



















Preview text:
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA NGỮ VĂN BÀI TẬP NHÓM
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI I
ĐỀ TÀI: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN GVHD : TS. NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 5 LỚP : VĂN 3Q Huế, tháng 12 năm 2024. 2
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM STT HỌ VÀ TÊN MSV NHIỆM VỤ 1 Nguyễn Thị
Phương 22S6010113 Tìm hiểu về phong cách nghệ thuật Thảo
của Nguyễn Tuân sau năm 1945 với tác phẩm Sông Đà 2 Cao Thùy Trang
22S6010143 Tìm hiểu về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân 3 Đỗ Ngọc Hoàng Kha
22S6010179 Tìm hiểu về phong cách nghệ thuật.
Tổng hợp và chỉnh sửa nội dung 4 Hồ Thị Tiểu Mơ
22S6010061 Tìm hiểu về phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân trước năm 1945
với tác phẩm Vang bóng một thời 5 Phạm Lê Hà Vy
22S6010142 Tìm hiểu về tác giả 6 Nguyễn Hà Linh
22S6010057 Thiết kế powerpoint 3 MỤC LỤC
I. TÌM HIỂU VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
1. ĐỊNH NGHĨA. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
2. ĐẶC ĐIỂM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
3. NHỮNG BIỂU HIỆN ĐỂ XÁC ĐỊNH MỘT NHÀ VĂN CÓ PHONG CÁCH
NGHỆ THUẬT. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
II. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN. . . . . . .6
1. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ NGUYỄN TUÂN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
2. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
2.1. TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
2.2. SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
3. CÁC ĐỀ TÀI CHÍNH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN. . . . . . 10
3.1. TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
3.1.1. ĐÊ TÀI XÊ DỊCH. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
3.1.2. ĐỀ TÀI VIẾT VỀ VẺ ĐẸP QUÁ KHỨ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
3.1.3 ĐỀ TÀI VỀ CUỘC SỐNG HƯỞNG LẠC. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15 3.2 SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM:
………………………………………..16
III. ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN. . . . . . . . 16
1. NGUYỄN TUÂN VỚI CÁI TÔI BẢN NGÃ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
2. NGUYỄN TUÂN LÀ MỘT CÂY BÚT TÀI HOA, UYÊN BÁC. . . . . . . . . . . .17
3. NGUYỄN TUÂN LÀ NHÀ NGHỆ SĨ NGÔN TỪ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .19
4. SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN
TUÂN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2 0
IV. KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .30 4
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN
I. Tìm hiểu về phong cách nghệ thuật 1. Định nghĩa
Phong cách sáng tác (phong cách nghệ thuật) là một phạm trù thẩm mi, chỉ
sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu
hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác
phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.
Trong nghia rộng: Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng
hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhận
được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất. 2. Đặc điểm
- Phong cách chính là con người nhà văn: Nhà văn Pháp Buy phông nói:
“Phong cách ấy là con người”. Nó hình thành từ thế giới quan, nhân sinh quan,
chiều sâu và sự phong phú của tâm hồn, của vốn sống, sở thích, cá tính cũng như
biệt tài trong sử dụng cách hình thức, phương tiện nghệ thuật của nhà văn.
Ví dụ: Ví dụ: Nguyễn Tuân là người nhìn đời bằng nhãn quan của cái tôi
kiêu bạc, đầy tự hào, tự tin, tự trọng, cùng với lòng ngưỡng mộ cái Đẹp trong đời.
- Phong cách nghệ thuật không đơn thuần chỉ là nhưng nét lặp đi lặp lại
thành quen thuộc của nhà văn. Đó phải là sự lặp lại một cách hệ thống, thống nhất
cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với
cách cảm nhận ấy. Cho nên, không phải bất kỳ nhà văn nào cũng có phong cách,
tạo được phong cách. Phong cách thường được tạo nên bởi một cây bút sâu sắc trên
nhiều phương diện: thế giới quan, nhân sinh quan, vốn sống, kinh nghiệm… tài
năng về nghệ thuật và có bản linh. 5
- Nghệ thuật là linh vực của cái độc đáo. Phong cách là nét riêng không trùng
lặp. Sự thật có thể là một, nhưng cách nhìn, cách cảm, cách nghi của nhà văn phải
có màu sắc khác nhau và độc đáo.
Ví dụ: Cùng thể hiện khả năng trào phúng, hai nhà văn cùng thời Nguyễn
Công Hoan và Vũ Trọng Phụng vân tạo được nhưng phong cách khác nhau:
+ Nguyễn Công Hoan cười nhẹ nhàng, thâm thúy bằng cách dựng lên nhưng
tình huống trớ trêu, nghịch lý (kiểu Kép Tư Bền, Người ngựa, ngựa người…)
+ Vũ Trọng Phụng cười chua chát, sâu cay, quyết liệt, như muốn ném thẳng
lời nguyền rủa vào mặt người ta (kiểu Số Đo).
