đứng yên”.
*Sơ kết khổ 1-2: Qua cái nhìn và cảm nhận của Xuân Quỳnh, ta thấy chị đã xoay trở con sóng để khám phá nó theo nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn có chiều sâu trên cả hai phương diện: cảm xúc và nhận thức.
2.2/ Khổ thơ 3-8:
Từ đối tượng được cảm nhận ở phần trên, sóng đã đổi thành đối tượng suy tư theo chiều hướng chủ thể trữ tình em đồng hành cùng sóng, sóng và em hô ứng cho nhau.
2.2a/ Khổ 3-4:
- Xưa nay, đã có biết bao người bị tình yêu làm cho mù quáng, quên đi tất cả. Họ chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì. Họ chỉ biết nhìn vào cõi hư vô, đắm chìm trong ngây ngất đầy mộng ước. Những trường hợp “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề nuối tiếc”(Lời bài hát) là những trường hợp không phải do chai sần, vô cảm, cũng không phải do buông xuôi cho số phận, mà đó là sự vô lo đáng ngại. Với Xuân Quỳnh, chị hoàn toàn không như thế. Chị luôn khao khát một hạnh phúc đời thường bình dị, gắn liền với thiên chức làm vợ, làm mẹ giữa cuộc đời. Mà cuộc đời là một bài toán nhiều rối rắm, chưa kể đến chuyện bể dâu. Cho nên Xuân Quỳnh đã phải nghĩ suy một cách đầy lo âu, không dám hời hợt, vì tình yêu quá ư nồng cháy:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”
Từ cái nền hoành tráng của thiên nhiên - “Trước muôn trùng sóng bể”, dòng suy tư cuồn cuộn lên như sóng khôn cùng. Điệp ngữ “em nghĩ về” được nhắc đi nhắc lại trong phép lặp cú pháp là phương thức thể hiện sự triền miên, dai dẳng của suy tư. Càng suy tư, Xuân Quỳnh càng có nhu cầu lí giải về anh và em, về biển lớn, về tình yêu. Và chị đã đối thoại với vũ trụ bao la: “Từ nơi nào sóng lên?”
Nếu truy tìm cội nguồn của sóng với tư cách là một hiện tượng tự nhiên thì không có gì khó. Bởi vậy, Xuân Quỳnh đã lí giải ngay: “Sóng bắt đầu từ gió”. Cái chất trẻ con trong mỗi nhà thơ, trong Xuân Quỳnh đã làm cho chị bày tỏ một cách đầy vô tư, rất tự nhiên. Và chị đã hỏi tiếp: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Đến đây, chị đã lắc đầu nhè nhẹ, đầy ngúng nguẩy, nũng nịu như âu yềm, vỗ về người mình yêu và tình yêu của mình: “Em cũng không biết nữa, khi nào ta yêu nhau”.
- Trong tư tưởng phương Đông, người ta cho rằng: nhận thức về cái bản ngã là khó nhất. Tình yêu lại là cõi tâm linh sâu kín nhất của bản ngã. Vì thế, Xuân Quỳnh đã rât tâm đắc với điều mà Pascan đã nói: “Trái tim có qui luật riêng mà lí trí không thể hiểu được”. Tình yêu đương nhiên là phải có lí trí. Nhưng tình yêu trước hết vẫn là câu chuyện của trái tim. Cho nên không thể dùng lí trí để xác định chính xác “vì sao ta yêu nhau? ta yêu nhau từ khi nào?”. Nghĩa là không thể dùng lí trí, mà phải dùng tình cảm để lí giải “cái thuở ban đầu lưu luyền ấy, ngàn năm hồ dễ mấy ai quên” (Thế Lữ).
Từ đó mà Xuân Quỳnh đã đảo trật tự hai dòng thơ, chuyển trật tự “lí trí – tình cảm” thành trật tự “tình cảm – lí trí”. Chị không nói “khi nào ta yêu nhau – em cũng không biết nữa”, mà lại nói “em cũng không biết nữa – khi nào ta yêu nhau”. Nói như vây quả là thú vị, chân thành. Nói như vậy là thể hiện sự bó tay, bất lực trong việc lí giải ngọn nguồn của tình yêu. Mà cũng phải, chỉ một nụ cười bất chợt, một ánh mắt bâng quơ, một câu nói vô tình… cũng đủ để làm cho trái tim loạn nhịp. Chỉ một khoảnh khắc mà đã thế, huống chi “nỗi khát vọng tình yêu bồi hồi trong ngực trẻ” mãi miên man từ ngày này qua tháng nọ, ai mà trả lời cho được! Ngay cả Ông hoàng thơ tình cũng phải đầu hàng:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”.
