Tội phạm học ? Đối tượng nghiên cứu, đặc
điểm bản của tội phạm học
1. Quan điểm thế giới về tội phạm học
Theo một số c giả nghiên cứu về tội phạm học ngày nay thì thuật ngữ tội
phạm học xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX. Những người đầu tiên sử dụng thuật
ngữ này được kể đến Paul Topinard - thầy thuốc đồng thời nhà nhân
chủng học người Pháp Rafaele Garofalo - luật gia người Ý. Paul Topinard
lần đầu tiên dùng thuật ng này để phân biệt việc nghiên cứu các dạng
thể người phạm tội trong lĩnh vực nhân chủng học với các công việc khác về
trắc nghiệm sinh học. Rafaele Garofalo đã làm cho thuật ngữ ”Criminologia”
(tội phạm học) được phổ biến rộng rãi thông qua việc dùng đặt tên cho tác
phẩm của mình xuất bản năm 1885. Thuật ngữ tội phạm học bắt nguồn từ sự
kết hợp của chữ La tinh: crimen tội phạm chữ Hy Lạp: logos học
thuyết. Tội phạm học nghĩa học thuyết về tội phạm hoặc sự nghiên cứu
về tội phạm. Đây th được xem như định nghĩa ban đầu trực tiếp (t
nghĩa của từ) về tội phạm học.
Sau này, cùng với sự phát triển của tội phạm học, khái niệm tội phạm học
cũng được phát triển được phản ánh trong nhiều định nghĩa khác nhau bởi
các nhà tội phạm học qua các thời kì. Trong các sách viết về tội phạm học
thể tìm thấy bốn loại định nghĩa khác nhau về tội phạm học. Các định nghĩa
này khác nhau chủ yếu về quan điểm thể hiện trong định nghĩa: coi tội phạm
học chỉ ngành hay lĩnh vực kiến thức, khoa học bình thường hay khoa học
liên ngành hoặc về đối tượng phạm vi nghiên cứu của tội phạm học.
Một trong những nhà tội phạm học sớm nhất của Mỹ trong thế XX Edwin
H, Sutherland đã đưa ra định nghĩa tội phạm học (trong cuốn giáo trình tội
phạm học của mình được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1924) như sau:
“Tội phạm học lĩnh vực kiến thức về vấn đ hội của tội
phạm”.
Theo đó, tội phạm học ch được xem là ngành hoặc lĩnh vực nghiên cứu vấn
đề hội của tội phạm, tức nghiên cứu tội phạm hành vi phạm tội như
hiện tượng hội.
Định nghĩa khác về tội phạm học được đưa ra thể hiện quan điếm nhấn mạnh
đối tượng nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm vai t của tội phạm
học trong việc tìm ra nguyên nhân của tội phạm. Đó định nghĩa:
"Tội phạm học sự nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm”.
Cũng trong thế kỉ XX xuất hiện hàng loại định nghĩa khác về tội phạm học
trong đó thể hiện quan điểm nhấn mạnh tính khoa học của tội phạm học như
đặc điểm riêng biệt. Tiêu biểu cho loại này định nghĩa:
"Tội phạm học khoa học nghiên cứu về tội phạm”.
Loại định nghĩa thứ định nghĩa về tội phạm học hiện đại. Sang thế kỉ XXI,
trong c sách viết về tội phạm học thể tìm thấy nhiều cách định nghĩa
khác nhau về tội phạm học nhưng tất cả đều nhiều điểm chung, thể hiện
không dừng lại việc xác định chung chung ràng tội phạm học khoa học
nghiên cứu về tội phạm đã thể hiện quan niệm toàn diện u sắc hom
về đối tượng đặc tính khoa học của tội phạm học hiện đại. Trong đó, quan
niệm phổ biến cho rằng tội phạm học khoa học thực nghiệm mang tính liên
ngành nghiên cứu về tội phạm, nguyên nhân của tội phạm kiểm soát tội
phạm. Dưới đây một số quan niệm tiêu biểu về tội phạm học hiện đại:
Theo nhà tội phạm học. người Mỹ - Frank Schmalleger:
"Tội phạm học khoa học bao quanh chuyên môn liên
ngành nghiên cứu về tội phạm hành vi phạm tội, bao gồm cả
những biểu hiện cúa nó, nguyên nhân, các khía cạnh pháp
sự kiểm soát” .
Trong định nghĩa này, tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề được đ cập,
đó là phạm vi đối tượng nghiên cứu đặc tính liên ngành của tội phạm học.
ông cho rằng định nghĩa trên đã giữ đúng quan điểm th hiện trong tác phẩm
của Jack p. Gibbs - nhà tội phạm học xuất sắc trong thế kỉ XX: Mục đích của
tội phạm học cung cấp những trả lời khách quan trên sở nghiên cứu cho
4 câu hỏi bản sau:
(1) Tại sao tỉ lệ tội phạm lại khác nhau?