- Phong cách nghệ thuật là sự ổn định, nhất quán (đương nhiên không phải tuyệt đối).
Ví dụ: Nguyễn Tuân, trải qua hai thời kỳ sáng tác, có nhưng chuyển biến về
tư tưởng sáng tác khá rõ nét, nhưng vân giư một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác.
- Phong cách nghệ thuật biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Điều này tùy
thuộc vào tài năng, sở trường của mỗi nhà văn: Có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài,
có thể biểu hiện ở việc chọn thể loại, có thể biểu hiện ở sự vận dụng ngôn ngư, có
thể biểu hiện ở giọng điệu, có thể biểu hiện ở cách xây dựng hình tượng nhân vật.
- Phong cách nghệ thuật là nét riêng, đậm tính cá thể, nhưng phải có liên hệ
mật thiết với hệ thống chung các phong cách của một thời đại văn học. Đồng thời,
phong cách nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó thực sự cống hiến cho sự tồn tại và phát
triển phong phú, đa dạng của văn học dân tộc nói chung.
Ví dụ: Phong cách của các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên… trước cách mạng tháng Tám đều nằm trong phong cách lãng mạn của trào
lưu Thơ mới lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945. 6
- Phong cách sáng tác chịu ảnh hưởng của nhưng phương diện tinh thần khác
nhau như tâm lý, khí chất, cá tính của người sáng tác. Đồng thời, nó cũng mang dấu
ấn của dân tộc và thời đại.
Ví dụ: Mỗi một thời đại lịch sử và thời đại văn học tương ứng có thể tạo ra
nhưng phong cách sáng tác mang đặc trưng riêng:
+ Chẳng hạn phong cách Hồ Xuân Hương trong thời Trung đại còn nặng nề
ý thức hệ phong kiến, văn học chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan điểm phi ngã.
3. Những biểu hiện để xác định một nhà văn có phong cách nghệ thuật
- Nét riêng trong lựa chọn đề tài, chủ đề, đối tượng miêu tả.
- Giọng điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác.
- Biểu hiện rõ nhất của cá tính sáng tạo làm nên phong cách nghệ thuật nhà
văn là ở hệ thống các phương thức, phương tiện nghệ thuật được nhà văn sử dụng
trong tác phẩm: Ngôn ngư, hình tượng, kết cấu. .
- Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thứcvà phương tiện nghệ thuật. * LƯU Ý
- Không phải tác giả nào cũng có phong cách. Chỉ nhưng nhà văn thực sự tài
năng, có cá tính sáng tạo mạnh mẽ, có ý thức nghệ thuật độc đáo mới có phong cách.
- Sáng tạo để làm nên cái riêng, cái mới lạ trong các phương diện trên, song
mỗi nhà văn có phong cách phải “thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Cái độc
đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vưng nhất quán”.
II. Sơ lược về cuộc đời và sáng tác của Nguyễn Tuân
1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân, sinh ngày 10-7-1910 taị phố Hàng Bạc, mất tại Hà Nội ngày
28-7-1987. Tiểu học ở Hà Nội, trung học Nam Định. 7
-1927, về Hà Nội cưới cô Vũ Thị Tuệ, nhưng vân trọ học ở Nam Định.
-1928 (năm thứ tư trường Thành Chung) vì tham gia bãi khoá, bị đuổi học;
Nguyễn Tuân cùng các bạn chạy qua Lào, sang Thái, nhưng bị bắt, giam tại Thanh Hóa khoảng một năm.
- Ra tù (1931-1936), đi đi về về giưa Hà Nội-Thanh Hoá, làm nhiều nghề và
bắt đầu viết văn làm báo. Viết cho các tờ Đông Tây, An Nam tạp chí (của Tản Đà),
Tiểu thuyết thứ bảy, v.v. .
- Từ 1937, ở hẳn Hà Nội sống bằng ngòi bút.