2.2b/ Khổ 5-6:
+Khổ 5: Dòng suy tư của Xuân Quỳnh lại tiếp tục lắng chìm trong sóng nước, vươn dài, trải dài theo thời gian nhằm bộc bạch một tình yêu duy nhất, đắm say:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đền anh
Cả trong mơ còn thức”
- Từ “con sóng” được lặp lại ba lần ở ba dòng thơ liên tiếp nhau là một ấn tượng soi hồn mình của Xuân Quỳnh trong quá trình biểu đạt nỗi nhớ. Hai hình ảnh tương phản, đối lập “dưới lòng sâu – trên mặt nước” của con sóng có ý nghĩa khẳng định: trong mọi trạng huống tồn tại, dù hiển hiện hay lắng chìm, sóng vẫn luôn nhớ đến bờ. Nỗi nhớ ấy vượt qua mọi khoảnh khắc của ngày và đêm, 24/24 đều không ngủ được vì nhớ. Xem ra nỗi nhớ ấy đã có trong ca dao theo kiểu : “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi than rơm”; “Đêm nằm lưng chẳng tới giường, chờ mai trời sáng ra đường gặp anh”. Xem ra cũng chẳng khác gì với nỗi nhớ của chàng trai trong thơ Xuân Diệu:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm ! Em ơi !”
(Tương tư chiều)
Ở bốn câu thơ trên, Xuân Quỳnh đã bộc lộ nỗi nhớ một cách gián tiếp bằng cách nhờ con sóng nói hộ nỗi nhớ vượt thời gian. Có điều, nếu chỉ có thế - thức vì nhớ , nhớ khi thức thì chưa nói hết được cái nỗi nhớ đã ăn sâu vào tiềm thức của chị. Do đó mà chị đã giành sóng để trực tiếp nói thẳng cái điều muốn nói : “lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ còn thức”. Đó đích thực là nỗi nhớ vượt lên trên mọi sự hạn định của thời gian. Chị đã nhớ người thương cả khi thức, khi ngủ. Như vậy, thời gian sinh hoạt còn có giới hạn bởi thức và ngủ, còn thời gian tình yêu thì phá vỡ mọi giới hạn, ăn sâu vào tâm não để trong giấc mơ vẫn còn thao thức một cách khôn cùng. Phải là một tình yêu say mê, chung thủy mới tạo ra được một hệ quả nhớ nhung như thế. Điều này được Xuân Quỳnh bộc lộ rất hay trong bài“Thuyền và biển”: “Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh Em chỉ còn bão tố”.
+ Khổ 6:
Vượt lên trên sự hạn định của thời gian, dòng suy tư của Xuân Quỳnh lại mở ra muôn chiều muôn hướng:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Hai từ “xuôi”, “ngược” đã được Xuân Quỳnh dùng trái với lệ thường. Thông thường, người đời hay nói “xuôi Nam, ngược Bắc”.Ở đây, Xuân Quỳnh nói “xuôi Bắc, ngược Nam”. Cách nói ấy thể hiện một linh cảm về đường đời bất trắc theo kiểu “trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân…”(ca dao) mà những người yêu nhau có thể gặp phải. Thế nhưng, tiếp nối tình yêu truyền thống – “Đói lòng ăn một trái sim, hớp một ngụm nước đi tìm người thương”, “thương nhau ba bốn núi cũng trèo, năm sáu sông cũng lội, bảy tám chín mười đèo cũng qua” (ca dao), nữ sĩ Xuân Quỳnh đã bất chấp mọi trở lực, kể cả hiểm họa để vượt qua tất cả. Dù là phải xuôi phương Bắc, phải ngược phương Nam, bất cứ nơi nào giữa không gian bốn phương tám hướng, kể cả trăm phương nghìn hướng, chiếc kim la bàn của trái tim tình yêu nơi Xuân Quỳnh, nơi “em” luôn định vị về một phương duy nhất: PHƯƠNG ANH, vì ở đó có người mà em vô cùng yêu quí. Điều này chính chị đã từng nói một cách nôm na mà chắc nịch, giản dị mà triết lí ở một bài thơ khác:
“Con tàu nhằm phía trước cứ lao nhanh Riêng nỗi nhớ cứ ngược chiều quay lại”.