(2) Tại sao các nhân phạm tội khác nhau?
(3) Tại sao lại sự khác nhau trong phản ứng đối với tội phạm?
(4) Cái gì những biện pháp hợp của kiểm soát sự phạm tội ?
Cũng theo ông, tội phạm học khoa học mang tính liên ngành phải nhờ
đến các ngành khoa học khác được sự tiếp cận tổng hợp đ hiểu
được vấn đề của tội phạm trong hội đương thời đ đưa ra được các
giải pháp đối với c vấn đề do tội phạm gây ra. Đó các ngành khoa học
như nhân chủng học, sinh học, hội học, tâm học, tâm thần học...
Theo Bemd-Dieter Meier - Giáo người Đức thì tội phạm học khoa học
nghiên cứu tội phạm n hiện tựợng hội, các nguyên nhân của nh vi
phạm tội, các hậu quả của đối với nạn nhân hội ng như các biện
pháp cách thức các quan nhà nước phản ứng trước sự xảy ra của
các hành vi phạm tội; Tội phạm học khoa học thực nghiệm nghiên cứu một
cách hệ thống các sự việc thực đã xảy ra; Tội phạm học thực hiện việc
nghiên cứu mang tính liên ngành bàng cách tiếp thu tiếp tục phát triển các
phương pháp, quan điểm luận của các ngành khoa học hội nhân
vãn. điển hình tâm học hội học.
Cũng quan niệm tương tự, Hans-Dietèr Schwind - giáo người Đức khác
cho rang tội phạm học được hiểu lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, dựa trên
tất cả các khoa học thực nghiệm những khoa học này mục đích xác
định phạm vi của tội phạm tập hợp những kinh nghiệm về c hình thức
thể hiện nguyên nhân của tội phạm, về người phạm tội nạn nhân của
tội phạm cũng như về sự kiểm soát của các tác động hội bao gồm c
khả năng xử đối với người phạm tội tác dụng của hình phạt.
Ngoài ra, quan niệm về tội phạm học hiện đại cũng thể được tìm thấy
trong tác phẩm xuất bản gần đây nhất (năm 2008) của giáo nổi tiếng khác
người Đức, Hans Gổppinger. Theo ông, tội phạm học ngành khoa học thực
nghiệm độc lập nghiên cứu các sự việc thuộc các lĩnh vực của con người
hội chúng liên quan đến sự hình thành tội phạm, việc phạm tội, hậu
quả của tội phạm việc ngăn chặn tội phạm cũng như việc xử những
người phạm tội.
2. Quan điểm của Việt Nam về tội phạm học
Việt Nam, định nghĩa về tội phạm học được đưa ra tương đối thống nhất,
trong đó nhấn mạnh đổi tượng nghiên cứu của tội phạm học tội phạm
người phạm tội; nguyên nhân của tội phạm biện pháp phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm.
Trong giáo trinh xuất bản từ năm 1995, GS.TS. Đồ Ngọc Quang cho rằng:
“Tội phạm học ngành khoa học nghiên cứu những vấn đ liên
quan đến tình trạng phạm lội tội phạm...; nghiên cứu về nhân
thân người phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội những
biện pháp phòng ngừa tội phạm nhằm lừng bước ngăn chặn,
hạn chế tội phạm trong cuộc sống hội.
Cùng với cách định nghĩa tương tự, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho ràng:
“Tội phạm học ngành khoa học nghiên cứu tội phạm, tình
hình tội phạm, c nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm,
nghiên cứu nhân kẻ phạm tội những biện pháp phòng
ngừa, đẩu tranh chống tội phạm nhằm ngăn chặn, tiến tới loại
trừ tội phạm ra khỏi đời sống hội”.
Như vậy, trong tất cả các định nghĩa khác nhau về tội phạm học, từ định
nghĩa ban đầu đến định nghĩa trong thời gian gần đây đều khẳng định tội
phạm đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Tội phạm đây nghĩa
những hành vi bị coi tội phạm đã được thực hiện trên thực tế, vậy cũng
thể gọi tội phạm hiện thực. Tội phạm hiện thực được nghiên cứu từ góc
độ hội học như một hiện tượng hội số lớn được xem như một bộ
phận của thực tại hội. Nghiên cứu “mặt hội" của tội phạm hiện thực
để thể đánh giá được trạng thái của bộ phận thực tại hội này tìm
cách thay đổi theo hướng tích cực. Xem thêm: Phân tích các phương pháp
nghiên cứu của tội phạm học
Nguyên nhân của tội phạm cũng đã được khẳng định đối tượng nghiên cứu
của tội phạm học trong hầu hết các định nghĩa về tội phạm học nêu trên. Lịch
sử phát triển của tội phạm học cho thấy, nguyên nhân của tội phạm được
nghiên cứu từ phía hội từ phía người phạm tội từ mồi phía lại được
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, n t phía người phạm tội được
nghiên cứu từ góc độ sinh tâm lý... Các kết quả nghiên cứu về nguyên
nhân đều được nghiệm chứng trong thực tiễn tạo sở cho việc hình
thành những hệ thống tri thức, quan điểm khác nhau về nguyên nhân của tội
phạm hay còn được gọi các học thuyết trong tội phạm học. Lịch sử hình
thành phát triển tội phạm học trên thế giới cũng thể được coi lịch sử
hình thành phát triển các học thuyết về nguyên nhân của tội phạm.