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân
+ Trước Cách mạng tháng Tám: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939),
Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tản đèn dầu lạc (1941), Chiếc
lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943), Nguyễn (1945)
+ Sau Cách mạng tháng Tám: Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến
dịch (1950), Bút kí đi thăm Trung Hoa (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình,
tập I (1955), Tùy bút kháng chiếng và hòa bình, tập II (1956), Sông Đà (1960), Hà
Nội ta đánh Mỹ gioi (1972), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978). 2. Quá trình sáng tác
Nguyễn Tuân là nhà văn trải qua hai chặng đường sáng tác
2.1. Trước Cách mạng tháng Tám
Nguyễn Tuân chủ yếu là nhà văn lãng mạn, lúc đầu Nguyễn Tuân làm thơ
theo kiểu cổ, rồi quay sang viết truyện trào phúng dưới nhiều bút danh: Tuấn Thừa
Sắc, Nhất Lang, Nhị Lang,… nhưng nhìn chung đây là nhưng sáng tác không để lại
tiếng vang nào. Nguyễn Tuân xuất hiện với phong cách riêng biệt bắt đầu từ tác
phẩm Một chuyến đi. Từ đó, Nguyễn Tuân thực sự xác định được con đường sáng
tạo đích thực của mình, Ông sở trường về tùy bút. 8
Đầu năm 1938, đi Hương Cảng đóng vai phụ trong phim Cánh đồng
ma (phim nói tiếng Việt đầu tiên), trở về viết một loạt bút ký về chuyến đi này, sau
gộp lại trong tập du ký Một chuyến đi. Thời kỳ 1939-1943, thời kỳ sáng tác mạnh nhất:
+ 1939, viết loạt truyện ngắn đăng trên Tao Đàn và Tiểu thuyết thứ bảy, sau
in trong Vang bóng một thời (Tân Dân, 1940); loạt phóng sự về thuốc phiện
trong Ngọn đèn dầu lạc (Mai Linh, 1939).
+ 1940, viết tự truyện Thiếu quê hương (Anh Hoa, 1943); truyện vừa Nhà
bác Nguyễn, sau gom lại cùng 6 truyện ngắn khác, thành tập tự truyện Nguyễn, (Thời Đại, 1945).
+ 1941, Nguyễn Tuân in tiếp phóng sự Tàn đèn dầu lạc (Mai Linh, 1941),
tự truyện Chiếc lư đồng mắt cua (Hàn Thuyên, 1941) và Tùy bút I (Cộng Lực, 1941).
+ 1943, in Tùy Bút II (Lượm lúa vàng, 1943) và Tóc chị Hoài, (Lượm lúa
vàng, 1943) tuy gọi là tùy bút, nhưng thật ra là một tiểu thuyết cách tân; đồng thời
viết loạt truyện ngắn huyền hoặc mà ông gọi là Yêu ngôn, đăng trên Thanh
Nghị và Trung bắc chủ nhật (Nguyễn Đăng Mạnh sưu tập và cho xuất bản năm 1999).
Từ 1944, trừ tùy bút Võng ngô đồng, Nguyễn Tuân viết ít hẳn đi. .1945,
Cách Mạng tháng Tám bùng nổ, ban đầu ông không tham dự, nhưng viết bài Vô
đề sau đổi thành Lột xác ghi lại nhưng trăn trở, xâu xé của nhà văn trước quyết
định phải đổi hướng.
2.2. Sau Cách mạng tháng Tám:
Sau Cách mạng tháng Tám, cùng với một số nhà văn khác, Nguyễn Tuân đến
với cách mạng, kháng chiến và nhanh chóng trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn
học mới. Nguyễn Tuân viết nhiều, các tác phẩm của ông ở chặn này đều xoay
quanh đề tài về cuộc sống mới 9
Tháng Tám 1946, viết bài Ngày đầy tuổi tôi cách mệnh xác định sự vưng tin
vào" lập trường Cách Mạng" của mình, và cho xuất bản Chùa Đàn.
Năm 1950, Nguyễn Tuân được vào Đảng, từ 1948 đến 1958, giư chức Tổng
thư ký hội văn nghệ Việt Nam.
Về mặt văn học, từ 1949 trở đi, trừ một số bài phê bình văn học và tùy bút,
Nguyễn Tuân nghiêng hẳn về bút ký, khai thác nhưng chuyến đi thực tế với bộ đội
trong nhưng tập Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), về giai đoạn Việt Bắc.
Sau đợt chỉnh huấn 1953, phải học tập chính sách cải cách ruộng đất của
Đảng và tham dự nhưng đợt phát động quần chúng, Nguyễn Tuân viết bài tự kiểm
thảo "Nhìn rõ sai lầm", để "nhận tội" và chối bo Vang bóng một thời, ông "thú
tội" bị ma dân lối, quỷ đưa đường, nên đã viết Chùa đàn (Tâm sự của nước độc)
trước 1945 theo mạch yêu ngôn. Đoạn tuyệt quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, Nguyễn
Tuân trở thành cực tả, ông viết nhưng bài miệt thị thậm tệ "kẻ thù" (Mỹ Diệm) và
không tiếc lời ca tụng thiên đường xã hội chủ nghia Liên xô, Trung quốc.
