


Preview text:
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Một trong số những tín ngưỡng quan trọng
nhất, tồn tại lâu đời nhất là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên)
- Định nghĩa : Ta có thể hiểu, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là sự sùng bái, thiêng
hóa các hiện tượng tự nhiên, sự sùng bái này cũng được xem là giai đoạn tất yếu
trong quá trình phát triển của con người, đặc biệt là đối với các nền văn hóa gốc
nông nghiệp. Do đời sống nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu
nhưng con người lại chưa giải thích được các hiện tượng đó nên sự sùng bái tự
nhiên đã xuất hiện. Qua đây, con người thể hiện ước vọng, niềm cầu mong mưa
thuận, gió hòa, cây cối tươi tốt, mùa màng bội thu. - Biểu hiện :
+ Trong tín ngưỡng này, người Việt thờ rất nhiều thần tự nhiên và thường có xu
hướng đồng nhất các thần tự nhiên thành các nữ thần, các nữ thần thường là các
Mẫu, các bà mẹ. Tục thờ Mẫu đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển hình.
Thờ mẫu là các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước – những nữ thần cai quản các hiện
tương tự nhiên, quan trọng nhất, thân thiết nhất đối với cuộc sống của người
làm nông nghiệp lúa nước. Về sau, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa gốc
du mục nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá. Nhiều nhà ở góc sân vẫn
có một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên, Bà Đất tồn tại dưới tên mẹ Đất
(địa Mẫu), bà Nước dưới tên Bà Thủy. Ba bà này tồn tại dưới dạng tín ngưỡng
TAM PHỦ. Các bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp là những hiện tượng có vai trò to
lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Khi Đạo Phật vào Việt
Nam, nhóm nữ thần này được nhào nặn thành Tứ Pháp: Pháp Vân Thần Mây
được thờ ở Chùa Bà Dâu, Pháp Vũ – Thần Mưa thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi –
Thần Sấm thờ ở Chùa Bà Tướng và Pháp Điện – Thần Chớp thờ ở Chùa Bà Dàn.
+ Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời
gian. Thần không gian được hình dung theo Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ
Phương chi thần coi sóc các phương trời; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả
đường. Theo địa chí, người ta thờ thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển ( 12
vị thần mỗi vị coi sóc 1 năm theo Tí, Sửu, Dần, Mão…) đồng thời có trách
nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là Mười hai Bà Mụ.
+ Và tín ngưỡng sùng bái tự nhiên còn được thể hiện thông qua tục thờ động
vật và thờ thực vật. Trong đó, các động vật như chim, rắn, cá, cá sấu – là các
động vật phổ biến hàng đầu và cũng là các động vật ở vùng sông nước. Người
Việt ta còn có câu: “ Nhất điểu, nhì xà, tam ngư , tứ tượng”. Từ các con vật
này người ta còn thần thánh hóa lên thành các vật biểu trưng như “Tiên”,
“Rồng” theo như truyền thống thì tổ tiên người Việt ta là con Rồng, cháu Tiên.
Thực vật thì được tôn sùng nhất là cây Lúa: cây Lúa xuất hiện khắp nơi dù là
vùng Người Việt hay các vùng dân tộc đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn
Lúa, Mẹ Lúa, ta có thể dễ dàng bắt gặp các lễ hội như: Lễ rước thần lúa của
người Ê đê, Lễ hội Yang Koi – cúng thần lúa của người Mạ,. Tiếp đó là các
loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả Bầu…
- Ý nghĩa : Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là một tín ngưỡng dân gian thuần Việt,
có lịch sử lâu đời và luôn biến chuyển, sẵn sàng thích ứng với sự thay đổi của xã
hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước
vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của
người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức hút mọi tầng lớp trong
xã hội. Tâm là giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu. Mẫu dạy con người sống
hướng thiện, có cái tâm trong sáng biết, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà
tổ tiên và biết ơn những người có công với dân với nước.
Tín ngường thờ cúng tổ tiên ( Trong nghị quyế số 25-NQ/TW ngày
12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, có ghi “ Giữ gìn và phát huy
những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người
có công với Tổ quốc và nhân dân ” đã nhằm khẳng định những giá trị quan
trọng mà tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mang lại với nhân dân Việt Nam.