Kiểm soát tội phạm cũng được coi đối tượng nghiên cứu của tội phạm học.
Điều này được khẳng định rất sớm trong lịch sử phát triển tội phạm học ng
như thể hiện trong hầu hết các định nghĩa về tội phạm học đã được đưa ra.
Khái niệm kiểm soát tội phạm bắt nguồn từ khái niệm kiểm soát hội - khái
niệm của hội học kiểm soát tội phạm được coi bộ phận của kiểm soát
hội. Kiểm soát tội phạm thể được hiểu chung nhất hệ thống tổng thể
các ng cụ, các quan - tổ chức các quá trình với hệ thống này việc
phản ứng hội đối với việc thực hiện tội phạm được thực hiện.
Để m hơn quan điểm khẳng định kiểm soát tội phạm đối tượng nghiên
cứu của tội phạm học tại sao không phải là phòng ngừa tội phạm, cần thiết
phải phân biệt hơn hai khái niệm này: Nội dung của khái niệm kiểm soát
tội phạm nội dung cúa khái niệm phòng ngừa tội phạm thời gian được
hiểu như nhau. Khái niệm ban đâu cúa phòng ngừa tội phạm dựa trên
sở của luật hình sự báo vệ pháp luật hình sự. Do đó. phòng ngừa tội phạm
được coi đơn thuần nhiệm vụ của các quan kiềm soát tội phạm (như
công an, kỉểm sát, toà án quan thi hành án hình sự). Kiểm soát tội
phạm cũng góp phần hướng tới phòng ngừa tội phạm. Mãi tới những năm
90 một số nước, dụ như CHLB Đức, khái niệm phòng ngừa tội phạm
mới được quan m, thảo luận rộng rãi phát triền. Lúc đó mới sự phân
biệt ràng hai khái niệm này. Hai khái niệm này nhiều điếm chung nhưng
một điêm khác biệt. Khái niệm phòng ngừa tội phạm rộng hơn khái
niệm kiếm soát tội phạm. Kiểm soát tội phạm chí một phần của những cố
gắng nhăm phòng ngừa tội phạm. Nêu như khái niệm kiểm soát tội phạm
được đặc trưng bới các nh thức phân ứng hậu tội phạm (sau khi được thực
hiện) đến người phạm tội thì khái niệm phòng ngừa tội phạm được đặc trưng
bởi các biện pháp tích cực (tiên tội phạm) hướng o sự ngăn ngừa việc thực
hiện tội phạm. Kiểm soát tội phạm thuộc vấn đề bản cúa tội phạm học, còn
phòng ngừa tội phạm lại đặt quan tâm hàng đâu vào sự vận dụng nhừng kiến
thức bản của tội phạm học. Xét về cấu trúc hai yếu tố hợp thành hệ
thống kiểm soát tội phạm, đó các chuẩn mực hội dưới dạng các quy
định pháp luật (trong đó quy định của pháp luật hình sự bộ phận quan trọng)
các phản ứng khác nhau bằng các chế tài tiêu cực đối với việc thực hiện
tội phạm (ví d Việt Nam phản ứng của Nhà nước thông qua các hoạt
động của các quan tiến hành tố tụng thi hành án hình sự). vậy cũng
thể coi kiểm soát tội phạm quá trình lựa chọn vả thực hiện các phản ng
khác nhau đối với việc thực hiện tội phạm.
Trong các định nghĩa đã nêu về tội phạm học, các tác giả đã những cách
thế hiện khác nhau đề cập một đổi tượng nghiên của tội phạm học là kiểm
soát tội phạm. Các nội dung được đề cập sau đây đều thuộc nội dung của
kiểm soát tội phạm: các khía cạnh pháp sự kiếm soát...”; “... các biện
pháp cách thức mà các quan nhà nước phán ứng trước sự xảy ra của
các hành vi phạm tội..."', “... sự kiểm soát của các tác động hội bao gồm cả
các khả năng xử đối với người phạm tội tác dụng của hình phạt..."; "...
việc ngăn chặn hành vi phạm tội cũng như việc xử những người phạm tội..".
“Biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm" được đề cập nhiều trong các tài
liệu Việt Nam như đối tượng nghiên cứu của tội phạm học ng nội
dung rất gần với kiểm soát tội phạm chúng cũng bao gồm những biện pháp
phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm hiện thực. Đó những biện pháp
đấu tranh chống tội phạm mang tính phòng ngừa, như biện pháp dấu tranh
chống, phòng ngừa tội phạm bằng pháp luật hình sự thông qua các hoạt
động của các quan tiến hành tố tụng hình sự quan thi hành án (gọi
chung các quan kiểm soát tội phạm).
Những phân tích trên cho thấy đã đủ sở thực tiễn khoa học để khẳng
định tội phạm học đối tượng nghiên cứu độc lập, đó tội phạm hiện thực
với ý nghĩa hiện tượng hội số lớn các hiện ợng, quá trình liên quan
trực tiếp đến tội phạm hiện thực thuộc về nguyên nhân của tội phạm hiện
thực kiểm soát tội phạm thể hiện sự phản ứng hội đối với tội phạm hiện
thực. Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực kiểm soát
tội phạm hiện thực cũng thể được coi như đối tượng nghiên cứu cụ thể
hay bộ phận của tổng thể đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trước
tiên thuộc về lả hiện thực hội bao quanh c hiện tượng hội tội
phạm. Giữa chúng mối liên hệ chặt ch với nhau.
Trong một số định nghĩa về tội phạm học đã nêu đã đề cập đến tính mục đích
của tội phạm học. Tội phạm học nghiên cứu tội phạm hiện thực, nguyên nhân
của tội phạm hiện thực kiểm soát tội phạm hiện thực nhằm mục đích
phòng ngừa tội phạm. Lịch sử hình thành phát triển tội phạm học đã cho
thấy, các kết quà nghiên cứu thực nghiệm về các đối tượng nghiên cứu của
tội phạm học luôn hướng tới phục vụ cho mục đích phòng ngừa tội phạm.
Những viện dẫn phân tích nêu trên cũng đã làm rõ những đặc điểm khoa
học của tội phạm học. Tội phạm học không phải khoa học đon ngành
khoa học liên ngành khoa học thực nghiệm. Những tri thức khoa học
hợp thành tội phạm học được đúc kết từ các kết quả nghiên cứu - lấ những
kinh nghiệm từ quan sát, tìm hiểu về tội phạm trong thực tế như hiện tượng
hội, nguyên nhân của tội phạm kiểm soát tội phạm - không thể không
dựa vào c ngành khoa học thực nghiệm liên quan đến con người hội,
đặc biệt tâm học hội học. Đúng như một học giả đã khẳng định: Tội
phạm học không thể xuất hiện không các khoa học liên quan. Được coi
những khoa học thực nghiệm hay khoa học kinh nghiệm những ngành
khoa học trong đó những đối tượng nhừng sự việc của thế giới, dụ
như các hành tinh, động vật. cảc phương thức hành vi của con người được
nghiên cứu qua thực nghiệm (thí nghiệm), quan sát lĩnh vực hay thăm ý
kiến. Xem: Phân biệt giữa c khoa học thực nghiệm các khoa học không
thực nghiệm.
Trên sở kế thừa được quan niệm truyền thống vẫn phù hợp với sự
phát triển của tội phạm học hiện đại đảm bảo sự thống nhất tương đối với
các quan niệm khác nhau hiện nay về tội phạm học. thể đưa ra định nghĩa
về tội phạm học n sau:
Tội phạm học khoa học chuyên ngành, thực nghiệm nghiên
cứu về tội phạm (hiện thực), nguyên nhân của tội phạm kiểm
soái tội phạm nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm.
Tóm lại, định nghĩa nêu trên đã bao quát các đặc điểm bản của tội phạm
học.
Thứ nhất đặc điểm về đối tượng nghiên cứu độc lập của tội phạm học, bao
gồm tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực kiểm soát tội
phạm hiện thực;
Thứ hai đặc điểm về khoa học liên ngành của tội phạm học;
Thứ ba đặc điểm về khoa học thực nghiệm hay cũng thể gọi đặc điểm
về phương pháp nghiên cứu thực nghiệm của tội phạm học.
Thứ tư, đặc điểm về mục đích phòng ngừa tội phạm của tội phạm học. Đây
những đặc điểm để phân biệt tội phạm học với các ngành khoa học khác,
đặc biệt các khoa học liên quan đến tội phạm.