Thời kỳ Nhân văn giai phẩm, Nguyễn Tuân trở lại với tính nghệ si cứng đầu,
viết nhưng bài tiểu luận khá ngang tàng, phê bình chế độ và một số lãnh đạo văn
nghệ như Quanh việc phê bình tờ báo Văn, Phê bình nhất định là khó, Tìm hiểu Sê-
khốp, Cây Hà Nội v.v. . nhưng khi Đảng đàn áp Nhân Văn, Nguyễn Tuân -như ông
thường nói- lại biết sợ ngay, ông viết bài Nguyễn Tuân tự phê bình, in trên Văn
nghệ tháng 5, năm 1958, và ngay khi đang học tập chính trị và đi thực tế ở Tây bắc,
ông đã viết nhưng bài bút ký tích cực, theo đúng đường lối của Đảng, sau in trong
tập Sông Đà, 1960, ca tụng thiên nhiên, tài nguyên của tổ quốc, ca tụng nhưng
chiến si tiên phong mở đường cho việc xây dựng xã hội chủ nghia.
Theo lời kể của Nguyễn Đình Thi, B52 bo bom ác liệt hôm trước thì hôm sau
trên báo Nhân Dân đã có bài của Nguyễn Tuân viết về một đám cưới bên trận địa
cao xạ. Với tập Hà nội ta đánh Mỹ giỏi in năm 1972, Nguyễn Tuân đã trở thành
cán bộ chiến si, dùng chư trực tiếp "đánh" Mỹ. 10
Nếu nhìn lại toàn bộ sáng tác gần 5000 trang của Nguyễn Tuân, sẽ thấy vài
ngàn trang vô ích, không xứng với tài năng ông và huyền thoại Nguyễn Tuân là
một bậc thầy của tùy bút cũng không còn chỗ đứng.
Thực ra, Nguyễn Tuân đã viết rất nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa,
truyện dài, phóng sự, tự truyện, yêu ngôn, bút ký, phê bình, v.v. . Mặc dầu có
nhưng đầu sách được ông gọi là tùy bút, nhưng thể loại này có chỗ đứng rất nho
trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Vũ Ngọc Phan đã dự đoán khá chính xác, ngay từ trước 1945, khi xếp
Nguyễn Tuân vào nhưng nhà văn thuộc thể loại bút ký. Nhưng bút ký không đem
lại cho Nguyễn nhưng thành tựu văn học đáng kể, dù sau 1945, ông viết cả ngàn
trang về thể loại này. Một nghịch lý nưa: nhưng tác phẩm chính của Nguyễn Tuân
(hầu hết viết trước 1945), không phải và cũng không có nét gì tùy bút: Vang bóng
một thời là tập truyện ngắn, Chiếc lư đồng mắt cua, tự truyện, Chùa đàn và nhưng
đoản thiên viết theo mạch yêu ngôn là một thể loại văn học đặc biệt do Nguyễn
Tuân sáng tạo. Sau cùng, nhưng bài viết tập hợp trong hai tập Tùy bút I và II, in
năm 1941 và 1943, cũng rất ít chất tùy bút, đúng ra là hai cuốn tạp văn, toàn bộ 17
bài, gồm các thể du ký, tâm ký, nhật ký, và tự truyện.
Sau 1945, Nguyễn Tuân chuyên hẳn về bút ký. Nhưng tập Đường vui, Tình
chiến dịch, hai tập Tùy bút kháng chiến và hoà bình I và II, rồi Sông Đà, Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi v.v. . dù được ông xác định là tùy bút cũng không thể gọi là tùy bút
được, bởi cách cấu trúc văn bản không thuộc thể tùy bút.
3. Các đề tài chính trong sáng tác của Nguyễn Tuân
3.1. Trước Cách mạng tháng Tám:
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của Nguyễn Tuân cho đến
trước năm 1937 hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Nhưng sáng tác buổi đầu
ấy chưa gây được tiếng vang. 11
Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với nhưng truyện ngắn
hiện thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra nhưng tràng cười châm biếm thoải mái,
đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu lậu, Mười năm trời mới
gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát
triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng, Nam Cao. . cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm
một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận
ra rằng thể loại truyện ngắn vân chưa phù hợp với sở trường của mình. Nguyễn
Tuân chỉ thực sự được công nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ
tùy bút - du ký Một chuyến đi (1938). Tác phẩm là tập hợp nhưng trang viết từ
chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ phim
Cánh đồng ma. Nét đặc sắc nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu.
Có thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu
riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo: “Khi thì trang
nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô
bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng
bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”. Nhân vật chính trong tác phẩm là cái tôi ngông
nghênh kiêu bạc của nhà văn. Một cái tôi sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu
như hoài nghi tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghi, cảm xúc sắc sảo và tinh
tế của mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.
Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ
Vang bóng một thời trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn
vào quy luật của chủ nghia lãng mạn: bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng
việc khám phá và đề cao cái tôi cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả
vụt trở nên nho nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dâu sao, nhưng trang
viết của Nguyễn Tuân vân luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông 12
cảm sâu sắc bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, gắn bó tha thiết
với quê hương bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị, cả trong nhưng thời điểm khắc nghiệt nhất.
3.1.1. Đề tài xê dịch:
Sự tiếp xúc với văn học phương Tây hồi đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng lớn đến
văn học Việt Nam. Nhiều trào lưu, chủ nghia có nguồn gốc từ phương Tây đã du
nhập vào nước ta và được các nhà văn, nhà thơ Việt Nam tiếp nhận nồng nhiệt. Chủ
nghia xê dịch của Nguyễn Tuân là một thứ lí thuyết vay mượn từ văn học phương
Tây. Câu nói nổi tiếng Pôn Môrăng đã được Nguyễn Tuân lấy làm lời đề tựa cho
tiểu thuyết Thiếu quê hương của mình: “Ta chỉ muốn rằng sau khi ta chết đi, người
ta lột da ta để làm một chiếc va li”.
Trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, giang hồ xê dịch còn
trở thành thứ “bệnh” của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong nhưng người ưa xê dịch, có
lẽ Nguyễn Tuân là người đi xa nhất, viết nhiều nhất, đam mê nhất. Sáng tác của
ông mang tính chất điển hình, sâu đậm, đỉnh cao hơn cả về chủ nghia xê dịch.
Không chỉ chịu ảnh hưởng của phương Tây và nền văn học phương Đông mà sở
thích này xuất phát từ chính Nguyễn Tuân bởi ông là người có cá tính độc đáo và ý
thức cá nhân phát triển cao. Ham mê xê dịch còn là một “gen trội” mà Nguyễn
Tuân được thừa hưởng từ gia đình khi ông nội và bố ông đều là nhưng người có
một di vãng “lang bạt kì hồ”. Là người tự do, phóng túng, ông quan niệm “đời là
một trường du hý”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Nếu nói “văn là người” thì
điều này rất đúng với Nguyễn Tuân. Ông viết văn như để chơi ngông với đời.
Nhưng gì người khác cho là nghịch lí, nghịch thuyết thì ông đẩy nó lên thành chủ
nghia tới mức cực đoan. Ham du lịch, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này
thành lý thuyết- “chủ nghia xê dịch”. Học theo chủ nghia xê dịch, nhà văn thể hiện
khát khao thích phiêu lưu, thèm khát nhưng cảm giác mới lạ, nhưng nẻo đường, 13
nhưng miền đất mới, được gặp gỡ muôn mặt người trên con đường giang hồ mê mải.
Nhưng điều này đã cùng gặp gỡ nhau nơi con người Nguyễn Tuân để rồi
nhưng trang viết được thăng hoa qua ngòi bút của ông. Trước Cách mạng tháng
Tám, Nguyễn Tuân đã viết một loạt nhưng tác phẩm thể hiện niềm đam mê cuộc
sống giang hồ lãng du của mình như Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hương
(1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943) …
Hình ảnh chàng Nguyễn trước Cách mạng có phần nào đó sống vô trách
nhiệm, kiêu bạc, chán chường, không lối thoát trước cuộc đời. Tuy nhiên, trong
cách phản ứng có phần tiêu cực của người thanh niên có cá tính mạnh mẽ ấy, ta
cũng nhận ra tình yêu đất nước thầm kín, là lời bày to tấm lòng gắn bó tha thiết với
cảnh sắc và phong vị đất nước bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài
hoa, tình yêu của một thế hệ nghệ si sống giưa quê hương mà vân thấy mình thiếu
quê hương. Không chỉ thế, Nguyễn Tuân đã thực sự sống xê dịch trước khi viết về
xê dịch. Nhưng quan niệm về xê dịch của nhà văn cũng không giống thái độ mục
đích du lịch thông thường mà thực sự đã trở thành một hệ thống tư tưởng, lý thuyết
chủ nghia độc đáo. Sở thích lãng du, thậm chí dám vượt biên giới để tìm kiếm và
trải nghiệm nhưng cảm giác khác lạ của nhà văn đã thắp lên ngọn lửa sự sống đang
lụi tàn trong tâm hồn không ít thanh niên tâm huyết với đất nước mà bất lực trước thời cuộc đương thời.
