







Preview text:
Tìm hiểu những nội dung nổi bật của triết học Platon
1. Cuộc đời của Platon
Platon chào đời tại Athens, Hy Lạp vào năm 472 TCN, Platon thuộc gia đình
quý phái về phía cả cha lãnh mẹ. Cha của Platon tên là Ariston thuộc họ quốc
vương Codre, vị vua cuối cùng của thành Athens và được coi là con cháu của
thần Poseidon, mẹ là Périctiana có họ hàng với Salon, nhà luật học lừng
danh của Hy Lạp. Platon có một người chú tên là Critias, là một trong 30
nhân vật thuộc Hội Đồng Hoạt Đầu.
Platon tên thạt là Aristocles là người thân hình cao lớn và vạm vỡ như một
lực sĩ, nên được mọi người gọi là Platon. Ông có một người chị và hai anh là
Adeimantus và Glaucon mà tên còn được nhắc nhở trong cuốn sách “ Nền
cộng hòa”, trong vai người đối thoại của Socrates.
Sau khi Platon chào đời được ít lâu, cha của ông qua đời, mẹ tái giá với
Pyrilampes, một người chú họ ngoại và cũng là một người bạn, người ủng hộ
nhiệt thành Pericles. Tại nhà của Pyrilampes, Platon được mẹ chăm sóc đến
năm lên 7 tuổi, rồi được theo trường học. Năm 18 tuổi, Platon học hỏi các
triết gia và các nhà ngụy biện (Sophistists). Từ năm 20 tuổi Platon theo học
Socrates trong 8 năm liền. Platon rất quý Socrates và nhanh chóng trở thành
học trò xuất sắc nhất của Socrates. Ông tham gia tích cực tổ chức nghiên
cứu triết học do Socrates cầm đầu, Platon rất đau khổ trước cái chết của
Socates, bị kết án tử hình Socrates đã bình thản uống thuốc độc chết. Có lẽ
vì lo sợ cho sự an toàn của mình rồi lại do lòng căm phẫn Platon cùng vài
môn đệ của Socrates tới ẩn náu tạm thời tại Megara, nơi đây Platon theo học
Euclid, nhà toán học danh tiếng.
Năm 396 TCN, Platon trở thành Athens và theo như luật định, ông phục vụ
trong hàng ngũ kỵ binh tham chiến trong trận Corinth và trận này kết thúc
bằng sự thất bại của xứ Athens trước xứ Sparta. Vào thời đó người miền
Athens thường hay đi lại nhiều nơi và vì ghê tởm cuộc chiến tranh vừa qua,
Platon tìm đường sang Ai Cập. Đầu tiên ông dừng lại tại Crete rồi Cyrene. Ở
nơi này ông nghiên cứu toán học với Theodorus đến năm 390 ông mới đến Ai
Cập. Tại Heliopolis, Platon đã học hỏi về thiên văn, tôn giáo và hiến pháp.
Nhờ thời gian sống tại Ai Cập, Platon đã quan sát kỹ lưỡng các phong tục và
suy tưởng. Sau này ông đã bàn luận về điều này trong tác phẩm của ông.
Sau khi rời Ai Cập, ông sang Đại Hy Lạp tới Tarentrun và quen với Archytas.
Các cuộc đi xa đã giúp cho Platon nhiều cơ hội làm quen với một số nhà
sáng lập ra vài trường phái học thuật như Pythagoras, Heraclite, cũng như
các nhà triết học Eleatic. Từ những nhận xét về thực tế và các điều học hỏi từ
Socrates, cộng với các sở thích liên quan đến vấn đề chính trị, Platon đã đi
đến kết luận rằng chỉ những người có kiến thức và các phẩm chất đạo đức
mới đáng giao phó quyền lực để điều khiển người khác. Lý tưởng triết học
của Platon đang cần có các cơ hội để áp dụng.
