Tổ chức hội gì? Đặc điểm, quyền nghĩa
vụ tổ chức hội
1. Khái niệm tổ chức hội
Tổ chức hội hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt
Nam chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật theo điều lệ,
không lợi nhuận nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên
tham gia vào quản nhà nước, quản hội.
Cùng với quá trình dân chủ hoá, các quyền con người Việt Nam được pháp
luật bảo vệ ngày càng toàn diện hơn. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Công n Việt Nam quyền lập hội theo quy định của pháp luật. Đây
sở pháp vững chắc để các tổ chức hội ra đời, tồn tại phát triển. Trong
giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến hành công cuộc cồng nghiệp hoá,
hiên đại hoá” xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa thì quyền tự
do, dân chủ của công dân càng được chú trọng m rộng bảo vệ. Bên cạnh
đó, xu thế hội nhập quốc tế đang tác nhân thúc đẩy sự ra đời phát triển
của các tổ chức hội Việt Nam.
Sự ra đời, tổn tại phát triển của t chức hội ý nghĩa quan trọng đối
với đời sống chính trị, kinh tế, hôi của đất nước. Về chính trị, tổ chức
hội chỗ dựa của chính quyền nhân dân. Với vai trò hội tụ sức mạnh đoàn
kết toàn dân, tăng người khác phải tham gia hay không được tham gia vào
các tổ chức hội nhất định. Tuy nhiên, mỗi tổ chức hội đều đặt ra những
tiêu chuẩn nhất định đối với người muốn trở thành thành viên của tổ chức
hội đó.
Điều 1 Điều lệ công đoàn Việt Nam năm 2003 quy định:
"Công nhân, viên chức, lao động Việt Nam làm ng, hưởng
lương, người lao động t do hợp pháp, không phân biệt nghề
nghiệp, nam nữ, tín ngưỡng nếu tán thành Điều lệ công đoàn
Việt Nam, tự nguyện sinh hoạt trong một tổ chức sở của
công đoàn, đóng đoàn phí theo quy định thì được gia nhập công
đoàn".
Yếu tố tự nguyên còn biểu hiện trong việc kết nạp hay khai tr các thành viên
của tổ chức hội hoàn toàn do tổ chức hội đó những người muốn
tham gia quyết định. Nhà nước không can thiệp cũng không sử dụng
quyền lực nhà nước để chi phối hoạt động đó. Mỗi tổ chức hội tập hợp
những thành viên cùng chung dấu hiệu đặc điểm.
dụ: Cùng chung mục đích tưởng như Đảng cộng sản Việt Nam, cùng giai
cấp như Hội nông dân Việt Nam, cùng độ tuổi như Đoàn thanh niên Cộng sần
Hồ Chí Minh, ng giới tính như Hội hên hiệp phụ nữ, cùng nghề nghiệp như
Hội nhà văn, Hội nhà báo, cùng chung sở thích như hội những người yêu thể
thao, thậm chí thể cùng chung một dấu hiệu khuyết tật n Hội người mù...
Họ hên kết nhau lại, tìm tiếng nói chung trong hình thức tổ chức hội nhằm
đáp ứng nhu cầu bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình.
- Các tổ chức hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt động
quản nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức
hội mới hoạt động nhân danh nhà nước. Đặc điểm này của tổ chức hội
thể hiện tổ chức hội không phải bộ phận trong cấu của bộ máy nhà
nước. Nhà nước thừa nhận bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức hội được
trái pháp luật phải được quan nhà nước thẩm quyền phê chuẩn.
Việc Nhà nước phê chuẩn điều lệ hoạt động của tổ chức hội là kiểm tra,
đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của các điều lệ đó, cho phép các tổ chức
hội tổn tại hoạt động theo điều lệ. Điều lệ của các tổ chức hội không
phải vãn bản pháp luật, các quy định trong điều lệ không mang tính pháp lí,
chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ hội trong nội bộ của tổ chức hội đó
chỉ hiệu lực đối với c thành viên trong tổ chức. Mặt khác, điều lệ hoạt
động của các tổ chức hội cũng không quy định quyền nghĩa vụ pháp
của các tổ chức hội, không xác định năng lực chủ thể của các tổ chức
hội trong các quan hệ quản nhà nước.
Năng lực chủ thể của các tổ chức hội để tham gia vào các quan hệ pháp
luật do Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật về quản lí hội các
văn vản pháp luật liên quan, Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về
quyền nghĩa vụ pháp của tổ chức hội trong lĩnh vực hành chính nhà
nước tạo thành quy chế pháp hành chính của tổ chức hội. Trong quá
trình hoạt động, các tổ chức hội tự giải quyết các công việc nội bộ của
mình, Nhà nước sẽ không can thiệp nếu hoạt động của các tổ chức hội
không trái pháp luật.
- Các tổ chức hội hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận nhằm
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Đặc điểm này phân biệt tổ chức hội vói các tổ chức kinh tế như: công ti cổ
phần, công ti trách nhiệm hữu hạn, các hợp tácÃíi tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ ...
Các tổ chức hôi vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật
cho nhân dân, trước hết là cho các thành viên trong tổ chức đó. Thông qua
những quy định trong điều lệ hoạt động của tổ chức hội, thông qua hoạt
động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các thành
Tổ chức phi chính phủ hai loại: Tổ chức phi chính phủ mang tính quốc gia
tổ chức phi chính phủ mang tính quốc tế. TỔ chức phi chính phủ mang
tính quốc gia các thành viên cùng mang một quốc tịch. Tổ chức phi chính
phủ mang tính quốc tế các thành viên mang nhiều quốc tịch khác nhau.
Các tổ chức này hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, phải tuân thủ pháp luật
của tất cả các nước thành viên hợp tác.