Rõ ràng, giữa cái thiên biến vạn biến của không gian đất trời, chị đã khẳng định cái bất biến trong không gian tâm hồn. Cách nói đối lập của chị theo kết cấu của kiểu câu “dẫu A nhưng B” đã tô đậm một nét đẹp tâm hồn duy nhất, thủy chung của người con gái, người phụ nữ đang yêu với một tình yêu đích thực.
* Sơ kết khổ 5-6: Bằng thời gian và không gian nghệ thuật, Xuân Quỳnh đã bộc bạch một tình yêu hiến dâng, thắp lên ngọn lửa tin yêu và hi vọng ở không chỉ riêng chị mà còn có thể có trong mỗi chúng ta.
2.2c/ Khổ 7:
- Ngọn lửa tin yêu và hi vọng dĩ nhiên phải được thể hiện bằng một khát vọng. Đó là khát vọng được duy trì và phát triển trên cơ sở những lo âu, sợ hãi. Chính Xuân Quỳnh, cũng như bao người con gái, phụ nữ khác, vì quá yêu nên lắm lúc bị những nỗi ám ảnh, xót xa trong tình trường dâu bể nặng đè:
“Lời yêu mỏng mảnh như màu khói Ai biết tình anh có đổi thay”.
(Hoa cỏ may)
- Tuy có tâm trạng ấy, nhưng vì quá tha thiết với tình yêu, vì quá sợ mất người mình yêu, nên bằng tấm lòng chung thủy của mình, Xuân Quỳnh đã khẳng định một tương lai chung hợp, đẹp đẽ:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”.
Lại một lần nữa, kiểu câu nhượng bộ lại xuất hiện, nhưng không phải là cấu trúc “dẫu A nhưng B” như trước, mà là cấu trúc “vẫn B dù A”. Đây không phải là một sự ngẫu nhiên, mà là một sự in hình tiềm thức trên dòng thơ khi hồn thơ tuôn chảy. Ý nhượng bộ nằm ở vế trước trong khổ thơ thứ sáu, nằm ở vế sau trong khổ thơ thứ bảy. Điều này cho ta cảm hiểu thêm: với Xuân Quỳnh, chị luôn luôn bị những trở lực trên đường đời ám ảnh, càng bị ám ảnh, chị càng tin mình sẽ vượt được qua. Do đó, chị đã nói cái điều hiển nhiên của qui luật vũ trụ: giữa biến cả mênh mông với trăm ngàn con sóng, không có con sóng nào là không tới bờ “dù muôn vời cách trở”. Hai chữ “muôn vời” (không phải “muôn vàn”) mà Xuân Quỳnh dùng đã giúp cho chị quả quyết hơn trong việc mượn cái qui luật hiển nhiên của vũ trụ để nói lên cái điều tất yếu của qui luật con tim: cũng như sóng tới bờ, em chắc chắn sẽ có ngày cùng anh hạnh phúc.
2.2d/ Khổ 8:
Từ niềm tin mãnh liệt về một cuộc lương duyên, Xuân quỳnh đã tiếp tục suy tư vế sức mạnh để đến với tình yêu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa”.
Bằng lối nói so sánh, ẩn dụ, bằng cách lặp lại cấu trúc “tuy A vẫn B” của kiểu câu nhượng bộ, Xuân Quỳnh đã thể hiện một nỗi lo âu, trăn trở của một hồn thơ nhạy cảm, gắn liền với thiên chức làm vợ, làm mẹ giữa dòng đời chảy xiết, nhiều sóng gió, phong ba. Chị đã ưu tư nhiều về tình yêu. Và theo chị, tình yêu như năm tháng nhẫn nại đi qua mọi cuộc đời mặc dù cuộc đời là rất dài. Tình yêu như mây tự do, dũng cảm bay qua mọi biển cả mặc dù biển cả là vô cùng mênh mông, rộng lớn. Rõ ràng, Xuân quỳnh đã khẳng định hành trang của mình, của con người trên hành trình đi đến bến bờ hạnh phúc cần phải có: lòng kiên nhẫn, khát vọng tự do, tinh thần dũng cảm. Ba yếu tố đó là điều kiện cần và đủ để tình yêu thăng hoa.