Vào thời này Dionysiuss đã thành công trong việc lật đổ nền cộng hòa và thiết
lập tại Syracuse một chế độ chuyên chế. Diom, một người học trò cũng là bạn
thân của Platon đã thúc giục Platon đảm nhận việc giáo dục Dionysius, đồng
thời bạo chúa của thành Syracuse này cũng mời ông qua Ý Đại Lợi. Đây là
một cơ hội để Platon áp dụng lý thuyết về chính quyền vào một hoàn cảnh
thực tế. Platon đến Syracuse được triều đình của nơi này coi như thượng
khách. Về sau Platon bị bạo chúa ghét bỏ, ông bị tống giam và bị giao cho
viên thuyền trưởng Pol is, người xứ Sparta. Pol is đã bán Platon tại Egina
như một tên nô lệ. Nhưng thật may cho Platon, một người theo triết học của
ông ở Cyrene cứu và thành lập ra viện Hàn Lâm Athene, được xem là trường
đại học tổng hợp đầu tiên ở Châu Âu, là trung tâm của triết học duy tâm
chống lại triết học duy vật. Viên Hàn Lâm Athene đã thu hút được rất nhiều
người theo học ở cả trong và ngoài nước. Platon giảng dạy rấy nhiều môn
học, ông làm việc ở đây khoảng 20 năm.
Trong các năm cuối đời, Platon sống tại thành Athens và đã soạn ra các tác
phẩm như: Timaeus, Crite và cuốn sách dang dở The laws Platon qua đời
vào năm 348 hay 347 TCN,giữa thời kì nước Hy Lạp bị Philip II,vua miền
Makedonia xâm chiếm các tác phẩm của Platon,các tác phẩm còn lưu tới
ngày nay của Platon gồm 35 tập đối thoại và 13 bức thư, một số tập này và
bức thư bị nghi ngờ về tính đích thực. Đối thoại là một hình thức viết văn
trong đó trình bày hai hay nhiều nhân vật, đặt ra một vấn đề, bàn luận các chỉ
trích và các tương phản giữa các ý tưởng triết học. Các nhân vật trong tác
phẩm với các cá tính khác nhau,quan điểm khác nhau đã thảo luận cũng như
tranh cãi cùng nhau về nhiều mặt đối nghịch nhau của một đề tài. Platon đã
dùng phương pháp biện chứng của Socrates để trao đổi các ý tưởng. Trong
các đối thoại, Socrates đã gặp gỡ một người tự cho là hiểu biết nhiều, đặt các
câu hỏi cho người này rồi dần dần đưa đến kết luận là người này chưa đủ hiểu biết.
Triết học của Platon là một hệ thống triết học duy tâm khách quan lớn và đầu
tiên trong lịch sử triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để. Nó
xuất phát từ ba nguồn gốc tư tưởng: triết học của Socrates về cái phổ biến,
cái chung làm cơ sở cho đạo đức; triết học của phái Élesee học thuyết về sự
tồn tại duy nhất, bất biến. Và triết học của phái Pythagore về những con số,
con số được xem là bản chất chân thật của sự vật. Dựa vào ba nguồn gốc
trên trong đó chủ yếu vẫn là triết học của Socrates, Platon đã xây dựng nên
hệ thống triết học duy tâm khách quan.
2. Học thuyết về ý niệm của Platon
Chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong triết học của Platon là học thuyết về
ý niệm. Đây được xem là nền tảng của thế giới quan của ông. Quan niệm của
Platon về ý niệm tồn tại, về vật chất không tồn tại, về sự vật cảm tính, về
những con số… Các ý niệm theo cách hiểu của Platon đó là các khái niệm, tri
thức đã được khách quan hóa. Chúng bị rút ra khỏi ý thức của con người,
hòa trộn vào thế giới tư tưởng được coi là tổng thể các ý niệm tương tự. Các
ý niệm được coi là tồn tại nói chung, bất biến và vĩnh viễn.
Coi các ý niệm là tồn tại nói chung, là tồn tại thực sự, Platon vẫn khẳng định
rằng cái không tồn tại là cái thực. Cái không tồn tại là một khía cận của tồn tại,
bản thân cái tồn tại cũng bao hàm cả “ cái khác ” với nó tức là cái không tồn
tại. Dưới con mắt của Platon bản thân vật chất nói chung cũng tồn tại vĩnh
viễn và không phải do thế giới ý niệm sản sinh ra, mặc dù nó không phải là
cái gì cả nhưng nó vẩn cần thiết. Chính các ý niệm về vật chất là cơ sở tạo
nên sự vật trong thế giới chúng ta.
Tóm lại, trong quan niệm về thế giới, Platon theo lập trường duy tâm khách
quan, coi mọi sự vật chỉ là hiện thân của ý niệm, là cái bóng của ý niệm. Vật
chất không tồn tại với ý nghĩa là nó không tồn tại chân thực chứ không phải là
không có. Sự vật cảm tính chỉ có thể có ý niệm tồn tại và vật chất không tồn
tại, nó nằm giữa tồn tại và không tồn tại.