Các tổ chức tôn giáo không thuộc các tổ chức hội theo khái niệm về tổ
chức hội trong Chương này. Tuy không ranh giới ràng nhưng hầu
hết các quốc gia đều theo cách gọi độc lập trực tiếp đối với các tổ chức
tôn giáo, không xếp c tổ chức tôn giáo thuộc tổ chức hội. Mỗi tôn giáo
đều được tạo nên bởi một cộng đồng chung nhu cầu tín ngưỡng. Tổ chức
tôn giáo tập hợp người mối hên h thứ bậc với các chức sắc nội bộ,
hoạt động vói các quy định chuẩn mực riêng của tôn giáo nhằm duy trì,
phát triển truyền giáo với các nghi lễ đảm bảo sự tồn tại phát triển của
chính bản thân tôn giáo.
2. Đặc điểm của tổ chức hội
Tổ chức hội các đặc điểm sau:
1) Tổ chức hội được hình thành trên nguyên tắc t nguyện của những
thành viên ng chung lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở
thích;
2) Tổ chức hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt động quản
nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, tổ chức hội
mới hoạt động nhân danh nhà nước;
3) Tổ chức hội hoạt động theo điều lệ do các thành viên trong t chức y
dựng hoặc theo quy định của nhà nước;
4) Tổ chức hội hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành
viên tham gia vào quản nhà nước, quản hội.
Tổ chức hội nhiều loại khác nhau n tổ chức chính trị - hội (Ví dụ:
Mặt trận tổ quốc, công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh...), tổ
chức hội - nghề nghiệp (Vĩ dụ: Đoàn luật sư), tổ chức được thành lập theo
dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích hoặc dấu hiệu khác (Ví dụ: Hội n văn, Hội
khuyến học, vv). Các tổ chức hội khác nhau thì các quyền nghĩa vụ
khác nhau. Sự khác biệt đó bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí, vai trò, phạm
vi hoạt động của các tổ chức hội. Pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm pháp của tổ chức hội, đồng thời đề ra những đảm bảo pháp
nhằm ngăn ngừa những hành vi cản trở hoạt động của tổ chức hội.
Những người hành vi vi phạm pháp luật cản trở các tổ chức hội cũng
như các thành viên của tổ chức hội tiến hành các hoạt động hợp pháp của
mình thì tuỳ theo mức độ của vi phạm sẽ bị xử theo quy định của pháp luật.
3. Quy chế pháp hành chính của t chức hội
Quy chế pháp hành chính của tổ chức hội tổng thể các quy phạm
pháp luật nhằm đảm bảo quá trình hình thành, tồn tại, pháp triển hoạt
động của tổ chức hội hợp pháp, được nhà nước hội bảo vệ.
Quyền nghĩa vụ pháp của t chức hội trong quản hành chính nội
dung quan trọng trong quy chế pháp hành chính của tổ chức hội.
Do tính chất đặc biệt, Đảng cộng sản Việt Nam một số tổ chức chính trị
hội n Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến
binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam các quyền nghĩa vụ pháp
theo quy chế riêng do Hiến pháp, luật quy định. Các tổ chức hội khác
được tổ chức hoạt động theo Nghị định của Chính phủ số 45/2010/NĐ-
CP ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động quản hội.
Nhà nước quy định công dân quyền lập hội đồng thời tiến hành kiểm tra
tính hợp hiến, hợp pháp đối với hoạt động của các tổ chức hội thông qua
việc phê chuẩn điều lệ hoạt động của các tổ chức hội. Ngay từ khi mới
thành lập, nhà nước ta đã sớm ban hành các văn bản pháp luật về hội nhằm
đảm bảo cho công dân thực hiện quyền tự do lập hội. thể kể đến một số
văn bản pháp luật về hội đã được ban hành như: Luật số 102/SL-L004 ngày
20/5/1957 về quyền lập hội, Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 258/TTg
ngày 14/6/1957 quy định chi tiết thi hành Luật số 102/SL-L004 ngày
20/5/1957 về quyền lập hội, Chỉ thị của Chủ tịch Hội hội phê duyệt. Trường
hợp quy định của điều lệ hội trái với pháp luật thì quan nhà nước thẩm
quyền từ chối p duyệt yêu cầu hội sửa đổi. Điều lệ hội hiệu lực kể từ
ngày quan nhà nước thẩm quyền quyết đinh phê duyệt.
Các tổ chức hội khác nhau thì các quyền nghĩa vụ khác nhau. Sự
khác biệt đó bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí, vai trò phạm vi hoạt động
của các tổ chức hội. Pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp
của các tổ chức hội, đồng thời đề ra những đảm bảo pháp nhằm ngăn
ngừa những hành vi cản trở hoạt động của tổ chức hội. Những người
hành vi vi phạm pháp luật cản trở các tổ chức hội, các thành viên của tổ
chức hội thực hiện nhiệm vụ thì tuỳ theo mức độ của hành vi vi phạm sẽ bị
truy cứu trách nhiệm pháp lí.
4. Nội dung quy chế pháp hành chình của tổ chức xã hội
4.1 Quyền nghĩa vụ của tổ chức hội trong mối quan hệ với quan nhà
nước
Các tổ chức hội khác nhau, các quyền nghĩa vụ khác nhau trong mối
quan hệ với quan nhà nước tuỳ thuộc vào vị trí vai trò của mỗi loại tổ chức
hội trong hệ thống chính trị. Mối quan hệ đó mối quan hệ tương tác giữa
tổ chức hội bộ máy n nước. Cụ thể, nhà nước đảm bảo môi trường
pháp để tổ chức hội hoạt động phát triển, xác định trách nhiệm của
nhà nước trong việc bảo đảm cho các tổ chức hội thực hiện các quyền
nghĩa vụ của mình. Ngược lại, các tổi chức hội trách nhiệm phải tuân
thù pháp luật đồng thời tổ chức hội những quyền cụ thể trong việc thể
hiên tiếng nói của quần chúng nhân dân trong việc hình thành các quan
nhà nước, giám sát hoạt động của quan nhà nước. Quyền, nghĩa vụ của
tổ chức hội trong mối quan hệ với quan nhà nước được chia thành ba
nhóm, gồm: nhóm quyền nghĩa vụ trong sự hình thành quan thành lập,
chia tách, sáp nhập, hợp nhất giải thể, đổi tên phê duyệt điều lệ hội gồm:
Bộ trưởng Bộ nội vụ, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ tịch uỷ ban
nhân dân cấp quận khi được uỷ quyền, cụ thể như sau:
Bộ trưởng Bộ nội vụ cho phép thành lập chia tách, sáp nhập, hợp nhất giải
thể, đổi tên p duyệt điều lệ hội đối với hội phạm vi hoạt động trên cả
nước hoặc liên tỉnh (trừ trường hợp pháp luật quy định khác).
Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập, chia tách, sáp nhập,
hợp nhất giải thể, đổi tên phê duyệt điều lệ hội đối với hội phạm vi hoạt
động trong phạm vi tỉnh. Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương chủ
tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thể uỷ quyền để chủ tịch uỷ ban nhân dân
cấp huyện thực hiên quyền này đối với hội phạm vi hoạt động trong xã.
quan nhà nước thẩm quyền cho phép hay bác bỏ đề nghị xin thành lập
tổ chức hội đồng thời quyền chấm dứt hoạt động của các tổ chức
hội trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định. Trong thời hạn sáu
mươi ngày kể từ ngày nhận đủ hổ xin phép thành lập, quan nhà nước
thẩm quyền phải xem xét quyết định cho phép thành lập hội. Trường hợp
không đồng ý phải văn bản trả lòi nêu do.
- Nhóm quyền nghĩa vụ nhằm duy trì, bảo đảm sự tồn tại phát triển cuả tổ
chức hội
Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện để các t chức hội hoạt động
phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi làm cản trở hoạt động hợp pháp của các
tổ chức hội. C thể, những hội tính chất đặc thù do Thủ tướng Chính
phủ quy định. (Xem: Các điểu 33, 34, 35 Nghị định của Chính phủ số
45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động qũàn hội).
các phiên họp nội dung liên quan đến lĩnh vực hoạt của tổ chức hội,
phát biều kiến qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên.
dụ, Điều 13 Luật công đoàn năm 2012 quy định: "Chủ tịch Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, ch tịch ng đoàn các cấp quyền, trách nhiệm tham dự
các phiên họp, cuộc họp, họp hội nghị của các quan, tổ chức hữu
quan cùng cấp khi bàn quyết định những vấn đề liên quan đến quyền,
nghĩa vụ của người Ịao động”.
Các tổ chức hội-nghề nghiệp được Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ trong
hoạt động nghề nghiệp, tạo hành lang pháp lí để các tổ chức này hoạt động
ổn định. Nhà nước cũng quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ đối vói các t chức tự
quản được thành lập các cấp, dự. Tổ chức thanh tra nhân dân được uỷ
ban nhân dân xã, phường, thủ trưởng quan, đơn vị tạo điều kiện thuận lợi
về phương tiện cần thiết để hoạt động như chỗ làm việc, kinh phí hoạt động...
Các quan thanh tra nhà nước hướng dẫn về nghiệp vụ cho các tổ chức
thanh tra nhân dân hoặc tổ h giải ng được các quan nhà nước tạo
điều kiện giúp đỡ để hoạt động. Nhà nước ban hành chế chính sách để
hội tính chất đặc thù tham gia thực hiên một số hoạt động quản nhà
nước, các dịch vụ công; vấn, phản biện giám định hội; thực hiện các
chương trình, đề tài, dự án trong phạm vi chức năng quản n nước theo
thẩm quyền.
4.2 Quyền nghĩa vụ của tổ chức hôi trong lĩnh vực xây dựng pháp luật
Tổ chức hội không phải thiết chế nằm trong bộ máy nhà nước mức đô
khác nhau, các tổ chức hội quyền nghĩa vụ nhất định trong quá trình
soạn thảo, ban nh các văn bản luật văn bản dưới luật của nhà nước.
Các quan nhà nước trách nhiệm tạo điều kiện để tổ chức hội thực
hiện được quyền trong c dự thảo pháp luật, thay mặt những thành viên của
tổ chức phản ánh nguyên vọng, mong muốn chính đáng của c thành viên
để Nhà nước xem xét khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Tổ
chức hội tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật góp phần đảm bảo
mở rộng dân chủ đồng thời thể giảm bớt những sai lầm, thiếu sót trong
hoạt động ban hành pháp luật, nhằm tăng cường tính khả thi hiệu quả
hơn trong thực tế.
4.3 Quyền nghĩa vụ của tổ chức hội trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Tổ chức hội quyền kiểm tra, giám t việc thực hiện pháp luật của các
quan nhà nước, các tổ chức hội, các tổ chức kinh tế công dân,
người nước ngoài, người không quốc tịch; quyền thông báo với quan
nhà nước thẩm quyền về hành vi phạm pháp của họ'và yêu cầu các
quan nhà nước thẩm quyền xử lí. Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát
này các tổ chức hội tham gia vào hoạt động quản n nước, quản
hội. Tổ chức hội th đưa ra những ý kiến đóng góp khắc phục những
yếu kém của bộ máy nhà nước nhằm y dựng củng cố chính quyền ngày
càng vững mạnh, loại tr những nguyên nhân vi phạm pháp luật; tích cực
ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao tinh thần trách nhiệm
cho cán bộ, công chức nhà nước; phòng chống tệ nạn tham nhũng trong các
quan nhà nước.
Các tổ chức hội quyền nghĩa vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp
luật đối với các thành viên trong tổ chức đối với nhân dân lao động nói
chung thông qua việc phát động các phong trào quần chúng, những buổi sinh
hoạt tập thể, trao đổi về khoa học thuật, đường lối chính sách của Đảng.