Preview text:

Tội phạm học là gì? Đối tượng nghiên cứu, đặc
điểm cơ bản của tội phạm học
1. Quan điểm thế giới về tội phạm học
Theo một số tác giả nghiên cứu về tội phạm học ngày nay thì thuật ngữ tội
phạm học xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX. Những người đầu tiên sử dụng thuật
ngữ này được kể đến là Paul Topinard - thầy thuốc đồng thời là nhà nhân
chủng học người Pháp và Rafaele Garofalo - luật gia người Ý. Paul Topinard
lần đầu tiên dùng thuật ngữ này để phân biệt việc nghiên cứu các dạng cơ
thể người phạm tội trong lĩnh vực nhân chủng học với các công việc khác về
trắc nghiệm sinh học. Rafaele Garofalo đã làm cho thuật ngữ ”Criminologia”
(tội phạm học) được phổ biến rộng rãi thông qua việc dùng nó đặt tên cho tác
phẩm của mình xuất bản năm 1885. Thuật ngữ tội phạm học bắt nguồn từ sự
kết hợp của chữ La tinh: crimen là tội phạm và chữ Hy Lạp: logos là học
thuyết. Tội phạm học có nghĩa là học thuyết về tội phạm hoặc sự nghiên cứu
về tội phạm. Đây có thể được xem như là định nghĩa ban đầu và trực tiếp (từ
nghĩa của từ) về tội phạm học.
Sau này, cùng với sự phát triển của tội phạm học, khái niệm tội phạm học
cũng được phát triển và được phản ánh trong nhiều định nghĩa khác nhau bởi
các nhà tội phạm học qua các thời kì. Trong các sách viết về tội phạm học có
thể tìm thấy bốn loại định nghĩa khác nhau về tội phạm học. Các định nghĩa
này khác nhau chủ yếu về quan điểm thể hiện trong định nghĩa: coi tội phạm
học chỉ là ngành hay lĩnh vực kiến thức, khoa học bình thường hay khoa học
liên ngành hoặc về đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tội phạm học.
Một trong những nhà tội phạm học sớm nhất của Mỹ trong thế kì XX là Edwin
H, Sutherland đã đưa ra định nghĩa tội phạm học (trong cuốn giáo trình tội
phạm học của mình được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1924) như sau:
“Tội phạm học là lĩnh vực kiến thức về vấn đề xã hội của tội phạm”.
Theo đó, tội phạm học chỉ được xem là ngành hoặc lĩnh vực nghiên cứu vấn
đề xã hội của tội phạm, tức là nghiên cứu tội phạm và hành vi phạm tội như là hiện tượng xã hội.
Định nghĩa khác về tội phạm học được đưa ra thể hiện quan điếm nhấn mạnh
đối tượng nghiên cứu là nguyên nhân của tội phạm và vai trò của tội phạm
học trong việc tìm ra nguyên nhân của tội phạm. Đó là định nghĩa:
"Tội phạm học là sự nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm”.
Cũng trong thế kỉ XX xuất hiện hàng loại định nghĩa khác về tội phạm học mà
trong đó thể hiện quan điểm nhấn mạnh tính khoa học của tội phạm học như
là đặc điểm riêng biệt. Tiêu biểu cho loại này là định nghĩa:
"Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tội phạm”.
Loại định nghĩa thứ tư là định nghĩa về tội phạm học hiện đại. Sang thế kỉ XXI,
trong các sách viết về tội phạm học có thể tìm thấy nhiều cách định nghĩa
khác nhau về tội phạm học nhưng tất cả đều có nhiều điểm chung, thể hiện
không dừng lại ở việc xác định chung chung ràng tội phạm học là khoa học
nghiên cứu về tội phạm mà đã thể hiện quan niệm toàn diện và sâu sắc hom
về đối tượng và đặc tính khoa học của tội phạm học hiện đại. Trong đó, quan
niệm phổ biến cho rằng tội phạm học là khoa học thực nghiệm mang tính liên
ngành nghiên cứu về tội phạm, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội
phạm. Dưới đây là một số quan niệm tiêu biểu về tội phạm học hiện đại:
Theo nhà tội phạm học. người Mỹ - Frank Schmal eger:
"Tội phạm học là khoa học mà bao quanh là chuyên môn liên
ngành nghiên cứu về tội phạm và hành vi phạm tội, bao gồm cả
những biểu hiện cúa nó, nguyên nhân, các khía cạnh pháp lý và sự kiểm soát”
.
Trong định nghĩa này, tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề được đề cập,
đó là phạm vi đối tượng nghiên cứu và đặc tính liên ngành của tội phạm học.
ông cho rằng định nghĩa trên đã giữ đúng quan điểm thể hiện trong tác phẩm
của Jack p. Gibbs - nhà tội phạm học xuất sắc trong thế kỉ XX: Mục đích của
tội phạm học là cung cấp những trả lời khách quan trên cơ sở nghiên cứu cho 4 câu hỏi cơ bản sau:
(1) Tại sao tỉ lệ tội phạm lại khác nhau?
(2) Tại sao các cá nhân phạm tội khác nhau?