3. Học thuyết về vũ trụ của Platon
Đây là sự phát triển tiếp theo của học thuyết về ý niệm, là đỉnh cao của chủ
nghĩa duy tâm thần bí trong triết học của Platon. Theo Platon sự khác nhau
giữa các vật thể là do sự khác nhau về quan hệ toán học, do những con số
quyết định. Những con số thần bí chi phối toàn bộ học thuyết về vũ trụ. Platon
cho rằng thế giới có linh hồn, linh hồn của thế giới do thần thánh tạo ra. Ông
chia ra thành 2 loại linh hồn thế giới là linh hồn của thế giới cái thiện có trật tự
và linh hồn của cái ác, vô trật tự.
Platon cho rằng vũ trụ hình cầu là duy nhất, hữu hạn, trung tâm của vũ trụ là
quả đất, chung quanh quả đất là các hành tinh, các tinh tú, chúng vận động
quay nhờ linh hồn của chúng. 4.
Lý luận về nhận thức và linh hồn của Platon
Ông là người đầu tiên tách rời tinh thần và thể xác, trong con người có hai
phần là phần thể xác và phần linh hồn. Phần linh hồn được xem như là một
thực thể độc lập, không phụ thuộc vào thể xác, hơn thế nữa nó còn chi phối
thể xác. Linh hồn làm cho thể xác hoạt động, limh hồn điều khiển thể xác.
Linh hồn tồn tại độc lập với thể xác con người, linh hồn bất tử, ý niệm tồn tại
bất biến và vĩnh hằng, linh hồn thuộc thế giới ý niệm nên linh hồn bất tử.
Platon không chỉ tách rời mà còn đối lập linh hồn với thể xác trong con người,
ông coi thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Thể xác con người
theo Platon được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí, do vậy không thể
bất diệt còn linh hồn là sản phẩm của linh hồn vũ trụ gồm 3 phần: Lý tính hay
trí tuệ, xúc cảm và cảm tính trong đó phần lý tính thì bất diệt còn 2 phần sau thì chết cùng thể xác.
Bản thân số lượng linh hồn không thay đổi bởi chúng được tạo ra bởi
Thượng đế, bởi linh hồn vũ trụ cách đây đã lâu. Sau khi được tạo ra mỗi linh
hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời và sau đó chúng dùng cánh bay xuống trần
gian và nhập vào thể xác tạo nên con người. khi nhập vào thể xác con người
thì nó quên hết mọi quá khứ. Vì thế nhận thức con người là sự hồi tưởng lại
những gì mà linh hồn đã lãng quên.
Quan niệm về linh hồn bất tử của Platon rất duy tâm, thần bí hoàn toàn đối
lập với quan niệm của Heraclite và Democrite về linh hồn.
Platon phản đối cảm giác luận và nhận thức luận duy vật nói chung, ông cho
rằng nhận thức cảm tính, cảm giác, không phải là nguồn gốc của tri thức
chân thực. Kết quả của nhận thức cảm tính chỉ là “ dư luận ”. Tri thức chân
thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính và được thể hiện trong khái
niệm. Nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, là sự liên hệ các
chân lý được hồi tưởng. Chỉ có linh hồn dũng cảm, có ý chí mới nhận thức
được thế giới ý niệm, nhận thức được chân lý, như vậy đam mê, dục vọng
không thể nhận thức được chân lý. Muốn nhận thức được chân lý phải dũng cảm, có ý chí.
Platon chú ý đến phương pháp nhận thức, phương pháp đánh thức sự hồi
tưởng của linh hồn bất tử, phương pháp đó theo ông là phép biện chứng.
Platon phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, của tư duy thuần túy đến
mức lý tưởng hóa, thần thánh hóa nó. Phép biện chứng theo cách hiểu của
Platon là phép biện chứng duy tâm, Platon không có đóng góp tích cực nào về phếp biện chứng.
5. Quan niệm về đạo đức của Platon
Đạo đức của Platon được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về linh hồn,
theo Platon linh hồn có 3 bộ phận là lý trí, ý chí và nhục dục. Ông hình tượng
hóa 3 bộ phận ấy là cỗ xe song mã, trong đó lý tính thì lái xe, con ngựa có ý
chí thì nhận thức được ý niệm, con ngựa thèm khát nhục dục thì sa vào tối
tăm, dốt nát mà không nhận thức được ý niệm. Platon cho rằng lý tính của
linh hồn là cơ sở của sự thông thái, ý chí là cơ sở của lòng dũng cảm, chế
ngự nhục dục là cơ sở của sự điều độ. Sự thông thái là một đức tính cao nhất,
sự kết hợp 3 yếu tố trên dưới sự chỉ đạo của lý tính sẽ tạo ra chính nghĩa là
yếu tố thứ tư. Lý tính, ý chí, chế ngự dục vọng và chính nghĩa là bốn yếu tố
trong đạo đức học của Platon.