Điều lệ của các tổ chức hội đều được các quan n nước thẩm
quyền phê duyệt, kiểm soát tính hợp pháp. Việc các tổ quan quyết định
cho phép thành lập hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, kết,
thực hiện thỏa thuận quốc tế.
Tổ chức hội nghĩa vụ:
- Chấp hành các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động
của hội điều lệ hội. Không được lợi dụng hoạt động của hội để làm
phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự hội, đạo đức, thuần phong tục,
truyền thống của dân tộc, quyền lợi ích hợp pháp của nhân, tổ chức.
- Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản nhà nước của
quan quản nhà nước về ngành, lĩnh vực đó.
- Trước khi tổ chức đại hội nhiệm ba mươi ngày, ban lãnh đạo hội phải
văn bản báo cáo quan nhà nước thẩm quyền cho phép thành lập
quan quản ngành, lĩnh vực hội hoạt động.
- Việc lập văn phòng đại diện của hội địa phương khác phải xin phép ủy
ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt văn phòng đại diện báo cáo bằng văn bản
với quan nhà nước thẩm quyền cho phép thành lập.
- Việc lập các pháp nhân thuộc hội; khi thay đổi chủ tịch, phó chủ tịch, tổng
thư của hội, thay đổi trụ sở, sửa đổi, bổ sung điều lệ, hội phải theo đúng
quy định của pháp luật phải báo o quan nhà nước thẩm quyền
cho phép thành lập.
- Hàng năm, hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của hội với
quan n nước thẩm quyền cho phép thành lập quan quản nhà
nước về ngành, lĩnh vực hội hoạt động, chậm nhất vào ngày 01 tháng 12
hàng năm.
- Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các quan nhà nước
thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật.
- Lập lưu giữ tại trụ sở hội danh sách hội viên, chi hội, văn phòng đại diện
các đơn vị trực thuộc hội, sổ ch, chứng chức hội, rất nhiều văn bản
pháp luật của Nhà nước đã quy định chi tiết tạo điều kiện thuận lợi để các tổ
chức hội thực hiện quyền của mình.
Một số tổ chức hội vai trò đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thực hiện
pháp luật đó công đoàn, đoàn luật , thanh tra nhân dân, tổ h giải
sở. Tổ chức công đoàn quyền kiểm tra hoạt động của quan n nước
trong lĩnh vực bảo hộ lao động, trong việc xử kỉ luật cán bộ, công chức,
trong việc phân phối nhà ở, quỹ phúc lợi; quyền yêu cầu quan nhà
nước người chức vụ tạm ngừng những hoạt động không đảm bảo an
toàn lao động, nguy hiểm đêh tính mạng người lao động. Việc điều tra các vụ
tai nạn lao động phải đại diện công đoàn tham gia. Công đoàn quyền
yêu cầu quan n nước, toà án xử những người trách nhiệm theo
pháp luật; yêu cầu thủ trưởng quan, đơn vị, tổ chức trả lời những vấn đề
người lao động đặt ra, kiến nghị các biện pháp sửa chữa thiếu sót, ngăn
ngừa vi phạm pháp luật xử người vi phạm. Trước khi quyết định c vấn
đề liên quan đến người lao động (tiền lương, tiền thưởng, kỉ luật) thì thủ
trưởng quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp phải thảo luận, nhất trí với
ban chấp hành công đoàn.
Tổ hoà giải khu phố, thôn xóm, các cụm dân do nhân dân cử ra đ kịp
thòi giải quyết các xích mích, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giúp nhân dân
xây dựng nếp sống văn hoá mới, tuân thủ pháp luật. Các cụm dân còn
được tổ chức thành thôn, bản, tổ dân phố... Trưởng thôn, trưởng bản, tổ
trưởng dân phố... nhiệm vụ giúp quan nhà nước trong việc quản hộ
tịch, hộ khẩu. Ngoài ra, họ còn thể tham gia chứng kiến các hoạt động về
thi hành án, về thi hành các quyết định cưỡng chế hành chính, tuyên truyền
phổ biến về chế độ chính sách của Nhà nước.
5. Hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội (kiểm tra hội)
Tổ chức hội mắt xích rất quan trọng của hệ thống hội nước ta. Các
tổ chức hội những tổ chức tập hợp quần chứng nhân dân lao động tham
gia rông rãi vào quá trình quản nhà nước, góp phần tăng cường mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng, Nhà nước nhân dân.
Trong quá trình tham gia quản nhà nước, các tổ chức hội thể hiện ưách
nhiệm vai trò của mình thông qua nhiều hoạt động cụ thể, trong đó hoạt
động kiểm tra - kiểm tra hội (kiểm tra Đảng, kiểm tra công đoàn, kiểm tra
của nhân dân). Đây không chỉ một biện pháp quản được các tổ chức
hội sử dụng như phương tiện để tham gia quản nhà nước nhằm xem
xét, phát hiện những ưu, khuyết điểm trong việc tuân thù pháp luật của các
quan nhà nước, cán bộ Nhà nước nhân dân đây còn là một biện
pháp bảo đảm - cho pháp chế nước ta được thực hiện thống nhất.
Kiểm tra hội việc nhân dân lao động tham gia vào quản nhà nước,
quản hội thông qua các hoạt đông kiểm tra của các tổ chức hội đối
với hoạt động của quan n nước, đơn vị kinh tế, cán bộ nhà nước
công dân trong việc thực hiện pháp luật. Khái niệm này thể được khái quát
thông qua các đặc điểm của kiểm tra hội sau đây:
- Khi tiến hành hoạt động kiểm tra hội, c tổ chức hôi không nhân
danh Nhà nước chỉ nhân danh chính tổ chức đó.