3.1.2. Đề tài viết về vẻ đẹp quá khứ
Chủ nghia lãng mạn thường biểu hiện ở sự chối bo thực tại, vượt lên thực tại
buồn chán, bế tắc, hoặc hướng về tương lai hay ngoảnh lại quá khứ, hoặc khao khát,
bay bổng với hiện tại được mộng ảo hóa. Trong khi văn học Việt Nam 1930- 1945
phân hóa thành nhiều xu hướng, nhiều dòng văn học với nhưng đề tài, chủ đề khác
nhau thì dòng văn học lãng mạn xuất hiện đề tài viết về quá khứ. 14
Cũng nằm trong khuynh hướng phục cổ, Nguyễn Tuân không giống với các
nhà văn, nhà thơ khác, ông trở về quá khứ theo cách của riêng mình. Nhà văn
không tìm thấy cái đẹp hiện hưu trong cuộc đời, nên đã trở về quá khứ, với cội
nguồn dân tộc. Là nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn hoài niệm, ông chắt chiu,
gạn lọc tất cả nhưng gì là tinh hoa trong quá khứ để thể hiện trong tác phẩm của
mình. Có lẽ, sống giưa thời cuộc Tây Tàu nhố nhăng, Nguyễn Tuân đã nhận thức
được rằng một cá nhân mình không thể phủ định được thực tại để hướng tới tương
lai tốt đẹp, bởi vậy ông phải vin vào quá khứ vàng son của dân tộc để sống và để
nhấm nháp dư vị của một thời không bao giờ trở lại. Các tác phẩm viết về đề tài
quá khứ của Nguyễn Tuân đăng rải rác trên các tạp chí Tao đàn, Tiểu thuyết thứ
bảy, Thanh nghị và hai tập tùy bút Tùy bút I và Tùy bút II nhưng tập trung đậm nét
hơn cả vân là trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời - tác phẩm được tặng giải
thưởng của Nhà xuất bản Alechxandre de Rhodes- một nhà xuất bản có khuynh
hướng phục cổ của thực dân Pháp.
Có thể nói trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân dường như cố quên đi
cái hiện thực mà ông đang sống, cái hiện thực mà theo ông đầy nhưng xấu xa, bon
chen, đố kỵ. Ông thực sự say sưa tỉa tót, tô đậm thêm cái nét xưa đã mờ nhạt, nét vẻ
của nhưng ngày đã qua, một thời đã tàn. Nguyễn Tuân cũng hiểu rằng, cái thời đó
đã qua và không bao giờ trở lại nưa, vì vậy ông không khoi biểu lộ niềm tiếc nuối
của mình. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân viết về thời đã qua không phải vì muốn khôi
phục lại thời phong kiến suy tàn mà thực chất là phản ứng của ông trước hiện tại
nhố nhăng mà ông đang sống. Việc làm sống lại cái đẹp xưa, Nguyễn Tuân đã thể
hiện một cách giư thiên lương, to thái độ bất hợp tác với thực dân, một lòng thiết
tha với nhưng giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Giưa làn sóng Âu hóa mạnh
mẽ, thái độ đó của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng.
3.1.3. Đề tài cuộc sống hưởng lạc 15
Chủ nghia lãng mạn thường thoát ly hiện thực. Họ thoát ly bằng nhiều con
đường khác nhau: trốn vào tình yêu, trốn vào quá khứ và trốn vào trụy lạc để quên
lãng, để tìm nhưng cảm giác lạ. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, đan xen với chủ
đề giang hồ xê dịch là chủ đề về cuộc sống hưởng lạc. Bản thân cuộc sống giang hồ
phần nào đã gợi lên trong nhưng trang viết của Nguyễn Tuân một cuộc sống phóng
túng, chơi bời ở nhưng tiệm rượu, tiệm hút, nhà chứa, xóm cô đầu. Hai chủ đề này
vì thế có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau.
Viết về đề tài thuốc phiện, cô đầu, Nguyễn Tuân khác với các nhà văn hiện
thực và có phần đồng cảm với các nhà văn, nhà thơ lãng mạn. Nhưng nếu các nhà
văn, nhà thơ lãng mạn thi vị hóa thú vui hưởng lạc, hoặc thể hiện trạng thái thăng
hoa của cảm xúc để đến gần hơn với thi ca thì Nguyễn Tuân viết về thuốc phiện và
cô đầu như một lời thú tội về quãng đời “phóng túng hình hài”, chơi bời, lêu lổng
của nhà văn. Các tác phẩm: Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu
lạc… là nhưng tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân về đề tài này.
Chiếc lư đồng mắt cua (1941) là một tập tùy bút có tiếng vang không kém gì
Vang bóng một thời. Ở đây, sự trụy lạc, sa đọa, muốn được hưởng mọi hương vị,
màu sắc trần thế cùng nhưng thèm khát phi lý, phi đạo đức: “Chỉ thèm chơi… Chơi
cảnh, chơi người. Cảnh bất cứ chỗ nào của thiên nhiên. Người, bất cứ là ai, bất cứ
hạng nào, chơi xong rồi bo có định giư gìn đâu mà phải lựa chọn” không hẳn là một
thái độ sống vị kỷ, vô trách nhiệm, phá phách, thiếu lương tâm.