Đạo đúc học của Platon hướng con người vào ý niệm tối cao của cái thiện,
đó là sự thông thái và lòng dũng cảm. Platon cho rằng chỉ có số ít người,
những chủ nô thượng lưu mới có đời sống đạo đức với những biểu hiện tối
cao của nó là sự thông thái và lòng dũng cảm. Còn quần chúng thường dân
chỉ có năng lực đạo đức tiêu cực, đạo đức khuất phục. Platon không coi nô lệ
là con người. Với ông đó chỉ là những “Động vật biết nói ” không thể có đạo
đức và bảo vệ địa vị thống trị của gai cấp chủ nô quý tộc, đối lập với quần chúng nhân dân.
6. Quan niệm về nhà nước và xã hội của Platon
Con người chỉ có thể hoàn thiện nhân cách trong một nhà nước được tổ chức
hợp lí, mục đích của triết học là xây dựng một nhà nước hoàn toàn lí tưởng
và hoàn thiện. Vì vậy đạo đức học của Platon mang nặng tính xã hội không
mang tính cá nhân như Êpiquya và phái khắc kỷ. Tương ứng với ba phần linh
hồn con người Platon chia xã hội làm ba hạng người tùy thuộc theo bộ phận
linh hồn nào của họ đống vai trò chủ đạo.
Thứ nhất, đó là những nhà triết học, nhà thông thái, đây là những người mà lý
tính đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động của họ.Họ luôn luôn hướng tới cảm
thụ cái đẹp và trật tự các ý niệm, khát vọng vươn tới phúc lợi tối cao, tới sự
thật và công lý. Đó là những người biết kiềm chế, ôn hòa những thú vui cảm
tính, họ có thể đảm nhận được vai trò lãnh đạo, trị vị xã hội trong nhà nước lí tưởng.
Thứ hai, đó là những người lính làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho nhà nước lí
tưởng, linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan giạ và dũng cảm, biết quy phục
các khát vọng cảm tính đói với lý trí và nghĩa vụ.
Thứ ba, đó là những người thuocj tầng lớp nông dân, thợ thủ công, họ là
những người về cơ bản đi xa hơn những khát vọng cảm tính. Họ thường
khỏe mạnh, thích nghi với hoạt động chân tay bởi vì ngay từ khi sinh ra họ đã
gần gũi với các sự vật cảm tính rồi. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là làm ra của
cải vật chất đảm bảo cuộc sống cho nhà nước.
Platon tập trung sự đã kích của mình vào chế độ dân chủ Athene, vì ông là kẻ
thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Athene ông chống lại nền dân chủ cổ
đại nói chung và nền Athene nói riêng.
Theo Platon với ba đẳng cấp là đẳng cấp những triết gia cầm quyền, đẳng
cấp những quân nhân và đẳng cấp của nông dân, thợ thủ công, theo sự phân
công, hai đẳng cấp trên tuyệt đối không phải là lao động chân tay, lao động
chân tay là làm nhiệm vụ của người nông dân và thợ thủ công.
Về sự công bằng xã hội, Platon cho rằng công bằng của cá nhân phải gắn với
công bằng của xã hội. Theo ông công bằng cá nhân là sự phát triển cân bằng
những phẩm chất đạo đức.
7. Quan niệm về mỹ học của Platon
Quan niệm về mỹ học của Platon cũng dưa trên học thuyết về ý niệm. Platon
cho rằng cái đẹp chân thực là cái đẹp của ý niệm, nó đối lập tuyệt đối với cái
đẹp của sự vật cảm tính. Cái đẹp của ý niệm là cái đẹp tuyệt vời, vĩnh viễn,
tồn tại ngoài không gian và phi thời gian, nó là bất biến. Cái đẹp của sự vât
không tuyệt vời, khả biến và tương đối.
Chỉ có thể cảm nhận cái đẹp của ý niệm bằng lý tính, cái đẹp của ý niệm
hoàn toan khac với cái đẹp trong hiện thực khách quan. Ông phê phán quan
niệm cho rằng cái đẹp chỉ có trong thực tế như: Người con gái đẹp, bông hoa
đẹp, tòa lâu đài đẹp. Ông bác bỏ quan niệm cho rằng cái đẹp là cái có lợi ích
hoặc là cái có khoái cảm do thị giác và thính giác đem lại.