Tóm lại, mặc hoạt động kiểm tra của tổ chức hội không mang tính
quyền lực nhà nước nhưng tác dụng của rất lớn đối với quản nhà nước,
với quá trình dân chủ hoá các hoạt động quản hành chính nhà nước, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, đấu tranh hiệu quả với
các hành vi vi phạm pháp luật, nhất trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng thực hành tiết kiệm hiện nay, khi mâu thuẫn giữa cái bảo thủ
cái đổi mới, giữa tích cực tiêu cực, giữa dân chủ thực sự dân chủ hình
thức vẫn còn chưa được giải quyết triệt để.

Preview text:

Tổ chức xã hội là gì? Đặc điểm, quyền và nghĩa vụ tổ chức xã hội
1. Khái niệm tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt
Nam có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ,
không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và
tham gia vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Cùng với quá trình dân chủ hoá, các quyền con người ở Việt Nam được pháp
luật bảo vệ ngày càng toàn diện hơn. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Công dân Việt Nam có quyền lập hội theo quy định của pháp luật. Đây là cơ
sở pháp lí vững chắc để các tổ chức xã hội ra đời, tồn tại và phát triển. Trong
giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến hành công cuộc “cồng nghiệp hoá,
hiên đại hoá” xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền tự
do, dân chủ của công dân càng được chú trọng mở rộng và bảo vệ. Bên cạnh
đó, xu thế hội nhập quốc tế đang là tác nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển
của các tổ chức xã hội ở Việt Nam.
Sự ra đời, tổn tại và phát triển của tổ chức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối
với đời sống chính trị, kinh tế, xã hôi của đất nước. Về chính trị, tổ chức xã
hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân. Với vai trò hội tụ sức mạnh đoàn
kết toàn dân, tăng người khác phải tham gia hay không được tham gia vào
các tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên, mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những
tiêu chuẩn nhất định đối với người muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội đó.
Điều 1 Điều lệ công đoàn Việt Nam năm 2003 quy định:
"Công nhân, viên chức, lao động Việt Nam làm công, hưởng
lương, người lao động tự do hợp pháp, không phân biệt nghề
nghiệp, nam nữ, tín ngưỡng nếu tán thành Điều lệ công đoàn
Việt Nam, tự nguyện sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở của
công đoàn, đóng đoàn phí theo quy định thì được gia nhập công đoàn".

Yếu tố tự nguyên còn biểu hiện trong việc kết nạp hay khai trừ các thành viên
của tổ chức xã hội hoàn toàn do tổ chức xã hội đó và những người muốn
tham gia quyết định. Nhà nước không can thiệp và cũng không sử dụng
quyền lực nhà nước để chi phối hoạt động đó. Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp
những thành viên có cùng chung dấu hiệu đặc điểm.
Ví dụ: Cùng chung mục đích lí tưởng như Đảng cộng sản Việt Nam, cùng giai
cấp như Hội nông dân Việt Nam, cùng độ tuổi như Đoàn thanh niên Cộng sần
Hồ Chí Minh, cùng giới tính như Hội hên hiệp phụ nữ, cùng nghề nghiệp như
Hội nhà văn, Hội nhà báo, cùng chung sở thích như hội những người yêu thể
thao, thậm chí có thể cùng chung một dấu hiệu khuyết tật như Hội người mù...
Họ hên kết nhau lại, tìm tiếng nói chung trong hình thức tổ chức xã hội nhằm
đáp ứng nhu cầu và bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình.
- Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt động
quản lí nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức
xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước. Đặc điểm này của tổ chức xã hội
thể hiện tổ chức xã hội không phải là bộ phận trong cơ cấu của bộ máy nhà
nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội được
trái pháp luật và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn.
Việc Nhà nước phê chuẩn điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội là kiểm tra,
đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của các điều lệ đó, cho phép các tổ chức
xã hội tổn tại và hoạt động theo điều lệ. Điều lệ của các tổ chức xã hội không
phải là vãn bản pháp luật, các quy định trong điều lệ không mang tính pháp lí,
chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nội bộ của tổ chức xã hội đó và
chỉ có hiệu lực đối với các thành viên trong tổ chức. Mặt khác, điều lệ hoạt
động của các tổ chức xã hội cũng không quy định quyền và nghĩa vụ pháp lí
của các tổ chức xã hội, không xác định năng lực chủ thể của các tổ chức xã
hội trong các quan hệ quản lí nhà nước.
Năng lực chủ thể của các tổ chức xã hội để tham gia vào các quan hệ pháp
luật do Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật về quản lí hội và các
văn vản pháp luật có liên quan, Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về
quyền và nghĩa vụ pháp lí của tổ chức xã hội trong lĩnh vực hành chính nhà
nước tạo thành quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội. Trong quá
trình hoạt động, các tổ chức xã hội tự giải quyết các công việc nội bộ của
mình, Nhà nước sẽ không can thiệp nếu hoạt động của các tổ chức xã hội không trái pháp luật.
- Các tổ chức xã hội hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Đặc điểm này phân biệt tổ chức xã hội vói các tổ chức kinh tế như: công ti cổ
phần, công ti trách nhiệm hữu hạn, các hợp tácÃíi tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ...
Các tổ chức xã hôi có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật
cho nhân dân, trước hết là cho các thành viên trong tổ chức đó. Thông qua
những quy định trong điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội, thông qua hoạt
động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các thành
Tổ chức phi chính phủ có hai loại: Tổ chức phi chính phủ mang tính quốc gia
và tổ chức phi chính phủ mang tính quốc tế. TỔ chức phi chính phủ mang
tính quốc gia có các thành viên cùng mang một quốc tịch. Tổ chức phi chính
phủ mang tính quốc tế có các thành viên mang nhiều quốc tịch khác nhau.
Các tổ chức này hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, phải tuân thủ pháp luật
của tất cả các nước có thành viên hợp tác.