Ngoài Chiếc lư đồng mắt cua, chủ đề viết về cuộc sống hưởng lạc còn xuyên
suốt hai thiên phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939) và Tàn đèn dầu lạc (1941). Hai
thiên phóng sự này đã miêu tả cụ thể tình cảnh và tâm trạng của nhưng người
nghiện thuốc phiện đến mức không làm chủ được bản thân để rồi rơi vào tình cảnh
khốn cùng, sống cuộc đời cô đơn, buồn tẻ. Tuy vậy, qua các tác phẩm ta vân nhận
ra nhưng người này dù có thời sa chân vào cô đầu, thuốc phiện nhưng chưa hoàn
toàn mất hết nhân cách. Bởi lẽ, mỗi khi nhìn lại, họ tự thẹn với mình, đau đớn, xót 16
xa khi thấy mình trở nên đồi bại. Có thể nói, viết về đề tài cuộc sống hưởng lạc là
một cách để lãng quên hiện thực đen tối, cũng là để tìm nhưng cảm giác nồng cháy
mới lạ của một con người ưa xê dịch như Nguyễn Tuân. Nhưng tác phẩm của ông ở
đề tài này cho thấy sự bế tắc, chán nản của một thế hệ thanh niên chưa tìm thấy lối
thoát cho hiện tại, đằng sau đó là khao khát đổi thay để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phải chăng, chính điều này đã thúc đẩy người nghệ si Nguyễn Tuân sớm đến với
Cách mạng và có nhưng tác phẩm ngợi ca cuộc sống, chiến đấu, lao động của quân
và dân trong thời đại mới.
3.2. Sau Cách mạng tháng Tám
Vào nhưng ngày cuối cùng của chế độ thuộc địa, Nguyễn Tuân cũng như
nhiều nghệ si lúc bấy giờ, rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về quan niệm
nghệ thuật. Chính Cách mạng tháng Tám đã giúp Nguyễn Tuân thoát khoi nhưng
bế tắc trong cuộc sống và sáng tác nghệ thuật, đem đến cho ông một nguồn cảm hứng sáng tạo mới.
Nguyễn Tuân đã hồi sinh, say mê trong niềm vui lớn của đất nước. Nguyễn
Tuân đến với cách mạng và kháng chiến, hăng hái đi thực tế, dùng ngòi bút để ca
ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và trong lao động sản xuất.
Hình tượng chính trong các sáng tác của ông là nhân dân lao động và người chiến si
trên mặt trận vũ trang, nhưng con người bình thường mà vi đại: Đường vui (1949),
Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (tập I -1953, tập II -
1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ gioi (1972),… đánh dấu nhưng chặng
đường của một cây bút độc đáo và tài hoa trên con đường nghệ thuật gắn bó với
dân tộc, với nhân dân và đất nước.
III. Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật độc đáo và sâu sắc: 17
1. Nguyễn Tuân với cái tôi bản ngã
Một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là sự thể hiện cái tôi
bản ngã một cách rõ rệt.
Đó là nguyên nhân khiến Nguyễn Tuân thường xây dựng nhân vật ở ngôi thứ
nhất – nhân vật tôi. Đôi lúc, Nguyễn Tuân đặt tên cho nhân vật nhưng thực chất
vân là hình bóng chủ quan của nhà văn.
Cái tôi bản ngã đó còn thể hiện trong cách viết của Nguyễn Tuân. Nguyễn
tuân quan niệm đã viết thì phải in đậm dấu ấn cá nhân vào trang giấy, mỗi trang
viết phải là một “tờ hoa”, một “trang hoa”. Đọc văn Nguyễn Tuân dễ dàng nhận ra
tác giả có một cái gì đó rất Nguyễn Tuân hiện ra qua câu chư. Đó là cách viết hơi
gai góc, thâm trầm, chất “muối” riêng của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ, có lối sống tự do và phóng túng.
Ông không thích nhưng gì yên ổn, bằng phẳng và nhợt nhạt. Một con người luôn
luôn thèm khát nhưng cảm giác mới lạ nên rất thích xê dịch; thường có cảm hứng
mãnh liệt và dào dạt trước nhưng cảnh tượng hoặc đặc biệt dư dội tuyệt mỹ đập
mạnh vào giác quan nghệ si của ông. Ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng thường có
thói quen tô đậm nhưng cái phi thường, xuất chúng, gây cảm giác mãnh liệt; tất cả
đều có xu hướng vươn tới cái tuyệt vời, tuyệt đích. “Ông là nhà văn của nhưng tính
cách độc đáo, của nhưng tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của nhưng phong cảnh tuyệt
mi, của gió bão, của núi cao, rừng thiêng, của thác ghềnh dư dội (Nguyễn Đăng Mạnh).
