Tìm hiểu về triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Triết học là hoạt động tinh thần bậc cao, là loại hình nhận thức có trình độ trừu tượng hóa vàkhái quát hóa rất cao. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Triết học là gì?
Triết học: Đi vào nghiên cứu thế giới như một chỉnh thể để xây dựng một bức tranh chung, khái
quát về thế giới.
Triết học hoạt động loại hình nhận thức trình độ tinh thần bậc cao, trừu tượng hóa
khái quát hóa rất cao.
1. Triết học tồn tại với tính cách là một hình thái yếu tố hội, triết học nào cũng tham
vọng xây dựng nên bức trang về thế giới và con ngườitổng quát nhất
Định nghĩa triết học: Triết học hình thức đặc biệt của nhận thức ý thức hội về thế giới,
được thể hiện thành vvề những nguyên tắc bản nền tảng của tồn tạihệ thống tri thức
người, về những đặc trưng của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, vớibản chất nhất
hội và với đời sống tinh thần [Bách khoa thư triết học mới của Việt Triết học Nga, 2001]
Định nghĩa triết học bao gồm các nội dụng chủ yếu:
1. TH là một hình thái ý thức xã hội
2. Khách thể khám phá của triết học là thế giới trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn
3. TH giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng tìm ra những chi phốiquy luật phổ biến nhất
sự vận động của thế giới
4. Tri thức triết học mang tính hệ thống, logic và trừu tượng về thế giới
5. TH là hạt nhân của thế giới quan
Đặc trưng của tri thức triết học
1. Tri thức bậc cao
2. Mang tính lý luận
3. Mang tính khái quát, chung nhất
4. Mang tính hệ thống
Khoa học cụ thể: Đi vào nghiên cứu 1 bộ phận của thế giới – KHTN, KHXH
Triết học Mác – lênin
Triết học về thế giới tị trí con người trong thếhệ thống quan điểm luận chung nhất
giới đó, của tự nhiên, hộikhoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất
và tư duy.
Tri thức triết học: mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản
chất cuộc sống con người.
Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận.
Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ
giữa các yếu tố và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thế đó.
Nguồn gốc ra đời của triết học:
Trong xã hội nguyên thủy chưa có triết học, chỉ có thế giới quan huyền thoại, tôn giáo.
Triết học ra đời vào khoảng , khi xã hội đã có sự phát triểnthế kỉ VIII – VI trước Công nguyên
ở một trình độ nhất định.
1. Nguồn gốc nhận thức: khoa tàng tri thức của loài người đã hình thành vốn hiểu biết nhất
định trên sở đó, duy con người đã đạt đến trình độ khái quát hóa, trừu tượng
hóa…
2. Nguồn gốc hội: nền sản xuất hội đã sự phân công lao động; chế độ hữu xuất
hiện; hội phân chia giai cấp; xuất hiện (những người xuất sắc) trí thức điều kiện,
nhu cầu, năng lực hệ thống hóa các quan niệm thành lý luận…
Các trung tâm triết học cổ đại:
Phương Tây:
Hy Lạp: “Philosophia” – yêu mến sự thông thái
Giải thích vũ trụ
Định hướng nhận thức và hành vi của con người
Khát vọng tìm kiếm tri thức của con người
Phương Đông:
Trung Hoa: “TRÍ” truy tìm của đối tượng nhận thức, là biểu hiện cao của tríbản chất
tuệ, sự hiểu biết về sâu sắc toàn bộ thế giới, định hướng nhân sinh quan cho con
người.
Ấn Độ: “chiêm ngưỡng” hàm ý tri thức dựa trên con đường để dẫn trí, suy ngẫm
dắt con người đến với lẽ phải.
Triết học Mác: Đối tượng nghiên cứu tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại duy,
giữa vật chất ý thức trên lập trường duy vật triệt để, nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
| 1/2

Preview text:

Triết học là gì?
Triết học: Đi vào nghiên cứu thế giới như một chỉnh thể để xây dựng một bức tranh chung, khái quát về thế giới.
Triết học là hoạt động tinh thần bậc cao,
loại hình nhận thức có trình độ trừu tượng hóa và
khái quát hóa rất cao.
1. Triết học tồn tại với tính cách là một hình thái yếu tố xã hội, triết học nào cũng có tham
vọng xây dựng nên bức trang tổng quát nhất về thế giới và con người
Định nghĩa triết học: Triết học là hình thức đặc biệt của nhận thức và ý thức xã hội về thế giới,
được thể hiện thành hệ thống tri thức vvề những nguyên tắc cơ bản và nền tảng của tồn tại
người, về những đặc trưng bản chất nhất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã
hội và với đời sống tinh thần [Bách khoa thư triết học mới của Việt Triết học Nga, 2001]
Định nghĩa triết học bao gồm các nội dụng chủ yếu:
1. TH là một hình thái ý thức xã hội
2. Khách thể khám phá của triết học là thế giới trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn
3. TH giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối
sự vận động của thế giới
4. Tri thức triết học mang tính hệ thống, logic và trừu tượng về thế giới
5. TH là hạt nhân của thế giới quan
Đặc trưng của tri thức triết học 1. Tri thức bậc cao 2. Mang tính lý luận
3. Mang tính khái quát, chung nhất 4. Mang tính hệ thống
Khoa học cụ thể: Đi vào nghiên cứu 1 bộ phận của thế giới – KHTN, KHXH Triết học Mác – lênin
Triết học – là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và tị trí con người trong thế
giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tri thức triết học: mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản
chất cuộc sống con người.
Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận.
Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ
giữa các yếu tố và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thế đó.
Nguồn gốc ra đời của triết học:
Trong xã hội nguyên thủy chưa có triết học, chỉ có thế giới quan huyền thoại, tôn giáo.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ VIII – VI trước Công nguyên, khi xã hội đã có sự phát triển
ở một trình độ nhất định.
1. Nguồn gốc nhận thức: khoa tàng tri thức của loài người đã hình thành vốn hiểu biết nhất
định và trên cơ sở đó, tư duy con người đã đạt đến trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa…
2. Nguồn gốc xã hội: nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động; chế độ tư hữu xuất
hiện; xã hội phân chia giai cấp; trí thức xuất hiện (những người xuất sắc) có điều kiện,
nhu cầu, năng lực hệ thống hóa các quan niệm thành lý luận…

Các trung tâm triết học cổ đại: Phương Tây:
Hy Lạp: “Philosophia” – yêu mến sự thông thái  Giải thích vũ trụ 
Định hướng nhận thức và hành vi của con người 
Khát vọng tìm kiếm tri thức của con người Phương Đông: 
Trung Hoa: “TRÍ” – truy tìm bản chất của đối tượng nhận thức, là biểu hiện cao của trí
tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc về toàn bộ thế giới, định hướng nhân sinh quan cho con người.
Ấn Độ: “chiêm ngưỡng” hàm ý tri thức dựa trên lý trí,
con đường suy ngẫm để dẫn
dắt con người đến với lẽ phải.
Triết học Mác: Đối tượng nghiên cứu là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy,
giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để, nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.