Các tổ chức tôn giáo không thuộc các tổ chức xã hội theo khái niệm về tổ
chức xã hội trong Chương này. Tuy không có ranh giới rõ ràng nhưng hầu
hết các quốc gia đều theo cách gọi độc lập và trực tiếp đối với các tổ chức
tôn giáo, không xếp các tổ chức tôn giáo thuộc tổ chức xã hội. Mỗi tôn giáo
đều được tạo nên bởi một cộng đồng có chung nhu cầu tín ngưỡng. Tổ chức
tôn giáo là tập hợp người có mối hên hệ thứ bậc với các chức sắc nội bộ,
hoạt động vói các quy định và chuẩn mực riêng của tôn giáo nhằm duy trì,
phát triển và truyền bá giáo lí với các nghi lễ đảm bảo sự tồn tại phát triển của chính bản thân tôn giáo.
2. Đặc điểm của tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội có các đặc điểm sau:
1) Tổ chức xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện của những
thành viên cùng chung lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở thích;
2) Tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt động quản
lí nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, tổ chức xã hội
mới hoạt động nhân danh nhà nước;
3) Tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây
dựng hoặc theo quy định của nhà nước;
4) Tổ chức xã hội hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành
viên và tham gia vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Tổ chức xã hội có nhiều loại khác nhau như tổ chức chính trị - xã hội (Ví dụ:
Mặt trận tổ quốc, công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh...), tổ
chức xã hội - nghề nghiệp (Vĩ dụ: Đoàn luật sư), tổ chức được thành lập theo
dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích hoặc dấu hiệu khác (Ví dụ: Hội nhà văn, Hội
khuyến học, vv). Các tổ chức xã hội khác nhau thì có các quyền và nghĩa vụ
khác nhau. Sự khác biệt đó bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí, vai trò, phạm
vi hoạt động của các tổ chức xã hội. Pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm pháp lí của tổ chức xã hội, đồng thời đề ra những đảm bảo pháp
lÍ nhằm ngăn ngừa những hành vi cản trở hoạt động của tổ chức xã hội.
Những người có hành vi vi phạm pháp luật cản trở các tổ chức xã hội cũng
như các thành viên của tổ chức xã hội tiến hành các hoạt động hợp pháp của
mình thì tuỳ theo mức độ của vi phạm sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật.
3. Quy chế pháp lý hành chính của tổ chức xã hội
Quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội là tổng thể các quy phạm
pháp luật nhằm đảm bảo quá trình hình thành, tồn tại, pháp triển và hoạt
động của tổ chức xã hội là hợp pháp, được nhà nước và xã hội bảo vệ.
Quyền và nghĩa vụ pháp lí của tổ chức xã hội trong quản lí hành chính là nội
dung quan trọng trong quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội.
Do tính chất đặc biệt, Đảng cộng sản Việt Nam và một số tổ chức chính trị xã
hội như Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến
binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ pháp
lí theo quy chế riêng do Hiến pháp, luật quy định. Các tổ chức xã hội khác
được tổ chức và hoạt động theo Nghị định của Chính phủ số 45/2010/NĐ-
CP ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động và quản lí hội.
Nhà nước quy định công dân có quyền lập hội đồng thời tiến hành kiểm tra
tính hợp hiến, hợp pháp đối với hoạt động của các tổ chức xã hội thông qua
việc phê chuẩn điều lệ hoạt động của các tổ chức xã hội. Ngay từ khi mới
thành lập, nhà nước ta đã sớm ban hành các văn bản pháp luật về hội nhằm
đảm bảo cho công dân thực hiện quyền tự do lập hội. Có thể kể đến một số
văn bản pháp luật về hội đã được ban hành như: Luật số 102/SL-L004 ngày
20/5/1957 về quyền lập hội, Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 258/TTg
ngày 14/6/1957 quy định chi tiết thi hành Luật số 102/SL-L004 ngày
20/5/1957 về quyền lập hội, Chỉ thị của Chủ tịch Hội hội phê duyệt. Trường
hợp quy định của điều lệ hội trái với pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm
quyền từ chối phê duyệt và yêu cầu hội sửa đổi. Điều lệ hội có hiệu lực kể từ
ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết đinh phê duyệt.
Các tổ chức xã hội khác nhau thì có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Sự
khác biệt đó bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động
của các tổ chức xã hội. Pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp
lí của các tổ chức xã hội, đồng thời đề ra những đảm bảo pháp lí nhằm ngăn
ngừa những hành vi cản trở hoạt động của tổ chức xã hội. Những người có
hành vi vi phạm pháp luật cản trở các tổ chức xã hội, các thành viên của tổ
chức xã hội thực hiện nhiệm vụ thì tuỳ theo mức độ của hành vi vi phạm sẽ bị
truy cứu trách nhiệm pháp lí.
4. Nội dung quy chế pháp lí hành chình của tổ chức xã hội
4.1 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội trong mối quan hệ với cơ quan nhà
nước
Các tổ chức xã hội khác nhau, có các quyền và nghĩa vụ khác nhau trong mối
quan hệ với cơ quan nhà nước tuỳ thuộc vào vị trí vai trò của mỗi loại tổ chức
xã hội trong hệ thống chính trị. Mối quan hệ đó là mối quan hệ tương tác giữa
tổ chức xã hội và bộ máy nhà nước. Cụ thể, nhà nước đảm bảo môi trường
pháp lí để tổ chức xã hội hoạt động và phát triển, xác định trách nhiệm của
nhà nước trong việc bảo đảm cho các tổ chức xã hội thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình. Ngược lại, các tổi chức xã hội có trách nhiệm phải tuân
thù pháp luật đồng thời tổ chức xã hội có những quyền cụ thể trong việc thể
hiên tiếng nói của quần chúng nhân dân trong việc hình thành các cơ quan
nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Quyền, nghĩa vụ của
tổ chức xã hội trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước được chia thành ba
nhóm, gồm: nhóm quyền và nghĩa vụ trong sự hình thành cơ quan thành lập,
chia tách, sáp nhập, hợp nhất giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội gồm:
Bộ trưởng Bộ nội vụ, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và chủ tịch uỷ ban
nhân dân cấp quận khi được uỷ quyền, cụ thể như sau:
Bộ trưởng Bộ nội vụ cho phép thành lập chia tách, sáp nhập, hợp nhất giải
thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội đối với hội có phạm vi hoạt động trên cả
nước hoặc liên tỉnh (trừ trường hợp pháp luật quy định khác).
Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập, chia tách, sáp nhập,
hợp nhất giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội đối với hội có phạm vi hoạt
động trong phạm vi tỉnh. Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương chủ
tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể uỷ quyền để chủ tịch uỷ ban nhân dân
cấp huyện thực hiên quyền này đối với hội có phạm vi hoạt động trong xã.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hay bác bỏ đề nghị xin thành lập
tổ chức xã hội đồng thời có quyền chấm dứt hoạt động của các tổ chức xã
hội trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định. Trong thời hạn sáu
mươi ngày kể từ ngày nhận đủ hổ sơ xin phép thành lập, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải xem xét quyết định cho phép thành lập hội. Trường hợp
không đồng ý phải có văn bản trả lòi và nêu rõ lí do.
- Nhóm quyền và nghĩa vụ nhằm duy trì, bảo đảm sự tồn tại phát triển cuả tổ chức xã hội
Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện để các tổ chức xã hội hoạt động và
phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi làm cản trở hoạt động hợp pháp của các
tổ chức xã hội. Cụ thể, những hội có tính chất đặc thù do Thủ tướng Chính
phủ quy định. (Xem: Các điểu 33, 34, 35 Nghị định của Chính phủ số
45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động và qũàn lí hội).
các phiên họp có nội dung liên quan đến lĩnh vực hoạt của tổ chức xã hội,
phát biều kiến qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên.
dụ,
Điều 13 Luật công đoàn năm 2012 quy định: "Chủ tịch Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, chủ tịch công đoàn các cấp có quyền, trách nhiệm tham dự
các phiên họp, cuộc họp, kì họp và hội nghị của các cơ quan, tổ chức hữu
quan cùng cấp khi bàn và quyết định những vấn đề liên quan đến quyền,
nghĩa vụ của người Ịao động”.
Các tổ chức xã hội-nghề nghiệp được Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ trong
hoạt động nghề nghiệp, tạo hành lang pháp lí để các tổ chức này hoạt động
ổn định. Nhà nước cũng quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ đối vói các tổ chức tự
quản được thành lập ở các cấp, ví dự. Tổ chức thanh tra nhân dân được uỷ
ban nhân dân xã, phường, thủ trưởng cơ quan, đơn vị tạo điều kiện thuận lợi
về phương tiện cần thiết để hoạt động như chỗ làm việc, kinh phí hoạt động...
Các cơ quan thanh tra nhà nước hướng dẫn về nghiệp vụ cho các tổ chức
thanh tra nhân dân hoặc tổ hoà giải cũng được các cơ quan nhà nước tạo
điều kiện giúp đỡ để hoạt động. Nhà nước ban hành cơ chế chính sách để
hội có tính chất đặc thù tham gia thực hiên một số hoạt động quản lí nhà
nước, các dịch vụ công; tư vấn, phản biện và giám định xã hội; thực hiện các
chương trình, đề tài, dự án trong phạm vi chức năng quản lí nhà nước theo thẩm quyền.
4.2 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hôi trong lĩnh vực xây dựng pháp luật
Tổ chức xã hội không phải là thiết chế nằm trong bộ máy nhà nước ở mức đô
khác nhau, các tổ chức xã hội có quyền và nghĩa vụ nhất định trong quá trình
soạn thảo, ban hành các văn bản luật và văn bản dưới luật của nhà nước.
Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để tổ chức xã hội thực
hiện được quyền trong các dự thảo pháp luật, thay mặt những thành viên của
tổ chức phản ánh nguyên vọng, mong muốn chính đáng của các thành viên
để Nhà nước xem xét khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Tổ
chức xã hội tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật góp phần đảm bảo
mở rộng dân chủ đồng thời có thể giảm bớt những sai lầm, thiếu sót trong
hoạt động ban hành pháp luật, nhằm tăng cường tính khả thi và có hiệu quả hơn trong thực tế.
4.3 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Tổ chức xã hội có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế và công dân,
người nước ngoài, người không quốc tịch; có quyền thông báo với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về hành vi phạm pháp của họ'và yêu cầu các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lí. Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát
này các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt động quản lí nhà nước, quản lí xã
hội. Tổ chức xã hội có thể đưa ra những ý kiến đóng góp khắc phục những
yếu kém của bộ máy nhà nước nhằm xây dựng và củng cố chính quyền ngày
càng vững mạnh, loại trừ những nguyên nhân vi phạm pháp luật; tích cực
ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao tinh thần trách nhiệm
cho cán bộ, công chức nhà nước; phòng chống tệ nạn tham nhũng trong các cơ quan nhà nước.
Các tổ chức xã hội có quyền và nghĩa vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp
luật đối với các thành viên trong tổ chức và đối với nhân dân lao động nói
chung thông qua việc phát động các phong trào quần chúng, những buổi sinh
hoạt tập thể, trao đổi về khoa học kĩ thuật, đường lối chính sách của Đảng.
Điều lệ của các tổ chức xã hội đều được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt, kiểm soát tính hợp pháp. Việc các tổ cơ quan quyết định
cho phép thành lập hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, kí kết,
thực hiện thỏa thuận quốc tế.
Tổ chức xã hội có nghĩa vụ:
- Chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động
của hội và điều lệ hội. Không được lợi dụng hoạt động của hội để làm
phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đạo đức, thuần phong mĩ tục,
truyền thống của dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
- Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lí nhà nước của cơ
quan quản lí nhà nước về ngành, lĩnh vực đó.