Lúc viết bài thơ “Sóng”(1967), Xuân Quỳnh khoảng 25 tuổi. Dù đã có gia đình, đã trải qua kinh nghiệm buồn về tình yêu, nhưng chị vẫn đang độ trẻ trung, bồng bột, sôi nổi trong cái thời “Chồi biếc” từng được biểu hiện qua “Mùa hoa roi”, “Thuyền và biển”, qua nỗi nhớ vượt không gian, thời gian. Đó là cơ sở để Xuân Quỳnh lí tưởng hóa tình yêu, coi tình yêu là vĩnh viễn.
2.3/ Khổ 9:
- Nhưng thực tại quá phũ phàng. Đời người “tuy dài thế” nhưng “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”(Nguyễn Công Trứ) . Trong tương quan với năm tháng vô cùng vô tận của cuộc đời chung thì mỗi đời người quả là quá ngắn. Nó “như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”(Nguyễn Công Trứ). Điều này đã làm cho Xuân Quỳnh lo âu, có phần nuối tiếc trước cái hữu hạn của cuộc đời con người, cái mong manh của tình yêu như Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng”:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời…”
Điều đó, chính Xuân Quỳnh đã nói ở khổ thơ thứ tám ở trên, và ở nhiều bài thơ khác theo cảm thức:
“Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”
- Để chối bỏ cái “xa” ấy, Xuân Quỳnh không thể làm thần thánh để “tắt nắng, buộc gió” nhằm níu giữ thời gian và ôm ghì hạnh phúc, chị cũng không có chủ trương sống “giục giã”, “vội vàng” như Xuân Diệu theo kiểu “ôm, riết, thâu, cắn” cho “chếnh choáng”, cho “đã đầy”, cho “no nê” giữa lúc “mùa chưa ngả chiều hôm”.
Chị đã phải chấp nhận cái “xa” theo qui luật sinh tử trong tâm thế muốn mãi mãi được
“gần”:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”.
Đó là những thao thức, rạo rực của một khát vọng hóa thân nảy sinh từ một trái tim đam mê yêu, đam mê sống được thể hiện bằng kiểu câu hỏi buông lơi – “Làm sao…để…”. Mọi cái rồi sẽ qua đi, mọi người đều phải về với đất, chỉ có sóng mới mãi mãi trường tồn giữa biển lớn tình yêu để âm vang muôn thuở những điệu hồn bất tử trong cái biến hóa vô hồi, vô hạn của cuộc đời. Sóng - một “con sóng nhỏ” vô cùng khiêm tốn đã được lũy thừa lên đến bậc trăm – “ trăm con sóng nhỏ” theo phép đếm ước lệ nhằm khuếch đại một khát vọng mãnh liệt của một người phụ nữ giàu ước mơ, đầy nữ tính. Thế mới biết, những người yêu nhau là những người vô địch trên trái đất!
III/ Kết bài :
Với bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh vừa là thi sĩ, vừa là tình nhân. Mac- két có nói: “con bướm phải mất 180 triệu năm mới cất cánh bay lên được. Con người cũng phải mất bằng ấy năm mới biết khóc, cười và biết sống cho một tình yêu”. Tình yêu đã trở thành một giá trị văn hoá trong thế “dữ dội” và “dịu êm”. Bài thơ “Sóng” tuy ra đời đã lâu (29/12/1967) nhưng đến nay vẫn tươi nguyên giá trị ban đầu. Nhiều ý kiến của nhiều người tuy khác nhau cách nói nhưng đều giống nhau về sự óng ánh, nhịp nhàng của hạt ngọc tình yêu. Lưu Khánh Thơ: “Ở Xuân Quỳnh, tình yêu không bao giờ chỉ đơn thuần là tình yêu, nó còn tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý của con người, tượng trưng cho niềm khao khát được tự hoàn thiện mình”. Phạm Đình Âu thì nói khác: “SÓNG là nơi tập trung những đặc điểm của thơ Xuân Quỳnh. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng trong buôỉ đầu non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc, tình yêu gắn với cuộc sống chung, mang đậm dấu ấn trách nhiệm… Bài thơ như một truyền thuyết về tình yêu đôi lứa”.