Nguyễn Tuân luôn lấy cái tôi nghệ si của mình làm nhân vật chủ yếu, vì vậy
ông chọn thể tùy bút cho ngòi bút tung hoành. Tùy bút là thể loại có nhiều tự do
trong quá trình sáng tạo. Tùy bút bộc lộ nhiều ý nghi chủ quan của người sáng tạo.
Nguyễn Tuân đã có nhưng đóng góp không nho vào sự hình thành và phát triển thể
loại này trong văn học hiện đại. 18
2. Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa, uyên bác
Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa và uyên bác: Tài hoa trong việc dựng
người, dựng cảnh, tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngư nghệ thuật, trong nhưng so
sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với nhưng hình ảnh đẹp đầy gợi cảm; uyên bác
trong việc vận dụng nhưng kiến thức thuộc nhiều linh vực khác nhau để làm phong
phú và giàu có thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương. Ông luôn có ý
thức vận dụng tri thức của các ngành như hội họa, điêu khắc, điện ảnh, địa lí, lịch
sử. . để miêu tả hiện thực, sáng tạo hình tượng. Văn Nguyễn Tuân thường pha chất
khảo cứu, không chỉ giàu chất thẩm mỹ mà nội dung thông tin cũng phong phú, đa dạng.
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể
thâu tóm trong một ngư “ngông”. Muốn chơi ngông phải tài hoa. Bất cứ ở tác phẩm
nào, Nguyễn Tuân cũng bộc lộ cái uyên bác, tài hoa hơn người. Ông thể hiện trong
tác phẩm một kho kiến thức về mọi linh vực, văn hóa, lịch sử, địa lí, hội họa, điêu
khắc. Có được sự uyên bác đó, Nguyễn Tuân đã phải tìm tòi, nghiên cứu công phu.
Nguyễn Tuân đã sử dụng mặt mạnh của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để
tăng thêm sức biểu hiện của văn học.
Ngông là phản ứng tiêu cực nhưng kiêu ngạo đối với xã hội. Người chơi
ngông muốn dựa vào tài hoa, sự lịch lãm và nhân cách hơn đời để đặt mình lên trên
thiên hạ. Thái độ ngông của Nguyễn Tuân có màu sắc riêng: vừa kế thừa truyền
thống "ngông" của các nhà nho tài hoa bất đắc chí như Nguyễn Công Trứ, Tú
Xương, Tản Đà. ., vừa tiếp nhận ảnh hưởng tư tưởng cá nhân chủ nghia của văn
hóa phương Tây hiện đại. Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn
Tuân đề muốn chứng to sự độc đáo, tài hoa và uyên bác. Chất tài hoa và uyên bác
trong văn Nguyễn Tuân thể hiện ở nhưng điểm:
- Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mi: "Con sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trư tình" (Người lái đò Sông Đà). 19
- Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ si: nhân vật Huấn Cao có tài
viết chư đẹp và nhân cách cao quý (Chư người tử tù).
- Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau về đối
tượng sáng tác để tạo hình tượng. Con sông Đà hung bạo và nhưng trận thủy chiến
của ông lái đò được ghi lại bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí,
lịch sử, quân sự, võ thuật (Người lái đò Sông Đà).
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định về cái ngông của Nguyễn Tuân
như sau: “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong
một chư ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất
đắc chí của nhưng Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà… và trực tiếp hơn là cụ Tú
Lan, thân sinh nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết
lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con
người cao đẳng, thuyết hiện sinh…”
3. Nguyễn Tuân là nhà nghệ sĩ ngôn từ
Một đặc điểm nổi bật của văn phong Nguyễn Tuân là sự giàu có ngôn ngư.
Bất kì ở linh vực nào, dù ở truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết hay tiểu luận phê bình,
người đọc đều tìm thấy một Nguyễn Tuân chăm chút cho cái kho tàng ngôn ngư
phong phú đến kì lạ của mình. Chư nghia của Nguyễn Tuân thật thần tình. Ông
thuộc số nhà văn yêu tha thiết và hiểu sâu sắc Tiếng Việt. Ông trân trọng và rất
công phu khi đặt từng chư, từng câu trên trang giấy.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “ Câu văn Nguyễn Tuân lung linh gây
cho người đọc một sự say mê gần như ma quái”. Hoàng Ngọc Hiến nhận định:
“Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân chư nghia được thổi hồn trở nên sống động khác
thường. Chính chư nghia thần tình của tác giả đã tạo ra nhưng trang kí văn học tuyệt bút”. 20