- Định nghĩa: Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là quan niệm chuyển tải
trong sự thờ cúng của hậu thế, hướng tới sự tồn tại của linh hồn tổ tiên và lập
mối liên hệ giữa người đã chết và người đang sống (cùng chung huyết thống).
Bằng cúng tế để lập con đường “hồn” thiêng tổ tiên về chứng kiến, theo dõi
hành vi sự thờ cúng của con cháu. Từ đó có thể quở trách hoặc phù hộ cuộc sống
của họ. Trong thực hành tín ngưỡng này nổi bật nhất vai trò của nó là chuyển tải
đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đó là nội dung nổi trội, các nghi thức, nghi lễ là
hình thức bên ngoài. Hiện nay đây là loại hình tín ngưỡng được thực hành phổ
biến ở các cấp độ: gia đình, dòng tộc, quốc gia.
Tín ngưỡng thờ thànnh hoàng làng (Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là một
loại hình tín ngưỡng khá phổ biến ở làng xã của người Việt ở đồng bằng Bắc
bộ. “Người Việt phổ biến nhất, nổi bật nhất là thờ thần ở làng, không làng nào
là không có đình, đền, miếu thờ thần”[1]. “Bởi thế, thần Thành hoàng là biểu
tượng thiêng liêng nhất của cả làng, ở mỗi làng, khắp các làng xưa kia”[2]. Tín
ngưỡng thờ Thành hoàng là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con
người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.) 1. Định nghĩa
- Tín ngưỡng thờ thành hoàng có nguồn gốc bắt nguồn từ Trung Quốc được du
nhập vào Việt Nam trong thời nhà Đường và trở thành một trong những tín
ngưỡng lớn của người dân Việt Nam. Thành là thành trì, thành quách, bức tường
cao. Hoàng là hào không chứa nước, ngăn cách, tránh sự tấn công từ bên ngoài
với thành, hào có nước được gọi là thành trì. Thành hoàng tức là ông thần bảo vệ thành trì. 2. Phân loại
- Đô thành hoàng: vị thành hoàng bảo vệ cho kinh đô (duy nhất vị thần sông Tô
Lịch là thành hoàng của thành Đại La).
- Thành hoàng làng: áp đảo, phổ biến nhất ở các làng quê, các vị thành hoàng bảo vệ cho làng xã. 3. Biểu hiện
- Người Việt kết hợp thờ thành hoàng với các vị thần của mình (chọn ra một vị
thần công trạng, công lao lớn nhất trong các vị thần).
- Thành hoàng Làng gồm có 3 loại: thiên thần, nhiên thần và nhân thần.
+ Thiên thần: thần của các hiện tượng thiên nhiên mây, mưa, sấm, chớp: Thánh Gióng.
+ Nhiên thần: Vua Cha Bát Hải Động Đình, Thủy Tinh (thủy thần), Sơn Tinh
+ Nhân thần: là người thường nhưng có công trạng, sự tích gắn liền với làng
nên được làng thờ phụng. Nhân thần gồm 2 loại là chính thần và tà thần, dâm
thần. Chính thần là những người có công với làng với nước, được tôn vinh,
được triều đình sắc phong (Thượng Đẳng Phúc Thần – có công trạng lớn: Hai
Bà Trưng, Ngô Quyền. ., Trung Đẳng Phúc Thần – những vị thần dân làng thờ
đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng, hoặc những vị thần có chút linh vị,
Hạ Đẳng Phúc Thần – vị thần có công với dân làng). Tà thần, dâm thần – có
xuất thân hèn kém: thần ăn trộm, thần ăn xin,. (được dân làng thờ do sau cái
chết của những người này thường có chuyện xảy ra với làng: ăn nên làm ra
hoặc gặp khó khăn thiên tai).
4. Ý nghĩa : Như vậy, ta có thể nói, tín ngưỡng thờ Thành hoàng là sự kết hợp
đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.
Tục thờ Thành hoàng làng là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc,
nó thể hiện ý thức về lòng biết ơn với những người có công của làng xã, đồng
thời thể hiện ý thức giữ gìn tục lệ cổ truyền của làng xã và sự đoàn kết của
nhân dân. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng chính là tinh hoa chắt lọc qua
suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho khát vọng xây dựng một cuộc sống phồn
vinh và tinh thần hạnh phúc.