Không có cái đẹp tách rời khỏi chỉnh thể, chủ thể nhận thức cái đẹp là linh
hồn bất tử, phương pháp nhận thức là sự hồi tưởng.
Platon cho rằng, nghệ thuật là sự bắt chước, nhưng không phảo bắt chước
sự vật mà bắt chước ý niệm. Theo Platon chỉ có nghệ thuật xuất phát từ
nguồn cảm hứng do thần thánh tạo ra mới là nghệ thuật cao quý vì nó không
phải là sự bắt chước sự vật cảm tính. Đây là một thứ chủ nghĩa thần bí về nghệ thuật. Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Lê Đức Tâm, Một số triết gia và học thuyết triết học ở Hy Lạp cổ đại
3. Triết học II, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993
4. Nguyễn Ngọc Thu (2003), Đại cương lịch sử triết học, Nxb tổng hợp TPHCM 5. Tailieu.com.vn
8. Câu hỏi thường gặp về quan điểm triết học Platon
8.1 Khái quát sự nghiệp của platon?
Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị.
Các tác phẩm của ông bao gồm trong một Tập định nghĩa, 13 bức thư mà
người ta còn lưu giữ được và 35 thiên đối thoại trong đó tập hợp những đoạn
đối thoại về bản chất của tình yêu, của cái đẹp, về nhận thức luận, về hồi
tưởng và phê phán quan niệm nhận thức cảm tính. Trong những tác phẩm
của ông, nổi tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic).
Đó là “một công trình lớn dưới hình thức một cuốn sách nhỏ trong đó tập
trung những tư tưởng của Platon”. Ông Emerson, một triết gia Mỹ, cho rằng
“người ta có thể đốt tất cả thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm trong cuốn sách này”.
8.2 Quan Niệm Của Socrate về Chính trị xã hội?
Có thể nói Socrate là người ảnh hưởng lớn đến cả cuộc đời và tư tưởng của
Platon. Từ những vấn đề học hỏi cho đến cái chết bất công của Socrate đã
hình thành nên tư tưởng chính trị xã hội của ông. Thực ra Socrate cũng như
những triết gia trước, không có đề cập gì nhiều đến vấn đề chính trị xã hội mà
chỉ nói đến đạo đức và lí trí. Ông nói: “một xã hội sáng suốt là một xã hội mà
trong đó ngừơi dân cảm thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế
tự do thì ít. Trong xã hội ấy, ăn ngay ở thẳng là giữ đúng quyền lợi và nghĩa
vụ mình và an ninh trật tự cũng như thiện chí trong xã hội”.
8.3 Quan Niệm Của Démocrite về chính trị xã hội?
Ông cho sự phát triển của xã hội thông qua nhu cầu sinh tồn của con người.
Tuy nhiên ông không cho nhu cầu là động lực phát triển xã hội mà chỉ là động
lực để sản xuất. Về chính trị thì ông lại đối lập với hai nhà triết gia trên nghĩa
là chống phái chủ nô quý tộc mà ủng hộ chủ nô dân chủ, bởi theo ông, như
vậy là bảo vệ quyền lợi về kinh tế và gắn liền với sự phát triển công nghiệp,
thương mại. Ông cũng ca ngợi tính ôn hoà, tình thân ái và bảo vệ quyền lợi,
lợi ích cũng tầng lớp dân tự do. Một cuộc sống được gọi là hạnh phúc khi
mình cảm thấy được tự do trong chế độ dân chủ, ngược lại nếu giàu có mà
sống trong chế độ quân chủ cũng như không.
Document Outline
- Tìm hiểu những nội dung nổi bật của triết học Plat
- 1. Cuộc đời của Platon
- 2. Học thuyết về ý niệm của Platon
- 3. Học thuyết về vũ trụ của Platon
- 4. Lý luận về nhận thức và linh hồn của Platon
- 5. Quan niệm về đạo đức của Platon
- 6. Quan niệm về nhà nước và xã hội của Platon
- 7. Quan niệm về mỹ học của Platon
- 8. Câu hỏi thường gặp về quan điểm triết học Plato
- 8.1 Khái quát sự nghiệp của platon?
- 8.2 Quan Niệm Của Socrate về Chính trị xã hội?
- 8.3 Quan Niệm Của Démocrite về chính trị xã hội?