- Trước khi tổ chức đại hội nhiệm kì ba mươi ngày, ban lãnh đạo hội phải có
văn bản báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập và cơ
quan quản lí ngành, lĩnh vực hội hoạt động.
- Việc lập văn phòng đại diện của hội ở địa phương khác phải xin phép ủy
ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt văn phòng đại diện và báo cáo bằng văn bản
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Việc lập các pháp nhân thuộc hội; khi thay đổi chủ tịch, phó chủ tịch, tổng
thư kí của hội, thay đổi trụ sở, sửa đổi, bổ sung điều lệ, hội phải theo đúng
quy định của pháp luật và phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Hàng năm, hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của hội với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập và cơ quan quản lí nhà
nước về ngành, lĩnh vực mà hội hoạt động, chậm nhất vào ngày 01 tháng 12 hàng năm.
- Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật.
- Lập và lưu giữ tại trụ sở hội danh sách hội viên, chi hội, văn phòng đại diện
và các đơn vị trực thuộc hội, sổ sách, chứng chức xã hội, rất nhiều văn bản
pháp luật của Nhà nước đã quy định chi tiết tạo điều kiện thuận lợi để các tổ
chức xã hội thực hiện quyền của mình.
Một số tổ chức xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thực hiện
pháp luật đó là công đoàn, đoàn luật sư, thanh tra nhân dân, tổ hoà giải ở cơ
sở. Tổ chức công đoàn có quyền kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước
trong lĩnh vực bảo hộ lao động, trong việc xử lí kỉ luật cán bộ, công chức,
trong việc phân phối nhà ở, quỹ phúc lợi; có quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước và người có chức vụ tạm ngừng những hoạt động không đảm bảo an
toàn lao động, nguy hiểm đêh tính mạng người lao động. Việc điều tra các vụ
tai nạn lao động phải có đại diện công đoàn tham gia. Công đoàn có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước, toà án xử lí những người có trách nhiệm theo
pháp luật; yêu cầu thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức trả lời những vấn đề
người lao động đặt ra, kiến nghị các biện pháp sửa chữa thiếu sót, ngăn
ngừa vi phạm pháp luật và xử lí người vi phạm. Trước khi quyết định các vấn
đề liên quan đến người lao động (tiền lương, tiền thưởng, kỉ luật) thì thủ
trưởng cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp phải thảo luận, nhất trí với ban chấp hành công đoàn.
Tổ hoà giải ở khu phố, thôn xóm, các cụm dân cư do nhân dân cử ra để kịp
thòi giải quyết các xích mích, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giúp nhân dân
xây dựng nếp sống văn hoá mới, tuân thủ pháp luật. Các cụm dân cư còn
được tổ chức thành thôn, bản, tổ dân phố... Trưởng thôn, trưởng bản, tổ
trưởng dân phố... có nhiệm vụ giúp cơ quan nhà nước trong việc quản lí hộ
tịch, hộ khẩu. Ngoài ra, họ còn có thể tham gia chứng kiến các hoạt động về
thi hành án, về thi hành các quyết định cưỡng chế hành chính, tuyên truyền
phổ biến về chế độ chính sách của Nhà nước.
5. Hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội (kiểm tra xã hội)
Tổ chức xã hội là mắt xích rất quan trọng của hệ thống xã hội ở nước ta. Các
tổ chức xã hội là những tổ chức tập hợp quần chứng nhân dân lao động tham
gia rông rãi vào quá trình quản lí nhà nước, góp phần tăng cường mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong quá trình tham gia quản lí nhà nước, các tổ chức xã hội thể hiện ưách
nhiệm và vai trò của mình thông qua nhiều hoạt động cụ thể, trong đó có hoạt
động kiểm tra - kiểm tra xã hội (kiểm tra Đảng, kiểm tra công đoàn, kiểm tra
của nhân dân). Đây là không chỉ là một biện pháp quản lí được các tổ chức
xã hội sử dụng như là phương tiện để tham gia quản lí nhà nước nhằm xem
xét, phát hiện những ưu, khuyết điểm trong việc tuân thù pháp luật của các
cơ quan nhà nước, cán bộ Nhà nước và nhân dân mà đây còn là một biện
pháp bảo đảm - cho pháp chế ở nước ta được thực hiện thống nhất.
Kiểm tra xã hội là việc nhân dân lao động tham gia vào quản lí nhà nước,
quản lí xã hội thông qua các hoạt đông kiểm tra của các tổ chức xã hội đối
với hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, cán bộ nhà nước và
công dân trong việc thực hiện pháp luật. Khái niệm này có thể được khái quát
thông qua các đặc điểm của kiểm tra xã hội sau đây:
- Khi tiến hành hoạt động kiểm tra xã hội, các tổ chức xã hôi không nhân
danh Nhà nước mà chỉ nhân danh chính tổ chức đó.
Tóm lại, mặc dù hoạt động kiểm tra của tổ chức xã hội không mang tính
quyền lực nhà nước nhưng tác dụng của nó rất lớn đối với quản lí nhà nước,
với quá trình dân chủ hoá các hoạt động quản lí hành chính nhà nước, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với
các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng và thực hành tiết kiệm hiện nay, khi mà mâu thuẫn giữa cái bảo thủ và
cái đổi mới, giữa tích cực và tiêu cực, giữa dân chủ thực sự và dân chủ hình
thức vẫn còn chưa được giải quyết triệt để.
Document Outline

  • Tổ chức xã hội là gì? Đặc điểm, quyền và nghĩa vụ
    • 1. Khái niệm tổ chức xã hội
    • 2. Đặc điểm của tổ chức xã hội
    • 3. Quy chế pháp lý hành chính của tổ chức xã hội
    • 4. Nội dung quy chế pháp lí hành chình của tổ chức
      • 4.1 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội trong mối
      • 4.2 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hôi trong lĩn
      • 4.3 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội trong lĩn
    • 5. Hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội (kiểm