==================================================================
D. ĐỀ BÀI LUYỆN TẬP
D.1/ CÁC ĐỀ TUYỂN SINH ĐH-CĐ BỘ ĐÃ RA TỪ 2002 ĐẾN 2013
Đề 1: Đề tuyển sinh Đại học năm 2002, khối C:
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
____________________________________________________________________
Đề 2: Đề tuyển sinh Đại học-Cao đẳng năm 2006, khối D:
Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh/chị cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng này?
____________________________________________________________________
Đề 3: Đề tuyển sinh Cao đẳng năm 2009, khối D và C:
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
____________________________________________________________________
Đề 4: Đề tuyển sinh Cao đẳng năm 2013, khối D và C:
Cảm nhận của anh/chị về tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
____________________________________________________________________
D.2/ MỘT SỐ ĐỀ BÀI LUYỆN TẬP KHÁC
Đề 5: Phân tích hình tượng sóng trong hai khổ thơ sau:
“Dữ dội và dịu êm…
Bồi hồi trong ngực trẻ”
( Sóng- Xuân Quỳnh)
Đề 6: Phân tích 4 khổ thơ đầu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
“Dữ dội và dịu êm… Khi nào ta yêu nhau”.
Đề 7: Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau:
“Con sóng dưới lòng sâu…
Cả trong mơ còn thức”
(Sóng- Xuân Quỳnh)
Đề 8: “Ôi con sóng ngày xưa…
Cả trong mơ còn thức”
(Sóng”- Xuân Quỳnh)
Anh(chị) hãy phân tích đoạn thơ trên để làm nổi rõ sức gợi cảm phong phú, bất ngờ của hình tượng sóng trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình em.
Đề 9: Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài thơ Sóng”của Xuân Quỳnh: “ Ở ngoài kia đại dương…
Để ngàn năm còn vỗ”.
Đề 10: Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế… Để ngàn năm còn vỗ”.
Đề 11: Phân tích nỗi niềm của tác giả trong khổ thơ sau:
“Cuộc đời tuy dài thế…
Mây vẫn bay về xa”
(Sóng - Xuân Quỳnh)
Tại sao mở đầu là hình ảnh con sóng “tìm ra tận bể”, đến đây lại là hình ảnh những đám mây đang mải miết bay về xa, bỏ lại biển phía sau, đi tìm kiếm những chân trời mới.
Đề 12: Hình tượng Sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh là lời giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của tác giả. Hãy phân tích và chứng minh vấn đề trên.
Đề 13: Hình tượng Sóng trong bài thơ “Sóng”được miêu tả như thế nào ? Tại sao nhà thơ lại dùng hình ảnh này để nói về đề tài tình yêu lứa đôi ?
Đề 14: Có người cho rằng không xuất hiện từ “ anh”, “em” thì bài thơ “Sóng” mới hay. Theo anh(chị), có phải thế không ?
Đề 15: Đáng lẽ nói: - “Dịu êm và dữ dội
Lặng lẽ và ồn ào”
- “Dẫu xuôi về phương nam
Dẫu ngược về phương bắc”
Nhưng tại sao nữ sĩ Xuân Quỳnh lại không viết như thế trong bài thơ Sóng?
Đề 16: Có hai bản ghi câu thơ thứ ba:
- “Sông không hiểu nổi mình”
- “Sóng không hiểu nổi mình”
Theo anh(chị), dòng thơ nào đúng hơn, hay hơn ?
Đề 17: Cấu tứ đặc sắc của bài thơ Sóngcủa Xuân Quỳnh ?
Đề 18: Lối thơ ngũ ngôn có khả năng kể chuyện đã được Xuân Quỳnh sử dụng thành công trong bài thơ Sóng như thế nào ?
Đề 19: “Xuân Quỳnh đã giãi bày tình yêu rất chân tình, mãnh liệt nhưng rất nữ tính, đạo đức”. Anh(chị) hãy chứng minh ý kiến ấy qua bài thơ Sóng.
____________________________________________________