(3) Tại sao lại có sự khác nhau trong phản ứng đối với tội phạm?
(4) Cái gì là những biện pháp hợp lý của kiểm soát sự phạm tội ?
Cũng theo ông, tội phạm học là khoa học mang tính liên ngành vì nó phải nhờ
đến các ngành khoa học khác mà có được sự tiếp cận tổng hợp để hiểu
được vấn đề của tội phạm trong xã hội đương thời và để đưa ra được các
giải pháp đối với các vấn đề do tội phạm gây ra. Đó là các ngành khoa học
như nhân chủng học, sinh học, xã hội học, tâm lý học, tâm thần học...
Theo Bemd-Dieter Meier - Giáo sư người Đức thì tội phạm học là khoa học
nghiên cứu tội phạm như hiện tựợng xã hội, các nguyên nhân của hành vi
phạm tội, các hậu quả của nó đối với nạn nhân và xã hội cũng như các biện
pháp và cách thức mà các cơ quan nhà nước phản ứng trước sự xảy ra của
các hành vi phạm tội; Tội phạm học là khoa học thực nghiệm nghiên cứu một
cách hệ thống các sự việc có thực đã xảy ra; Tội phạm học thực hiện việc
nghiên cứu mang tính liên ngành bàng cách tiếp thu và tiếp tục phát triển các
phương pháp, quan điểm và lý luận của các ngành khoa học xã hội và nhân
vãn. điển hình là tâm lý học và xã hội học.
Cũng có quan niệm tương tự, Hans-Dietèr Schwind - giáo sư người Đức khác
cho rang tội phạm học được hiểu là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, dựa trên
tất cả các khoa học thực nghiệm mà những khoa học này có mục đích là xác
định phạm vi của tội phạm và tập hợp những kinh nghiệm về các hình thức
thể hiện và nguyên nhân của tội phạm, về người phạm tội và nạn nhân của
tội phạm cũng như về sự kiểm soát của các tác động xã hội bao gồm cá các
khả năng xử lý đối với người phạm tội và tác dụng của hình phạt.
Ngoài ra, quan niệm về tội phạm học hiện đại cũng có thể được tìm thấy
trong tác phẩm xuất bản gần đây nhất (năm 2008) của giáo sư nổi tiếng khác
người Đức, Hans Gổppinger. Theo ông, tội phạm học là ngành khoa học thực
nghiệm độc lập nghiên cứu các sự việc thuộc các lĩnh vực của con người và
xã hội mà chúng liên quan đến sự hình thành tội phạm, việc phạm tội, hậu
quả của tội phạm và việc ngăn chặn tội phạm cũng như việc xử lý những người phạm tội.
2. Quan điểm của Việt Nam về tội phạm học
Ở Việt Nam, định nghĩa về tội phạm học được đưa ra tương đối thống nhất,
trong đó nhấn mạnh đổi tượng nghiên cứu của tội phạm học là tội phạm và
người phạm tội; nguyên nhân của tội phạm và biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
Trong giáo trinh xuất bản từ năm 1995, GS.TS. Đồ Ngọc Quang cho rằng:
“Tội phạm học là ngành khoa học nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến tình trạng phạm lội và tội phạm...; nghiên cứu về nhân
thân người phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những
biện pháp phòng ngừa tội phạm nhằm lừng bước ngăn chặn,
hạn chế tội phạm trong cuộc sống xã hội.

Cùng với cách định nghĩa tương tự, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho ràng:
“Tội phạm học là ngành khoa học nghiên cứu tội phạm, tình
hình tội phạm, các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm,
nghiên cứu cá nhân kẻ phạm tội và những biện pháp phòng

ngừa, đẩu tranh chống tội phạm nhằm ngăn chặn, tiến tới loại
trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”.

Như vậy, trong tất cả các định nghĩa khác nhau về tội phạm học, từ định
nghĩa ban đầu đến định nghĩa trong thời gian gần đây đều khẳng định tội
phạm là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Tội phạm ờ đây có nghĩa là
những hành vi bị coi là tội phạm đã được thực hiện trên thực tế, vì vậy cũng
có thể gọi là tội phạm hiện thực. Tội phạm hiện thực được nghiên cứu từ góc
độ xã hội học như một hiện tượng xã hội số lớn và được xem như một bộ
phận của thực tại xã hội. Nghiên cứu “mặt xã hội" của tội phạm hiện thực là
để có thể đánh giá được trạng thái của bộ phận thực tại xã hội này mà tìm
cách thay đổi theo hướng tích cực. Xem thêm: Phân tích các phương pháp
nghiên cứu của tội phạm học
Nguyên nhân của tội phạm cũng đã được khẳng định là đối tượng nghiên cứu
của tội phạm học trong hầu hết các định nghĩa về tội phạm học nêu trên. Lịch
sử phát triển của tội phạm học cho thấy, nguyên nhân của tội phạm được
nghiên cứu từ phía xã hội và từ phía người phạm tội và từ mồi phía lại được
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, như từ phía người phạm tội được
nghiên cứu từ góc độ sinh lý và tâm lý... Các kết quả nghiên cứu về nguyên
nhân đều được nghiệm chứng trong thực tiễn và tạo cơ sở cho việc hình
thành những hệ thống tri thức, quan điểm khác nhau về nguyên nhân của tội
phạm hay còn được gọi là các học thuyết trong tội phạm học. Lịch sử hình
thành và phát triển tội phạm học trên thế giới cũng có thể được coi là lịch sử
hình thành và phát triển các học thuyết về nguyên nhân của tội phạm.
Kiểm soát tội phạm cũng được coi là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học.
Điều này được khẳng định rất sớm trong lịch sử phát triển tội phạm học cũng
như thể hiện trong hầu hết các định nghĩa về tội phạm học đã được đưa ra.
Khái niệm kiểm soát tội phạm bắt nguồn từ khái niệm kiểm soát xã hội - khái
niệm của xã hội học và kiểm soát tội phạm được coi là bộ phận của kiểm soát
xã hội. Kiểm soát tội phạm có thể được hiểu chung nhất là hệ thống tổng thể
các công cụ, các cơ quan - tổ chức và các quá trình mà với hệ thống này việc
phản ứng xã hội đối với việc thực hiện tội phạm được thực hiện.
Để làm rõ hơn quan điểm khẳng định kiểm soát tội phạm là đối tượng nghiên
cứu của tội phạm học và tại sao không phải là phòng ngừa tội phạm, cần thiết
phải phân biệt rõ hơn vê hai khái niệm này: Nội dung của khái niệm kiểm soát
tội phạm và nội dung cúa khái niệm phòng ngừa tội phạm có thời gian được
hiểu như nhau. Khái niệm ban đâu cúa phòng ngừa tội phạm là dựa trên cơ
sở của luật hình sự và báo vệ pháp luật hình sự. Do đó. phòng ngừa tội phạm
được coi đơn thuần là nhiệm vụ của các cơ quan kiềm soát tội phạm (như
công an, kỉểm sát, toà án và cơ quan thi hành án hình sự). Kiểm soát tội
phạm cũng góp phần và hướng tới phòng ngừa tội phạm. Mãi tới những năm
90 ở một số nước, ví dụ như ở CHLB Đức, khái niệm phòng ngừa tội phạm
mới được quan tâm, thảo luận rộng rãi và phát triền. Lúc đó mới có sự phân
biệt rò ràng hai khái niệm này. Hai khái niệm này có nhiều điếm chung nhưng
có một sô điêm khác biệt. Khái niệm phòng ngừa tội phạm rộng hơn khái
niệm kiếm soát tội phạm. Kiểm soát tội phạm chí là một phần của những cố
gắng nhăm phòng ngừa tội phạm. Nêu như khái niệm kiểm soát tội phạm
được đặc trưng bới các hình thức phân ứng hậu tội phạm (sau khi được thực
hiện) đến người phạm tội thì khái niệm phòng ngừa tội phạm được đặc trưng
bởi các biện pháp tích cực (tiên tội phạm) hướng vào sự ngăn ngừa việc thực
hiện tội phạm. Kiểm soát tội phạm thuộc vấn đề cơ bản cúa tội phạm học, còn
phòng ngừa tội phạm lại đặt quan tâm hàng đâu vào sự vận dụng nhừng kiến
thức cơ bản của tội phạm học. Xét về cấu trúc có hai yếu tố hợp thành hệ
thống kiểm soát tội phạm, đó là các chuẩn mực xã hội dưới dạng các quy
định pháp luật (trong đó quy định của pháp luật hình sự là bộ phận quan trọng)
và các phản ứng khác nhau bằng các chế tài tiêu cực đối với việc thực hiện
tội phạm (ví dụ ở Việt Nam là phản ứng của Nhà nước thông qua các hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án hình sự). Vì vậy cũng
có thể coi kiểm soát tội phạm là quá trình lựa chọn vả thực hiện các phản ứng
khác nhau đối với việc thực hiện tội phạm.
Trong các định nghĩa đã nêu về tội phạm học, các tác giả đã có những cách
thế hiện khác nhau đề cập một đổi tượng nghiên của tội phạm học là kiểm
soát tội phạm. Các nội dung được đề cập sau đây đều thuộc nội dung của
kiểm soát tội phạm: các khía cạnh pháp lý và sự kiếm soát...”; “... các biện
pháp và cách thức mà các cơ quan nhà nước phán ứng trước sự xảy ra của
các hành vi phạm tội..."', “... sự kiểm soát của các tác động xã hội bao gồm cả
các khả năng xử lý đối với người phạm tội và tác dụng của hình phạt..."; "...
việc ngăn chặn hành vi phạm tội cũng như việc xử lý những người phạm tội..".
“Biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm"
được đề cập nhiều trong các tài
liệu ở Việt Nam như là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học cũng có nội
dung rất gần với kiểm soát tội phạm vì chúng cũng bao gồm những biện pháp
phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm hiện thực. Đó là những biện pháp
đấu tranh chống tội phạm mang tính phòng ngừa, như biện pháp dấu tranh
chống, phòng ngừa tội phạm bằng pháp luật hình sự và thông qua các hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và cơ quan thi hành án (gọi
chung là các cơ quan kiểm soát tội phạm).
Những phân tích trên cho thấy đã có đủ cơ sở thực tiễn khoa học để khẳng
định tội phạm học có đối tượng nghiên cứu độc lập, đó là tội phạm hiện thực
với ý nghĩa là hiện tượng xã hội số lớn và các hiện tượng, quá trình liên quan
trực tiếp đến tội phạm hiện thực thuộc về nguyên nhân của tội phạm hiện
thực và kiểm soát tội phạm thể hiện sự phản ứng xã hội đối với tội phạm hiện
thực. Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát
tội phạm hiện thực cũng có thể được coi như đối tượng nghiên cứu cụ thể
hay bộ phận của tổng thể đối tượng nghiên cứu của tội phạm học mà trước
tiên thuộc về nó lả hiện thực xã hội bao quanh các hiện tượng xã hội là tội
phạm. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Trong một số định nghĩa về tội phạm học đã nêu đã đề cập đến tính mục đích
của tội phạm học. Tội phạm học nghiên cứu tội phạm hiện thực, nguyên nhân
của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm hiện thực là nhằm mục đích
phòng ngừa tội phạm. Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học đã cho
thấy, các kết quà nghiên cứu thực nghiệm về các đối tượng nghiên cứu của
tội phạm học luôn hướng tới và phục vụ cho mục đích phòng ngừa tội phạm.
Những viện dẫn và phân tích nêu trên cũng đã làm rõ những đặc điểm khoa
học của tội phạm học. Tội phạm học không phải là khoa học đon ngành mà là
khoa học liên ngành và là khoa học thực nghiệm. Những tri thức khoa học
hợp thành tội phạm học được đúc kết từ các kết quả nghiên cứu - lấ những
kinh nghiệm từ quan sát, tìm hiểu về tội phạm trong thực tế như là hiện tượng
xã hội, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm - không thể không
dựa vào các ngành khoa học thực nghiệm liên quan đến con người và xã hội,
đặc biệt là tâm lý học và xã hội học. Đúng như một học giả đã khẳng định: Tội
phạm học không thể xuất hiện mà không có các khoa học liên quan. Được coi
là những khoa học thực nghiệm hay khoa học kinh nghiệm là những ngành
khoa học mà trong đó những đối tượng và nhừng sự việc của thế giới, ví dụ
như các hành tinh, động vật. cảc phương thức hành vi của con người được
nghiên cứu qua thực nghiệm (thí nghiệm), quan sát lĩnh vực hay thăm dò ý
kiến. Xem: Phân biệt giữa các khoa học thực nghiệm và các khoa học không thực nghiệm.
Trên cơ sở kế thừa được quan niệm truyền thống mà vẫn phù hợp với sự
phát triển của tội phạm học hiện đại và đảm bảo sự thống nhất tương đối với
các quan niệm khác nhau hiện nay về tội phạm học. có thể đưa ra định nghĩa
về tội phạm học như sau:
Tội phạm học là khoa học chuyên ngành, thực nghiệm nghiên
cứu về tội phạm (hiện thực), nguyên nhân của tội phạm và kiểm
soái tội phạm nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm.

Tóm lại, định nghĩa nêu trên đã bao quát các đặc điểm cơ bản của tội phạm học.
Thứ nhất là đặc điểm về đối tượng nghiên cứu độc lập của tội phạm học, bao
gồm tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm hiện thực;
Thứ hai là đặc điểm về khoa học liên ngành của tội phạm học;
Thứ ba là đặc điểm về khoa học thực nghiệm hay cũng có thể gọi là đặc điểm
về phương pháp nghiên cứu thực nghiệm của tội phạm học.
Thứ tư, là đặc điểm về mục đích phòng ngừa tội phạm của tội phạm học. Đây
là những đặc điểm để phân biệt tội phạm học với các ngành khoa học khác,
đặc biệt là các khoa học có liên quan đến tội phạm.
Document Outline

  • Tội phạm học là gì? Đối tượng nghiên cứu, đặc điểm
    • 1. Quan điểm thế giới về tội phạm học
    • 2. Quan điểm của Việt Nam về tội phạm học